MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
MỤC LỤC 2
CHƯƠNG I 3
LÝ LUẬN CHUNG 3
I. VẤN ĐỀ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT VÀ QUAN ĐIỂM VỀ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT . 3
1. VẤN ĐỀ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 3
2.QUAN ĐIỂM VỀ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT. 4
II.CHUYỂN ĐỔI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN ĐỔI RUỘNG ĐẤT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG. 6
1.KHÁI NIỆM VỀ CHUYỂN ĐỔI RUỘNG ĐẤT . 6
2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN ĐỔI RUỘNG ĐẤT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG . 6
CHƯƠNG II 10
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN ĐỔI RUỘNG ĐẤT VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNGHỒNG . 10
I. THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI RUỘNG ĐẤT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 10
II. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU RUỘNG ĐẤT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG . 20
1. NHỮNG KHÓ KHĂN VỀ CHUYỂN DICH CƠ CẤU RUỘNG ĐẤT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG . 20
2. GIẢI PHÁP VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU RUỘNG ĐẤT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG. 22
KẾT LUẬN 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề chuyển đổi ruộng đất ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iến.
Chủ trương mới trong nông nghiệp đã cho phép hộ xã viên được hưởng quyền làm chủ trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh, phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Vậy CNH,HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn phải được bắt đầu chính từ các hộ nông dân. Nhưng với diện tích ruộng đất quá nhỏ nhoi và những điều kiện đó các hộ nông dân sẽ khó khăn trong việc mở rộng sản xuất hàng hoá lớn.
Như vậy tình hình ruộng đất manh mún hiện nay đã cản trở quá trình tập trung ruộng đất để sản xuất chuyên môn hoá, tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ mới vào nông nghiệp , nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ (công nghiệp – nông nghiệp - dịch vụ). Do đó, đẩy nhanh quá trình tích tụ ruộng đất ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng là cần thiết. Đồng thời có tích tụ ruộng đất mới chuyển nhanh cơ cấu kinh tế, lao động theo hướng CNH, HĐH. Nghị quyết 10 của Bộ chính trị cũng đã khẳng định nông nghiệp nên đi theo hướng giỏi nghề gì làm nghề đó và luật đất đai năm 1993 đã cho phép người sử dụng ruộng đất được hưởng những “quyền” chuyển nhượng, thừa kế … tạo điều kiện cho việc tích tụ ruộng đất.
Chương II
Thực trạng và giải pháp chuyển đổi ruộng đất vùng Đồng Bằng Sông Hồng .
I. Thực trạng chuyển đổi ruộng đất ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng
Ruộng đất là mối quan tâm hàng đầu của người nông dân. Sự phát triển nông thôn của đất nước trứoc hết phụ thuộc vào mối quan hệ của người nông dân với ruộng đất và việc sử dụng có hiệu quả ruộng đất của các hộ nông dân trong phạm vi cả nước. Vì vậy, giải quyết các mối quan hệ ruộng đất trong điều kiện hiện nay ở nước ta có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong viêc phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá.
Vượt qua những bước thăng trầm trong qúa khứ, thực hiện công cuộc đổi mới, từ những năm cuối thập kỷ 80 đến nay, nông nghiệp và kinh tế nông thôn của nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật, tạo ra những bước chuyển biến quan trọng cũng như những thách thức mới về cục diện nông nghiệp và nông thôn . Một trong những thành tựu nổi bật, khởi sắc của nông nghiệp nước ta trong thập kỷ vừa qua là sức sản xuất trong nông nghiệp ,nông thôn đã thực sự được giải phóng. Từ một nền nông nghiệp công hữu với hai hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu là nông trường quốc doanh và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, với cơ chế quản lý đặc trưng là mệnh lệnh, hành chính tập trung, đang chuyển dần sang nền nông nghiệp gồm nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức kinh doanh, nhiều cách quản lý theo hướng sản xuất hàng hoá.
