Mục lục
Trang
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 2
NỘI DUNG CHÍNH 3
I. Cơ sở của việc nghiên cứu. 3
1. Cơ sở lí luận. 3
2.Cơ sở thực tế. 6
II.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. 6
1. Thành công trong công cuộc CNH –HĐH nông nghiệp, nông thôn. 6
2. Những hạn chế và nguyên nhân của công cuộc CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. 10
3. Vấn đề nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH-HĐH. 13
4. Hiện đại hoá giáo dục. 15
III. Giải pháp để tăng thắng lợi. 18
1. Đối với CHN - HĐH nông nghiệp, nông thôn. 18
2. Đối với vấn đề nguồn nhân lực. 22
3. Đối với vấn đề giáo dục 25
KẾT LUẬN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1818 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nông thôn vẫn chưa đáp ứng kịp yêu
cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nhiều nơi còn nhiều yếu kém. Hệ thống thủy lợi một số nơi còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất và dân sinh, nhất là trong điều kiện hạn hán, lũ lụt gay gắt. Nhiều công trình đầu tư không đồng bộ, quản lý kém nên xuống cấp, mới phát huy được 70% công suất thiết kế. Chất lượng đường giao thông nông thôn còn thấp, thiếu đường tới thôn bản, nhất là vùng núi. Việc giải quyết đủ điện cho sinh hoạt và phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nhiều vùng còn khó khăn; giá bán điện ở nông thôn còn cao. Vấn đề cấp nước sạch vẫn chậm được giải quyết, nhất là đối với miền núi và đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống chợ đã được cải thiện đáng kể, nhưng phân bố không đều; vệ sinh an toàn thực phẩm chưa bảo đảm, văn minh thương mại còn xa lạ đối với hầu hết chợ nông thôn. Hiện còn 293 xã của 18 tỉnh chưa có điện thoại đến trung tâm, hầu hết là những xã đặc biệt khó khăn.
Ðời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn ở nhiều vùng còn
khó khăn, chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động dư thừa nhiều. Thu nhập bình quân của dân cư nông thôn tăng chậm, hơn 90% hộ nghèo của cả nước tập trung ở khu vực nông thôn, chất lượng ăn, ở, khám, chữa bệnh của nông dân vùng sâu, vùng xa vẫn còn thấp, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao, số nhà tạm cần được cải thiện còn nhiều, tỷ lệ học sinh các bậc học cao còn thấp. Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo mới chiếm khoảng 12% (bằng 1/2 của cả nước), số lao động được đào tạo ít trở về nông thôn.
Việc phát triển nhanh các khu công nghiệp, khu đô thị nhưng chưa kết hợp chặt với giải quyết việc làm, đào tạo và chuyển đổi nghề cho người dân có đất bị thu hồi cho mục đích này, đã làm tăng thêm tình trạng bức xúc về việc làm, thu nhập và đời sống ở nhiều vùng nông thôn. Chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng. Nếu áp dụng chuẩn nghèo mới dự kiến tỷ lệ nghèo cả nước là 26-27%, riêng ở nông thôn lên 31%, miền núi lên hơn 50%, có nơi lên hơn 60% (vùng Tây Bắc).
Ðời sống văn hóa chậm được cải thiện, tệ nạn xã hội và tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều vùng nông thôn có chiều hướng gia tăng. Ðặc biệt là tội phạm lừa gạt, buôn bán phụ nữ, trẻ em gái và tệ nạn ma túy ngày càng diễn biến phức tạp. Do đời sống khó khăn và kém hiểu biết, việc lấy chồng nước ngoài của một bộ phận không nhỏ chị em phụ nữ ở Nam Bộ đang nảy sinh nhiều vấn đề xã hội rất phức tạp.
3. Vấn đề nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH-HĐH.
Trong thời đại hiện nay,những quan niệm về vai trò,vị trí của nguồn nhân lực trong phát triển liên tục thay đổi. Nếu như trước kia, người ta nhìn nhận vai trò của nguồn nhân lực chỉ đơn thuần là phương tiện, là một nguốn lực cho phát triển giống như những nguồn lực vật chất khác, thì ngày nay, sự nhận thức trên hoàn toàn khác. Con người, nguồn nhân lực đã thực sự trở thành mục tiêu của sự phát triển, với phương châm hành động “phát triển vì con người”.