Nông nghiệp và kinh tế nông thôn có nhịp độ tăng trưởng khá, nhiều vùng nông thôn bước đầu đã được đổi mới, đời sống nông dân được cải thiện. Mức sống về vật chất tăng lên, các điều kiện sinh hoạt như nhà ở, đồ dùng gia đình, kết cấu hạ tầng như giao thông, điện, thuỷ lợi, y tế, trường học…ở một số vùng được phát triển mạnh
Chính sách mới về ruộng đất với nhưng nội dung cơ bản được quy định trong Luật Đất đai tháng 7 năm 1993 đã tạo cơ sở, tiền đề và có thể nói là trung tâm của mọi vấn đề trong giải quyết những nhiệm vụ cơ bản của nông nghiệp nông thôn. Kèm theo Luật Đất đai và những quy định về thuế nông nghiệp và các văn bản khác dưới luật có liên quan đã có tác dụng to lớn làm chuyển biến nền nông nghiệp, kinh tế nông thôn nước ta. Luật Đất đai năm 1993 đã khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý. Việc sử dụng đất đai được quy định : Nhà nước giao cho các tổ chức, hộ gia dình và các cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Người sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp và được bồi thường thiệt hại trong trường hợp đất đai bị thu hồi. Chính sách đất đai đã bước đầu phân định rõ vai trò và trách nhiệm của Nhà nước, xoá bỏ dần việc nhà nước hoá trong hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan tới ruộng đất. Cũng từ đó mà tăng cường quyền năng tối cao của nhà nước pháp quyền về quản lý đất đai, bảo vệ tài nguyên đất đai, bảo đảm ruộng đất được sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn, phù hợp với yêu cấu của quốc kế dân sinh.
Chính sách ruộng đất đã quy định trách nhiệm và quyền lợi của những người được giao quyền sử dụng đất. Các chủ sử dụng đất (các tổ chức kinh tế, hộ nông dân, tư nhân . . .)được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai lâu dài, có thể tự mình sắp xếp bố trí đất đai hợp lý để sản xuất ra những sản phẩm có hiệu quả kinh tế cao. Việc giao quyền sử dụng ruộng đất cho các hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ đã và đang từng bước khơi dậy tính năng động, giải phóng sức sản xuất, khôi phục sự gắn bó lâu đời giữa người với ruộng đồng, giữa người lao động với tư liệu sản xuất, từng bước họ vươn lên làm chủ cuộc sống, góp phần vào thực hiện mục tiêu nước giầu xã hội văn minh. Sự biến đổi về quan hệ ruộng đất cũng tạo ra cơ sở và động lực cho sự tự chủ cho người nông dân và trên cơ sở đó góp phần đân chủ hoá đời sống kinh tế ,xã hội nông thôn , xây dựng nông thôn mới.
Sự biến đổi về quan hệ ruộng đất trong những năm gần đây đã được quy định trong Luật Đất đai và các văn bản dưới luật có liên quan là cơ sở pháp lý, bước đầu tạo tiền đề cho việc xác lập ruộng đất là một yếu tố quan trọng vân động theo quá trình phát triển của sản xuất hàng hoá; đồng là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Cùng với xu hướng đó là các ngành đều có tốc độ tăng trưởng phù hợp, thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng mở rộng và tăng diện tích đất trồng các loại cây có gía trị kinh tế cao, giá trị hàng hoá lớn, trên cơ sở một nền nông nghiệp thâm canh và ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Việc thực hiện chính sách ruộng đất góp phần quan trọng chuyển đổi hình thức Hợp tác xã kiểu cũ chuyển sang phát triển kinh tế hộ, phù hợp với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, từng bước hình thành HTX đa dạng trên cơ sở yêu cầu và tự nguyện của nông dân, tác động mạnh mẽ đến việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt đông của các doanh nghiệp quốc doanh nông, lâm nghiệp.
Nói tóm lại, từ khi thực hiện Luật Đất đai (7/1993) đến nay, một mặt nhìn chung nông dân phấn khởi, yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, sử dụng ruộng đất có hiệu quả hơn, mặt khác qua đó khắc phục tình trạngbất hợp lý trong quan hệ ruộng đất, phát hiện và từng bước giải quyết những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, chiếm đoạt đất đai, giao đất bất hợp lý, nắm được quỹ đất đai để điều chỉnh cho hợp lý hơn.