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng của phát triển, có vị trí, vai trò đặc đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.Nguồn nhân lực tốt, chất lượng cao là tiền đề vững chắc và nhân tố quyết định đén tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, tăng năng suất lao động. Nguồn nhân lực tốt, nhất là nguồn nhân lực trìng độ cao đảm bảo chắc chắn trong việc đưa ra những quyết đinhj sáng suốt, đúng đắn đối với những đường lối, chủ trương, chính sách và phương thức thực hiện các quyết sách về phát triển hưng thịnh quốc gia. Đồng thời, góp phần quyết định sự hoàn thiện của hệ thống luật pháp và tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành công của việc xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nguồn nhân lực có trình độ cao là nền tảng vững chắc đảm bảo cho việc chuẩn bị tốt và thực hiện thành công quá trình hội nhập linh tế quốc tế và hợp tác quốc tế. Đồng thời, là cơ sở quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ giữ vững trật tự - an ninh xã hội, củng cố sức mạnh quốc phòng và bảo vệ vững chắc sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Cho đến nay hầu như chưa có một quan niệm thống nhất về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực. Tuỳ theo mục tiêu cụ thể mà người ta có những nhận thức khác nhau:
Tổ chức Giáo dục – Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO):
phát triển nguồn nhân lực được đặc trưng bởi toàn bộ sự lành nghề của dân cư trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO): khái niệm phát triển nguồn nhân lực
bao hàm một phạm vi rộng hơn chứ không chỉ trong phạm vi ngành nghề hoặc bao gồm cả việc đào tạo nối chung.
Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO): phát triển
con người một cách hệ thống vừa là mục tiêu vừa là đối tượng của sự phá triển cuă một quốc gia. Nó bao gồm mọi khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội như nâng cao khả năng cá nhân, tăng năng lực sản xuất và khả năng sáng tạo, bồi dưỡng chức năng chỉ đạo thông qua giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chức năng chỉ đạo thông qua giáo dục, đào tạo nghiên cứu và hoạt động thực tiễn.
Khái quát lại, nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc nào đó.
Bứớc vào CNH – HĐH, sự phát triển nguồn nhân lực nước ta đứng trước nhiều thách thức mới và nghiêm trọng.
Thứ nhất, quy mô nguồn nhân lực lớn và tiếp tục tăng nhanh, đồng thời với yêu cầu chuyển hướng mạnh sang đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng của sự phát triển đang tạo áp lực lớn về đầu tư cả về chiều rộng và theo chiều sâu cho phát triển nguồn nhân lực.
Thứ hai, yêu cầu tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, bền vững và chuyển dich mạnh cơ cấu theo hướng tiến bộ, năng suất, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế đòi hổi nguồn nhân lực phải có sự phát triển mạnh mẽ, thay đổi toàn diện về chất lượng.
Thứ ba, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với sự hình thành nền kinh tế tri thức với hàm lượng chất xám chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong mỗi sản phẩm, nhiều nguồn tin đa dạng, phong phú và dễ dàng tiếp cận đến tất cả mọi người, tác động toàn diện đến mọi mặt đời sống KT – XH, con người đòi hỏi nguồn nhân lực phải năng động, nhanh chóng nắm bắt những tri thức và tiến bộ khoa học – công nghệ mới,thích nghi với hoàn cảnh mới.
Thứ tư, quá trình hội nhập,hợp tác và toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng dồi hỏi nguồn nhân lực nước ta phải phát triển đến trình độ ngang tầm quốc tế nhằm vừa đáp ứng những yêu cầu mới thường xuyên thay đổi, đồng thời phải giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thứ năm, sự phát triển nền kinh tế thị trường XHCN vừa đòi hỏi có sự đổi mới không chỉ về một số nội dung của phát triển nguồn nhân lực, mà còn về phương thức phát triển nguồn nhân lực.
Thứ sáu, công cuộc cải cách hành chính nhà nước, đỏi mới quản lý kinh tế và xã hội diễn ra một cách sâu, rộng và toàn diện dặt ra những yêu cầu mới đối với sự phát triển nguồn nhân lực không chỉ riêng đối với những người làm công tác quản lý, mà cả trong nhận thức về hành vi, trách nhiệm và cách ứng xử của mọi người dân.
4. Hiện đại hoá giáo dục.
Năm học mới đã bắt đầu, năm học đầu tiên của thế kỷ 21. Giữa lúc suy thoái kinh tế và thất nghiệp đang đe doạ lan tràn khắp nơi, hầu hết các nhà trường trên thế giới văn minh vẫn tích cực bứơc vào hiện đại hoá giáo dục. Còn chúng ta thì sao ? có cần hiện đại hoá không và hiện đại hoá như thế nào, tương lai đất nước phụ thuộc một phần khá lớn vào lời giải đáp cho câu hỏi này.
Vì sao cần hiện đại hoá giáo dục?
Ai cũng biết dân ta tha thiết với việc học như thế nào. Vậy mà từ nhiều năm nay giáo dục của ta vẫn ì ạch, chưa thoát khỏi tình trạng lạc hậu, với những khó khăn bế tắc tự gây ra và nhiều chứng bệnh tiêu cực kéo dài quá lâu, không biết đến bao giờ mới chấm dứt được. Tâm trạng của người dân, như đã được phản ảnh qua các báo chí (Tuổi trẻ, Lao dộng, v.v.) nhân ngày khai giảng năm học mới, nói chung vẫn lo lắng nhiều hơn phấn khởi.
Mà không lo lắng sao được: trong một thế giới toàn cầu hoá, cạnh tranh gay gắt hơn bao giờ hết, nước nào cũng xem giáo dục là vũ khí chiến đấu chính. Có chăng chỉ chúng ta còn mơ hồ về sức mạnh của vũ khí này, mặc dù Hiến pháp đã ghi rõ giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Theo dự báo của một số học giả (tạp chí The Economist, 1993), nếu cứ như xu thế hiện nay thì đến khoảng 2020, sẽ có 9 trong 15 nước giàu có nhất hiện nay tụt xuống hàng những nước mà bây giờ ta gọi là đang phát triển. Ngược lại, một số quốc gia hiện chưa giàu có gì đặc biệt có thể vượt lên hàng những nước phát triển nhất. Trong cả hai trường hợp, yếu tố quyết định hàng đầu là giáo dục
Có người nghĩ đơn giản rằng người VN chúng ta thông minh, hiếu học, cần cù thì chẳng có gì đáng lo khi thế giới chuyển sang lấy tri thức làm nguồn lực phát triển chủ yếu. Nhưng kinh nghiệm hai mươi năm qua là một bài học đắt giá: chúng ta càng tự nhận thông minh không kém bất kỳ ai thì càng tụt hậu dài dài trong nhiều lĩnh vực khoa học, giáo dục, ngay cả so với những nước chẳng phải xuất sắc gì trên thế giới. Nói ra đáng tủi hổ nhưng là sự thật, chỉ có các học vị, học hàm rởm, những TS,VS giấy, những chức vị hư danh thì không nước nào trên thế giới sản xuất nhanh, nhiều, rẻ bằng ta. Mà khi những thứ này tràn ngập xã hội thì còn chỗ đâu cho trí tuệ chân chính phát triển.Với một nền giáo dục yếu kém, chắc chắn kinh tế sẽ mất sức cạnh tranh. Các nước ASEAN vừa qua đã nhận định đúng đắn rằng vấn đề trung tâm hiện nay là nâng cao chất lượng và trình độ nhân lực. Dĩ nhiên muốn thực hiện điều này không có cách nào khác là nâng cấp, hiện đại hoá giáo dục, để đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn kinh tế tri thức.
Giáo dục trong thế kỷ 21
Như vậy, hiện đại hoá giáo dục là nhiệm vụ cấp bách nếu chúng ta không muốn bị thua thiệt khi hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Vấn đề là hiện đại hoá như thế nào và bằng cách nào ?
Để trả lời câu hỏi này trước hết cần hình dung những nét chính, những yêu cầu của đời sống trong xã hội văn minh ở kế kỷ 21.
Như đã rõ, xu hướng chung của thế giới ngày nay là tiến tới toàn cầu hoá và kinh tế tri thức, dựa trên nền tảng sáng tạo khoa học và công nghệ. Đó là một thế giới đang trong quá trình thay đổi cực nhanh, cả về cuộc sống vật chất và văn hoá, theo từng đợt sóng cách mạng công nghệ liên tiếp, dồn dập như trước đây chưa hề thấy, dễ dàng bỏ lại hay nhận chìm các quốc gia không vượt qua được, không thích ứng nổi, hoặc thích ứng chậm với những đợt sóng ấy. Về phương diện liên quan trực tiếp đến giáo dục, đợt sóng mới về công nghệ thông tin, đặc biệt là số hoá và đa truyền thông không dây, sẽ có ảnh hưởng lớn lao đến quá trình phổ biến, tiếp thu, xử lý, vận dụng và sáng tạo tri thức. Cho nên nói đến giáo dục thế kỷ 21 là nói đến một nền giáo dục đặt trên cơ sở thích ứng với những điều kiện, khả năng và nhu cầu phát triển đó của xã hội mới.