Vùng Đồng Bằng Sông Hồng gồm 9 tỉnh và thành phố với 1251 km2, chiếm 3,8% tổng diện tích tự nhiên của cả nước, đân số toàn vùng có 14,8 (tr) người chiếm 19,39% tổng dân số, là nơi có mật độ dân số cao nhất cả nước (1182 người/km2). Vùng có nhiều lợi thế: tài nguyên đất đai đa dạng với 7 nhóm đất, trong đó đất phù sa chiếm 58,48% khí hậu phong phú, nguồn lao động dồi dào, trình độ dân trí tương đối cao, cần cù lao động, có truyền thống thâm canh lúa nước. Tuy nhiên, vùng Đồng Bằng Sông Hồng còn có nhiều hạn chế, đáng chú ý là quỹ đất không lớn, diện tích bình quân đầu người thấp. 1998 toàn vùng có 720747 ha đất nông nghiệp chiếm 56,9% tổng diện tích toàn vùng. Điều đáng lưu ý là diện tích đất canh tác hàng năm chiếm 86,15% diện tích đất nông nghiệp. Trong đó diện tích đất lúa, lúa màu chiếm 94,9%. Do mật độ dân số giữa các địa phương khác nhau dẫn đến tình trạng số nhân khẩu trên một ha đất nông nghiệp khác nhau ở huyện Gia Lâm (Hà Nội ) có 16,6 người/ha đất nông nghiệp, trong khi đó ở huyện Tiền Hải (Thái Bình) có 8,9 người/ha, ở huyện Vụ Bản (Nam Định) chỉ 3,8 người/ha. Từ sau đổi mới kinh tế, các hộ ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn đã phát triển trong các hộ vẫn giữ lại đất nông nghiệp mà họ không muốn từ bỏ ruộng đất. Hà Tây là tỉnh có nhiều làng nghề, ngành nghề truyền thống và ngành nghề mới, thế nhưng diện tích đất nông nghiệp của nhóm hộ chuyên tiểu thủ công nghiệp bằng 65,65% diện tích đất của hộ nông nghiệp, tương tự hộ thương mại bằng 31,14% hộ dịch vụ bằng 51,6%. Hộ phi nông nghiệp khác bằng 25,62%. Còn tình trạng này là do tâm lý của nông dân Việt nam rất gắn bó với ruộng đất, ngay cả khi họ đã chuyển sang hoạt động ngành nghề dịch vụ, nguồn thu nhập chính là từ hoạt động phi nông nghiệp.
Sau này có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4/1988).Việc giao đất cho xã viên được xác định: Có thời hạn, được giao quyền thừa kế, chuyển nhượng. Nhiều vùng của Đồng Bằng Sông Hồng thực hiện chủ trương chia quỹ đất giao khoán làm hai phần: Thứ nhất phần đất giao trong mức ổn định (phần đất giao vòng 1năm ) phù hợp với điều kiện thâm canh của các hộ xã viên, chủ yếu nhằm đảm bảo nhu cầu cơ bản về lương thực và có điều kiện thanh toán sản lượng khoán. Thứ 2 phần giao thêm trên mức ổn định (phần giao đất vòng 2 năm) là phần đất còn lại sau khi giao vòng 1 và phần đất bao gồm diện tích đầm, hồ lớn, thùng đào, thùng đấu.Phần đất này được giao cho hộ có khả năng về vốn, sức lao động, có kỹ năng sản xuất, kinh nghiệm quản lý… với mức sản lượng khoán cao hơn hoặc đưa ra đấu thầu. Luật Đất đai năm 1993 ban hành và được thể chế hoá bằng Nghị định 64 CP về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài, các địa phương trong vùng Đồng Bằng Sông Hồng đã triển khai thực hiện: Về giao đất, các tỉnh trong vùng đều dựa trên cơ sở giao đất cho hộ xã viên theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị. Một số xã thuộc một số tỉnh giao chưa phù hợp vớ Nghị định 64 CP đã tiến hầnh điều chỉnh: như Hải Dương, Hưng Yên có 151 xã chiếm 37% tổng số xã có sự điều chỉnh lại ruộng đất đã giao cho các hộ, về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do điều kiện kỹ thuật và điều kiện khác nên việc cấp giấy chứng nhận tiến hành chậm. Các tỉnh vùng Đồng Bằng Sông Hồng đã tìm các biện pháp khắc phục và tiến độ cấp giấy chứng nhận đảm bảo theo tiến độ chung của cả nước, trừ Thái Bình, ngoại thành Hà Nội có chậm hơn.