Đối với dân tộc ta, muốn thực hiện các mục tiêu cơ bản: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cũng không thể tách rời các xu thế chung của thời đại.
Trong bối cảnh đó, nhiều người khi nói tới hiện đại hoá giáo dục thường chỉ nghĩ đến việc vận dụng các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, trong giảng dạy và học tập. Điều này đương nhiên quan trọng, song cái chính chưa phải ở đó. Cái chính là thay đổi tư duy giáo dục, xác định lại quan niệm về mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường, từ đó thay đổi cung cách dạy, học, và phưong pháp, nội dung, tổ chức và quản lý giáo dục, nhằm xây dựng một nền giáo dục phù hợp hơn với yêu cầu của xã hội và cuộc sống trong kỷ nguyên kinh tế tri thức.
III. Giải pháp để tăng thắng lợi.
1. Đối với CHN - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Ðể thực hiện thắng lợi mục tiêu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đạt được bước chuyển biến quan trọng về phát triển bền vững. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Hiện nay và trong nhiều năm tới, đối với nước ta vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn và đa dạng, phát triển nhanh và bền vững với năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; bảo đảm an ninh lương thực cho đất nước và tạo điều kiện để hình thành nền nông nghiệp sạch. Ðẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Một số nội dung chủ yếu cần tập trung sức chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả là:
Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh
tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao; phát triển mạnh chăn nuôi với tốc độ và chất lượng cao hơn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất, bảo quản và chế biến; khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, tự phát. Tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp theo hướng: phát huy lợi thế tự nhiên của từng vùng, lợi thế kinh tế của từng loại cây trồng, con gia súc, tăng tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ; hình thành vùng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường và công nghiệp chế biến, bảo đảm hiệu quả bền vững và an ninh lương thực quốc gia.
Trên cơ sở quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, các địa phương cần rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội (giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trạm y tế, chợ, bưu chính - viễn thông, cụm đô thị ở nông thôn,...) phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch kế hoạch sử dụng đất của địa phương để có sự quản lý thống nhất, đồng bộ trên địa bàn. Khẩn trương hình thành trung tâm tư vấn hỗ trợ nông nghiệp (thị trường, giá cả, thành lập doanh nghiệp nông nghiệp, xúc tiến thương mại,...). Rà soát bổ sung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhất là đất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, cụm công nghiệp và làng nghề nông thôn. Khẩn trương hoàn thành đề án quy hoạch nông thôn phù hợp quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và giữ được nét đặc thù của nông thôn Việt Nam.
Tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường, coi trọng và phát triển
thị trường trong nước, tổ chức tốt việc tiêu thụ nông, lâm sản, thủy sản cho nông dân. Tổ chức sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện Quyết định số 80/2002/QÐ-TTg ngày 6-12-2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng, trên cơ sở đó có giải pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc nhất là cơ sở pháp lý để thực hiện cam kết hợp đồng tiêu thụ nông sản giữa người sản xuất với doanh nghiệp. Chỉ đạo các doanh nghiệp nhà nước, hiệp hội ngành hàng triển khai có hiệu quả chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm đã được phê duyệt. Nghiên cứu chính sách bảo hiểm cho sản xuất lương thực.
Ðưa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là việc nghiên cứu
và chuyển giao khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng giống cây trồng, giống vật nuôi, kỹ thuật canh tác và môi trường, công nghệ sau thu hoạch; ứng dụng mạnh công nghệ sinh học và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao; nâng cao khả năng phòng ngừa và khắc phục dịch bệnh đối với cây trồng, vật nuôi. Ðổi mới cơ chế quản lý khoa học (quản lý tài chính, nhân lực) trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm tăng cường gắn kết giữa các đơn vị nghiên cứu với hệ thống khuyến nông nhằm nâng cao hiệu quả nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ. Ưu tiên bố trí nguồn vốn sự nghiệp khoa học để triển khai các chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ phục vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Chuyển giao nhanh các loại giống tốt về cây trồng, vật nuôi, tập trung vào các loại cây trồng, vật nuôi có lợi thế, có thị trường; tiếp tục triển khai có hiệu quả chương trình giống cây trồng, giống vật nuôi. Tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y (bao gồm thủy sản), bảo vệ thực vật, quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và hợp
tác xã đầu tư phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông, lâm thủy sản. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh và có hiệu quả kinh tế hộ và kinh tế trang trại. Chú trọng củng cố và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, trước hết, tổ chức chỉ đạo triển khai có kết quả Luật Hợp tác xã năm 2003 và các Nghị định hướng dẫn Luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế hợp tác, hợp tác xã. Khẩn trương hoàn thành việc sắp xếp lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả của các nông, lâm trường quốc doanh. Cổ phần hóa và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước sản xuất, chế biến nông lâm thủy sản, gắn lợi ích người sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế biến.
Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, và đa dạng hóa các nguồn
vốn để tiếp tục đầu tư phát triển mạnh hơn cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Ưu tiên nâng cấp và xây dựng mới các hệ thống thủy lợi đồng bộ, đi đôi với đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý để bảo đảm an toàn về nước. Củng cố hệ thống hồ đập, kè ven sông, ven biển; nâng cấp các hệ thống cảnh báo, chủ động phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường nước. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô-tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển đường ô-tô tới thôn bản; bảo đảm hơn 90% số dân cư nông thôn có điện sinh hoạt; hơn 75% số dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch.
Rà soát bổ sung, điều chỉnh chính sách về đất đai, thuế, tín dụng,
đầu tư... nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện việc hình thành các khu và cụm công nghiệp, cụm làng nghề ở nông thôn để thu hút các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ sử dụng nhiều lao động và nguồn nguyên liệu từ nông, lâm thủy sản. Sớm có phương án rà soát, đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay, nhất là ô nhiễm nguồn nước để có kế hoạch khắc phục, đồng thời có biện pháp kiểm soát phòng, chống ô nhiễm môi trường tại các cụm công nghiệp, cụm làng nghề và các đô thị mới hình thành ở nông thôn.
Tập trung giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho nông dân và cho lao
động nông thôn, đặc biệt quan tâm giải quyết việc làm và thu nhập cho nông dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn. Có chính sách trợ giúp thiết thực để đẩy mạnh đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn, đáp ứng cho yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và tìm việc làm ngoài khu vực nông thôn, kể cả đi lao động ở nước ngoài.
Tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho chương trình xóa đói giảm nghèo, trợ
giúp thiết thực cho các vùng và cộng đồng dân cư còn nhiều khó khăn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống khuyến nông, nâng cao dân trí và có chính sách tín dụng cho người nghèo từng bước vượt qua khó khăn, thoát nghèo và nâng cao mức sống một cách bền vững. Tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách đặc biệt để trợ giúp điều kiện sản xuất và nhà ở cho đồng bào các dân tộc thiểu số đời sống còn nhiều khó khăn.
Tập trung đầu tư để hoàn thành cơ bản chương trình kiên cố hóa
trường học, thực hiện tốt hơn chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng; thực hiện ngày càng có nền nếp và chất lượng về quy chế dân chủ ở nông thôn; đẩy mạnh phong trào xây dựng làng xã văn hóa, nâng cao chất lượng hoạt động các thiết chế văn hóa ở cơ sở giữ gìn và phát triển truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ chiến lược, có tầm quan trọng đặc biệt hàng đầu của toàn Ðảng, toàn dân ta, cả trước mắt cũng như lâu dài. Không thể đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong khi chưa thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Và đây cũng là khát vọng chính đáng của đông đảo đồng bào ta ở nông thôn và của cả dân tộc ta. Các bộ, ngành, các địa phương phải đề cao trách nhiệm của mình, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đạt kết quả cao nhất để góp phần tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng đại này của đất nước
2. Đối với vấn đề nguồn nhân lực.
Phát triển nguồn nhân lực bao gồm hầu hết những nội dung và giải pháp tác động đến quá trìng tăng cường năng lực của từng người và tổ chức, quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn năng lực đó cho phát triển. Đó là những lĩnh vực và chính sách về điều tiết dân số, sức khoẻ và dinh dưỡng, giáo dục và đào tạo, việc làm và thu nhập, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân...Do đó, nội dung phát triển nguồn nhân lực phải bao gồm đồng bộ cả 3 mặt chủ yếu:
Tăng cường thể lực.
Phát triển trí lực và kĩ năng.
Tạo môi trường làm việc và đãi ngộ thoả đáng cho con người.
Cả 3 mặt này có quan hệ mật thiết với nhau,phụ thuộc vào nhau và xâm nhập lẫn nhau cho nên phải được giải quyết một cách đồng bộ.