Theo số liệu điều tra năm 1999 của nhóm chuyên gia thuộc viện kinh tế ở 3 xã của vùng Đồng Bằng Sông Hồng: Xã Quyết Tiến, Kiến Xưong (Thái Bình) là xã thuần trồng lương thực, xã Nam Giang, Nam Trực (Nam Định) là xã có nghề cơ khí phát triển va xã Thanh Xuân, Thanh Hà (Hải Dương) phát triển mạnh cây vải thiếu truyền thống cho thấy ở ba xã này có quỹ đất nông nghiệp bình quân một hộ khác nhau, phương hướng sản xuất khác nhau và tình hình chuyển nhượng đất diễn ra cũng khác nhau. Xã Nam Giang có nghề truyền thồng phát triển, nguồn lao động bị thu hút vào phát triển ngành nghề và là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình, nhưng họ vẫn không bỏ ruộng, ở đây việc chuyển nhượng đất diễn ra không đáng kể. ở xã Quyết Tiến là nơi thuần nông trong đó chủ yếu là trồng lúa. Những hộ làm ăn giỏi, có kinh nghiệm sản xuất, trong đó một số hộ đã bắt đầu mua thêm đất để mở rộng sản xuất , tuy nhiên số hộ này chưa nhiều, mới có 31 hộ chiếm 17% số hộ điều tra. Nhưng ở xã Thanh Xuân là nơi đang phát triển mạnh cây vải thiều hàng hoá, và đem lại hiệu quả cao trên một đơn vị diện tích đang tạo ra động lực thúc đẩy các hộ có vốn, có kinh nghiệm sản xuất mua thêm đất đai đẻ phát triển cây vải thiều. ở đây đã có 113 hộ mua thêm đất chiếm 56,5% tổng số hộ điều tra trong khoảng thời gian từ 1990 trở lại đây, trong đó có 1,5% số hộ mua dưới 360m2 một sào bắc bộ, có 21% số hộ mua từ 360 – 720 m2 có 25,5% số hộ mua từ 720 – 1440m2 và có 8,5% số hộ mua từ 1440 – 7200m2 .những hộ mua đất phần lớn là những hộ có thu nhập cao. Nhóm hộ thứ nhất có thu nhập trên 300 ngàn đồng/khẩu/ tháng ở xã Thanh Xuân có 49 hộ, trong đó có 28 hộ mua thêm đất,chiếm 57,14%.Nhóm hộ thứ hai có thu nhập từ 180 – 300 ngàn đồng/khẩu/ tháng có 79 hộ, trong đó có 45hộ mua thêm đất, chiếm 56,98%. Nhóm thứ ba có mức thu nhập từ 100- 180 ngàn đồng/khẩu/tháng có 57 hộ, trong đó có 31 hộ mua thêm đát chiếm 54,38%.
Như vậy, việc chuyển nhượng đất đã xuất hiện ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng , nhưng chỉ tập trung ở những nơi sản xuất nông sản hàng hoá sôi động, họ tạo được nguồn nông sản hàng hoá có giá trị kinh tế cao, đem lại nguồn thu nhập lớn trên đơn vị diện tích đất nông nghiệp .
Ngoài hình thức chuyển nhượng, hình thức thuê, mượn, đấu thầu ruộng đất cũng đã xẩy ra ở Đồng Bằng Sông Hồng . Huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương có diện tích trồng rau tăng khá nhanh từ 1190 ha năm1991 tăng lên 1777 ha năm 1994 và lên 2398 ha năm 1996 . là huyện có 70% diện tích trên chân ruộng hai vụ lúa được đưa vào trồng vụ đông, trong đó cây rau đông chiếm tỷ trọng đáng kể . Số liệu điều tra của Bộ môn Hệ thống nông nghiệp –Viện Khoa học – Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam cho thấy, trong 5 nhóm hộ có mức diện tích đất canh tác đầu người từ 446m2/người ở nhóm thấp nhất đến 739 m2/ người ở nhóm cao nhất, riêng diện tích gieo trồng rau từ 370m2/người (nhóm 1)và 592m2 /người ( nhóm 5), trong đó diện tích trồng rau vụ đông thấp nhất – 370m2 /người chiếm 78,72% diện tích rau (nhóm 1) là cao nhất 530m2/người, chiếm 89,5% ( nhóm 5). Diện tích trông rau vụ đông một phần trên chân ruộng hai vụ lúa của gia đình và phần còn lại các hộ đã thuê, mượn đất của hộ khác. Đó là các hộ có vốn, có kinh nghiệm sản xuất để trồng các loại rau đông cao cấp.ở các làng nghề truyền thống phát triển , nguồn thu nhập từ ngành nghề tương đương cao và ổnđịnh nhưng họ không bỏ ruộng, trong đó một bộ phận cho các hộ khác thuê, mượn đất ngắn hạn để canh tác với tiền thuê đủ đóng thuế sử dụng đất, số còn lại tiếnhành thuê mượn lao động cầy bừa, câý hái với mục đích giữ lại ruộng đất mà họ không tính toán đến hiệu quả sử dụng đất. Một số hồ, đầm có diện tích tương đối lớn, các thùng đào, thùng đấu, các bãi pháo phòng không thời chống Mỹ . . . các địa phương tổ chức đấu thầu, người thắng thầu tiến hành cải tạo và đưa vào canh tác. Mặc dù là vùng đất chật, người đông, song trong những năm gần đây, dưới nhiều hình thức khác nhau ở Đồng Bằng Sông Hồng tập trung ruộng đất để phát triển kinh tế trang trại. Theo số liệu của tổng cục thống kê 1999 toàn vùng Đồng Bằng Sông Hồng có 4434 trang trại với 12357,7 ha đất, trong đó dất nông nghiệp có 1763,9 ha, riêng diện tích đất canh tác hàng năm có 613,9 ha, đất trông cây lâu năm có 1150 ha. Dất lâm nghiệp có 3410,9 ha, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản có7058,5 ha và có 124,4 ha đất khác, bình quân một trang trại có 2787 ha. Số liệu điều tra của Sở Nông nghiệp – PTNT Hải phòng 1997 với 625 trang trại, bình quân một trang trại có 9275 ha, trong đó 90,57% là diện tích đấu thầu số còn lại là diện tích chuyển nhượng , thuê, tự khai hoang và diện tích đất khác. Kinh tế trang trại ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng được hình thành trên cơ sở đấu thầu các diện tích hồ đầm nước, các thùng đào, thùng đấu, những nơi đất xấu muốn canh tác phải tiến hành cải tạo . . . được giao đất ở những vùng gò đồi, đất trống đồi trọc, chuyển nhượng đất ở những nơi sản xuất nông sản hàng hoá sôi động hoặc khai hoang ở các bãi bồi ven biển, ven sông.
Do dặc điểm về thời tiết – khí hậu cùng với những tiến bộ khoa học – công nghệ trong nông nghiệp , nhất là giống mới cho phép vùng Đồng Bằng Sông Hồng tăng thêm hệ số sử dụng ruộng đất với vụ gieo trồng mới. Ngoài vụ xuân, vụ mùa ra 30 năm lại đây vụ đông đã trở thành vụ sản xuất chính của vùng,trên chân ruộng hai vụ luấ có huyện đã đạt 70% vu đông trên chân ruộng hai vụ lúa. Tỷ trọng diện tích một vụ lúa (chiêm hoặc một vụ lúa mùa) giảm xuống nhờ cải tạo và đa lên sản xuất hai vụ, vì vậy mà hệ số sử dụng ruộng đất của vùng tăng lên, nếu năm 1985 vùng Đồng Bằng Sông Hồng mới đạt 1,85 lần đến năm 1998 tăng lên 2,22 lần. Trong đó Thái Bình đạt 2,46 lần, Hà Tây đạt 2,28 lần.