Căn cứ vào nội dung phát triển nguồn nhân lực, những lĩnh vực tác động của chính sách phát triển nguồn nhân lực trong quản lý nguồn nhân lực ở cấp vĩ mô có thể được phân theo 7 nhóm lớn:
2.1. Chính sách bảo vệ và tăng cược thể lực nguồn nhân lực.
Đó là những chính sách chăm sóc, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho mọi người dân nhằm tạo dựng nên những thế hệ người Việt Nam cân đối, cường tráng không thua kém thế giới, đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện con người và thực hiện công cuộc CNH – HĐH.
2.2. Chính sách phát triển trí lực và kĩ năng của nguồn nhân lực.
a) Chính sách phát triển giáo dục cơ bản.
Giáo dục cơ bản tạo nền móng cần thiết ban đầu, là tiền đề cân thiết cho cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Chính sách phổ cập giáo dục là trọng tâm và trở thành một trong những chính sách phát triển nguồn nhân lực của nhiều quốc gia trên thế giới.
b) Chính sách phát triển đào tạo nguồn nhân lực (phát triển kĩ năng)
Chính sách về quy mô đào tạo: diều tiết quy mô đào tạo chung và của từng cấp độ đào tạo khác nhau, theo đó có thể khuyến khích mở rộng hoặc thu hệp quy mô đào tạo.
Chính sách về cơ cấu đào tạo: đièu tiết 2 loại hình cơ cấu đào tạo là cơ cấu về trình độ đào tạo và cơ cấu ngành nghề đào tạo.
Chính sách tài chính trong phát triển đào tạo nguồn nhân lực: có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong quản lý phát triển nguồn nhân lực. Nội dung chủ yếu: (1) Đa dạng hoá các nguồn tài chính nhằm huy động ngày càng nhiều và đa dạng các nguồn tài chính cho phát triển đào tạo; (2) Ưu tiên tăng nhanh chi ngân sách nhà nước cho phát triển đào tạo nguồn nhân lực; (3) Lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên để phân bổ các nguồn tài chính cho phát triển đào tạo nguồn nhân lực.
2.3. Chính sách thu hút và sử dụng lao động (chính sách việc làm)
Đây là nhóm chính sách tác động trực tiếp nhất đén quá trình quản lý nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
Nhóm chính sách vĩ mô về việc l àm
+)Chính sách đa dạng hoá việc làm và theo đó là đa dạng hoá các nguồn vốn và chủ thể tạo việc làm.
NHà nước không phải là nguồn và chủ thể duy nhất tạo việc làm, tất cả các thành phần kinh tế và mọi ngưới dân cùng tạo việc làm cho người lao động.
+)Chính sách khuyến khích, hỗ trợ tạo việc làm
NHà nước chủ động và tích cực trực tiếp tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trong đó ưu tiên các ngành có tác dụng kích thích và lan toả tác động đến các thành phần kinh tế khác tạo việc làm và chính sách hỗ trợ các thành phần kinh tế, mọi người dân tự tạo việc làm cho minh và cho mọi người.
+)Chính sách về cơ cấu việc làm
Thông qua chính sáh đầu tư, Nhà nước trực tiếp đầu tư và có những giải pháp khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư để tạo việc làm sẽ có ý nghĩa quyết định và tác động liên ngành, liên vùng nhằm tạo ra sự chuyển dịch tiến bộ về cơ cấu việc làm với 3 hình thức chính là cơ cấu việc làm theo ngành (chuyển từ lao động nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp), Cơ cấu việc lam theo trình độ trang bị kĩ thuật (chuyển dịch từ lao động thủ công là chính sang lao động cơ giới hoá và tiến tới tự động hoá) và cơ cấu việc làm theo khu vực lãnh thổ (Chủ yếu là chuyển từ lao động nông thôn sang lao động thành thị với kiểu sống, lối sống thành thị và với kĩ năng, hiệu quả và năng suất cao hơn).
b)Nhóm chính sách điều tiết quan hệ và điều kiện lao động.
Nhằm điều tiết quan hệ và diều kiện lao động(hình thức và phương pháp giao kết hợp đồng lao động, trả công lao động....)
c)Chính sách thị trường lao động
Đây là nhóm chính sách đặc biệt vì nhằm kích thích, điều tiết phát triển thị trường lao động phục vụ lợi ích chung và lợi ích của người lao động.Các chính sách lao động và việc làm của Nhà nước ngày cang bao quát rộng hơn đến toàn bộ lực lương lao động trong xã hội và từng bước áp ứng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35912.doc