Để tăng khả năng quay vòng đất các hộ nông dân ở Đồng Bằng Sông Hồng đã thực hiện xen canh, gối vụ , tăng vụ phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm, cá làm thêm ngành, thêm nghề và dịch vụ. Nói chung các hộ nông dân đều tìm mọi cách để tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho gia đình.
Để giảm “sức ép” về đất vùng Đồng Bằng Sông Hồng cũng rất quan tâm tới di dân theo kế hoạch đến các vùng miền núi và Tây Nguyên. Song có phần sôi nổi hơn, nhiều người di dân theo tình trạng tự do vào các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội. Tốc độ tăng cơ học về lao động của Hà Nội khá cao, bình quân hàng năm tầm 1,5% tương đương 36000 người/năm, tỷ lệ này có xu hướng gia tăng. Nếu 1995 tốc độ tăng cơ học là 0,8%, năm1997 tăng lên 2.1%. Theo số liệu kiểm kê hộ khẩu của Sở Công an Hà Nội vào thời điểm 1/3/1999 có 233.965 người ngoại tỉnh cư trú trên địa bàn Hà Nội.
Trong quá trình chuyển dịch sang nền nông nghiệp hàng hoá vùng Đồng Bằng Sông Hồng đã xuất hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tích cực và đa dạng, kết hợp với nhiều biện pháp tạo việc làm, trong đó các chương trình quốc gia đã góp phần tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người nông dân trong vùng. Điều đáng nói hiện tượng hộ nông dân không có đất canh tác, hoặc phải cầm cố ruộng đất chưa xảy ra, đời sống của nông dân ngày càng được cải thiện tỷ lệ nghèo thấp và giảm nhanh. Tuy nhiên để giải quyết căn bản về việc làm và tăng thu nhập nhằm nâng cao đời sống cho nông dân vùng Đồng Bằng Sông Hồng cần phải thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng ruộng đất , nhất là coi trọng việc tập trung đất nông nghiệp vào tay những người sản xuất có đủ khả năng về vốn và năng lực quản lý, từng bước hình thành , xây dựng những mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả. Mở rộng và phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn, coi đó là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập cao và ổn định, trên cơ sở đó chuyển ruộng đất cho những người kinh doanh nông nghiệp giỏi. Tạo ra sự phân công lao độnh hợp lý ở nông thôn, từng bước thực hiện có hiệu quả CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Từ tình hình trên cho thấy Đồng Bằng Sông Hồng là vùng có ruộng đất vô cùng manh mún. 519,8m2/nhân khẩu, ở một số nơi con số này chỉ là 360m2 .Đặc biệt một số xã như Xuân Tiến, Xuân Thiện huyện Xuân Thuỷ tỉnh Nam Hà diện tích canh tác bình quân trên đầu người là 260m2. Bình quân diện tích trên đầu người có xu hướng bị thu hẹp hơn nữa, bởi hàng năm dân số vùng Đồng Bằng Sông Hồng vẫn tăng với tỷ lệ 2%. Tình trạng 20 người canh tác trên một ha ruộng đất như vậy thì dù có đạt năng suất
12 tấn/ha/ năm cũng chỉ phục vụ nhu cầu ăn chứ chưa có tích luỹ. Nhiều tỉnh ở Đồng Bằng Sông Hồng hộ có số mảnh ruộng cao nhất là 17 mảnh thấp nhất là 7 mảnh, lao động trong nông thôn dư thừa.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng đã và đang dược triển khai ỏ các địa phương . Tuy nhiên, một số nơi tiến hành còn chậm, đặc biệt đất đồi, đất rừng tình trạng “vô chủ” vẫn còn lớn. Việc giao đất, giao rừng hiện nay phổ biến vẫn mang nội dung “khoán rừng”. Do vậy gây trở ngại cho việc thực hiện hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ và chưa khai thác tốt tiềm năng của kinh tế hộ nông dân trong việc sử dụng có hiệu quả đất đai .
Quá trình đô thị hoá ở nứoc ta đang diễn ra mạnh mẽ. Quá trình đó diễn ra là tất yếu khách quan. Việc mở rộng các đô thị và hình thành các đô thị mới, một mặt tác động tích cực đến sản xuất, cơ cấu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các hộ nông dân, nhưng mặt khác lại làm cho quỹ đất nông nghiệp giảm xuống. Việc lấy đất để mở mang đô thị , để xây dựng cho đến nay vẫn chưa đủ cơ sở pháp lý và những quy định cụ thể trong quản lý đối với những diện tích thuộc loại đất đai đó. Vì vậy, nẩy sinh hiện tượng lấy đất tuỳ tiện, lấy đất không có quy hoạch hoặc không theo quy hoạch, mua bán đất tràn lan. Các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp (chủ yếu là lâm trường , nông trường) trong những năm qua đã có nhiều biến đổi phương thức và nội dung hoạt động, một số đã vươn lên hoạt động có hiệu quả. Tuy vậy việc quản lý và sử dụng đất cũng còn những hạn chế. Các doanh nghiệp nhà nước hiện còn sử dụng qua nhiều quỹ đất nông, lâm nghiệp trong khi đó nông dân ở nhiều nơi không có ruộng đất để sản xuất hàng hoá.
II. Những khó khăn và giải pháp về chuyển dịch cơ cấu ruộng đất ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng .
1. những khó khăn về chuyển dich cơ cấu ruộng đất ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng .
* Việc chuyển dịch cơ cấu ruộng đất là một quá trình phức tạp, nan giải, do những mâu thuẫn giữa tích tụ tập trung ruộng đất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả của việc sử dụng ruộng đất với quy mô ruộng đất của mỗi hộ nông dân quá nhỏ bé phân tán, manh mún đưa đến tình trạng phổ biến tự cấp tự túc; mâu thuẫn giữa yêu cầu thực hiện sự phân công lao động trong nông thôn nói riêng và trên phạm vi xã hội nói chung, để tạo điều kiện di chuyển lao động và vốn kinh doanh với việc người nông dân bị trói chặt vào ruộng đất.
Ruộng đất là tài nguyên vô cùng quí giá. vấn đề quan trọng là phải làm thế nào để nâng cao sức sản xuất của ruộng đất. Trong tình hình hiện nay, việc giao đất, sử dụng đất bình quân làm cho đất bị phân chia manh mún nhiều mảnh, điều dó gây cản trở cho quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất vào những người nông dân có vốn.
* Cho đến nay việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện sau khi đã hoàn thành và lập được bản đồ các thửa ruộng chính xác, nhưng công việc này đòi hỏi nhiều thời gian. Vì vậy việc cấp giấy chứng nhận thực hiện chậm. Tổng cục địa chính có chủ trương trên cơ sở kết quả đo đạc và bản đồ giác thửa cũ, nếu ruộng đất được giao không có sự tranh chấp thì có thể cấp giấy chứng nhận đến khi có tài liệu đo đạc lại chính xác, chỉ số đối chiếu, trường hợp khác biệt thì sẽ điều chỉnh lại. Việc cấp giấy chứng nhận hiện nay thực hiện trên cơ sở hiện trạng đất đai manh mún (Tỉnh Hà Tây đã giao 83. 422 ha đất cho 418.108 hộ nông dân, bình quân 10 – 15 thửa/hộ).
* Việc tích tụ tập trung ruộng đất sẽ dẫn đến tình trạng nhiều người nông dân bán, cho thuê ruộng đất để đi làm thuê. Do cung về lao động trong nông thôn dư thừa mà công ăn việc làm nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu về lao động, nên tình trạng lao động càng dư thừa nhiều dẫn đến tâm lý “phi nông bất ổn” người nông dân không muốn tách khỏi ruộng đất để đi làm việc khác, cản trở quá trình tích tụ ruộng đất.
* Hộ nông dân với tư cách là một đơn vị kinh tế tự chủ, là chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và được pháp luật bảo hộ. kinh tế hộ phải là những đơn vị sản xuất hàng hoá khác với chất so với hộ tự cấp tự túc trước kia, phải vươn lên thành những đơn vị kinh doanh tổng hợp trong các lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp và dịch vụ. Kinh tế hộ còn là những đơn vị tích tụ vốn, tài sản và các điều kiện khác để từng bước chuyên môn hoá, tạo thế phân công lao động, hình thành các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng trong nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự hướng dẫn của luật pháp và chính sách của Nhà nước. Do lịch sử để lại, xuất phát điểm của kinh tế hộ nông dân khi đi vào tự chủ ở trình độ rất thấp. Do vây, muốn tự chủ, kinh tế hộ phải vượt qua được những nhu cầu tất yếu như vấn đề ăn, mặc, ở, học tập đi lại và chi phí cho các mối quan hệ xã hội ở nông thôn . . . hộ tự chủ phải có các điều kiện cơ bản: vốn là khâu quyết định hàng đầu trong qua trình tái sản xuất, phát triển ngành nghề, dịch vụ…; khoa học và công nghệ hiện đại là khâu giữ vai trò quyết định đến năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh và cuối cùng là thị trường – khâu quyết định nhất đối với mở rộng hoặc thu hẹp sản xuất của hộ nông dân.
2. giải pháp về chuyển dịch cơ cấu ruộng đất ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng.
a, Những nguyên tắc về chuyển dich cơ cấu ruộng đất ở vung Đồng Bằng Sông Hồng .
Để khắc phục những khó khăn đó cũng như sự chuyển biến kinh tế xã hội trong những năm tới, những giải pháp về chuyển dịch cơ cấu ruộng đất ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng cần phải dựa trên những nguyên tắc sau:
* Để đáp ứng các yêu cầu trên ,phải làm hai việc: Về mặt hành chính đó là xử lý , chuyển đổi đất từ các thửa nhỏ, ở xa nhau thành những thửa có kích thước lớn, về mặt kỹ thuật, gắn liền với việc xử lý hình dạng, kích thước thửa ruộng là việc xây dựng hệ thống tưới, tiêu và san ủi mặt bằng. Việc chuyển đổi đất là một công việc rất phức tạp do quan hệ ruộng đất tạo lên,và việc chuyển đổi phải tiến hành đồn thời với một số biện pháp, công việc khác mới phát huy hiệu quả.
* Trước khi chuyển đổi đất phải xây dựng quy hoạch sử dụng ruộng đất nông nghiệp cho mục đích phi nông nghiệp, với yêu cầu ít nhất sau 10 năm kể từ khi xử lý không được thay đổi mục đích (do xử lý tốn kém và riêng đất nông nghiệp loại tốt thì không được chuyển mục đích). Việc quy hoạch đất nông nghiệp sử dụng vào muc đich phi nông nghiệp cũng nhằm mục đích kêu gọi đầu tư, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, giảm việc nông dân vào thành phố. Giới hạn tối đa cho diện tích này 30% toàn khu nông nghiệp .
* Việc chuyển đổi đất dựa trên nguyên tắc tương ứng về diện tích và giá trị với 3 điều kiện :
Đất phi nông nghiệp xen kẽ được chuyển đổi ra khu đất quy hoạch dành cho mục đích phi nông nghiệp.
Đất được chuyển đổi tương ứng với đất có sẵn về diện tích, vị trí, giá trị.Trong đó giá trị là yếu tố chính.
Mức tăng, giảm của từng người không quá 20%. Yêu cầu của một thửa ruộng sau khi chuyển đổi phải đật diện tích tích tụối thiểu là 500m2 lên 1000m2 sau vài năm lên 20
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35159.doc