LỜI CẢM ƠN: Trang 1,2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài Trang 3
2. Lịch sử vấn đề Trang 3
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Trang 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu Trang 4
2.2. Phạm vi nghiên cứu Trang 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu Trang 5
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trang 5
5. Phương pháp nghiên cứu Trang 6
6. Cấu trúc của bài tập Trang 6
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1. Cơ sở lí thuyết thể loại Trang 8
1.1. Cách hiểu về kịch Trang 9
1.2. Cách hiểu về hài kịch Trang 9
2. Cơ sở phương pháp
2.1. Phương pháp đọc hiểu Trang 16
2.2. Phương pháp dạy học Trang 8
CHƯƠNG II: ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC
1. Tác giả
1.1. Thân thế, sự nghiệp Trang 19
1.2. Con người và phong cách sáng tác Trang 20
1.3. Thời đại Môlie sống Trang 22
2. Tác phẩm
2.1. Xuât xứ, tóm tắt tác phẩm Trang 23
2.2. Phân tích nội dung văn bản Trang 23,24,25
CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC
1. Thiết kế bài giảng Trang 27
2. Khảo sát kết quả Trang 46
PHẦN KẾT LUẬN Trang 50,51
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3930 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề dạy học và đọc hiểu hài kịch Mô-Li-E theo chương trình THCS mới qua trích đoạn "Ông Giuốc-Đanh mặc lễ phục" từ vở kịch "trưởng giả học làm sang", để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i hiện hình ảnh. Cảm xúc bắt đầu từ đọc và được tư duy phát triển trong quá trình đọc. Nhập thân vào tác phẩm chỉ có thể bắt đầu từ đọc diễn cảm. Đọc kích thích quá trình tâm lý cảm thụ, tri giác tưởng tượng, xúc cảm. Đọc đưa người đọc vào thế giới của tác phẩm.
Việc đọc tác phẩm văn học khác với việc đọc các tác phẩm khoa học. Người đọc phải làm sống dậy những tình cảm, tư tưởng của tác giả gửi gắm vào tác phẩm qua sư đồng cảm của người đọc. Đồng thời người đọc phải truyền cảm xúc đến cho người nghe. Chính vì vậy trong quá trình đọc, người đọc phải xác lập được không khí giao hoà, giao cảm giữa người nghe và tác giả. Người đọc truyền đến cho người nghe điều nhà văn gửi gắm cho bạn đọc. Nếu không làm được điều này thì việc đọc sẽ không có ý nghĩa .
Ngữ điệu trong đọc diễn cảm thay đổi tuỳ theo giọng điệu của nhà văn mà người đọc phải thể hiện được. Bằng sức mạnh riêng của đọc diễn cảm, người giáo viên dẫn dắt học sinh đi vào thế giới của tác phẩm một cách dễ dàng, phù hợp với quy luật cảm thụ văn học. Tuỳ theo yêu cầu, giáo viên có thể đọc dưới nhiều hình thức, nhiều mức độ khác nhau: đọc cả bài, đọc từng đoạn, đọc để gây không khí, đọc đẻ gợi cảm xúc...Đọc diễn cảm tuy có khả năng khơi gợi rung động thẩm mĩ, trí tưởng tượng và nhiều năng lực cần thiết của tư duy nghệ thuật của học sinh. Tuy nhiên nếu chỉ đọc diễn cảm không thì học sinh chưa thể đi sâu vào bên trong tác phẩm. Vì vậy, đọc diễn cảm phải đươc phối hợp chặt chẽ với các phương pháp khác để giúp học sinh hiểu và cảm thụ tác phẩm một cách đúng đắn.
Tóm lại việc đọc diễn cảm phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Giản dị tự nhiên.
- Thâm nhập vào nội dung, tư tưởng nghệ thuât, của các tác phẩm ở mức độ dễ hiểu với học sinh ở các lứa tuổi.
- Truyền đạt rõ ràng tư tưởng của tác giả.
- Thể hiện rõ ràng tư tưởng của tác giả.
- Thể hiện rõ trình độ tiếp nhận của mình đối với tác phẩm được đọc.
- Thái độ tiếp xúc nhiệt tình với người nghe
- Phát âm rõ ràng, chính xác.
- Truyễn đạt được đặc điểm thể loại và phong cách tác phẩm.
- Kỹ năng sử dụng đúng giọng nói của mình.
2.2.1.2. So sánh trong phân tích văn học.
So sánh trong giảng dạy văn học đã trở thành một phương pháp có hiệu lực và khá quen thuộc. Tuy nhiên, trên thực tế gỉảng dạy văn học không phải thiếu những hiện tượng lạm dụng so sánh. Chính vì vậy việc so sánh luôn được xác định trên cớ sở những nguyên tắc chặt chẽ.
So sánh văn học không được lấy nội dung so sánh thay thế cho việc khám phá, phân tích tác phẩm. So sánh chỉ là phương tiện, là con đường đi vào tác phẩm. Những liên hệ so sánh ngoài tác phẩm không được làm "đứt mối" với đường dây chủ đề của tác phẩm, nếu không rất dễ đưa ra những bình luận không có căn cứ.
Khi so sánh cần phải tôn trọng chỉnh thể của bài văn. Người phân tích không được tách, chọn một từ ngữ, một chi tiết, một hình ảnh ra khỏi chỉnh thể để so sánh với những yếu tố ít nhiều có liên quan đến tác phẩm rồi bình luận một cách chủ quan, xa rời chủ thể tác phâm.
So sánh là một trong những phương pháp hữu hiệu trong phân tích văn học và cũng được khẳng định, hoàn thiện trong thực tiễn nghiên cứu, giảng dạy văn học làm sao cho việc phân tích, giảng dạy văn học vừa có được tính khoa học vừa nghiêm ngặt, vừa có tính nghệ thuật đậm đà.
2.2.1.3. Phân tích nêu vấn đề.
Dạy học nêu vấn đề là một hoạt động sáng tạo, song song với việc lĩnh hội tri thức là sự phát triển những năng lực sáng tạo ở học sinh. Thực tiễn cho thấy kiến thức sẽ được lĩnh hội vững chắc nếu con người trải qua suy nghĩ, có vượt qua khó khăn để tìm hiểu. Dạy học nêu vấn đề dựa vào nguyên tắc trên. Theo đó, kiến thức sẽ không được đưa đến dưới hình thức có sẵn mà thông qua tình huống có vấn đề đặt ra trước học sinh. Học sinh dưới sự giúp đỡ của giáo viên nắm được nôi dung bộ môn, phương thức học sinh tập và phát triển ở mình những phẩm chất cần thiết để sáng tạo trong khoa học và trong đời sống.
Một giờ dạy văn muốn mình thành công nhất thiết phải xây dựng được một hay nhiều tình huống có vấn đề và được học sinh tiếp nhận môt cách có ý thức. Tạo được tình huống có vấn đề và được học sinh tiếp nhận một cách có ý thức. Tạo dược tình huống có vấn đề và được một trạng thái tâm lí cần thiết để mở đầu cho quá trình giảng văn đạt được hiệu quả mong muốn.
Tình huống có vấn đề là gì? Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau, so về cơ bản có thể hiểu đó là một trạng thái tâm lý cần thiết để mở đầu cho quá trình giảng văn đạt được hiệu quả mong muốn.
Muốn xây dựng được một tình huống có vấn đề phải biết xây dựng được một hện thông câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo các yeu cầu sau:
- Câu hỏi nêu vấn đề thường gợi lên những mâu thuẫn giữa cái đã biết với cái chưa biết, giữa cái cũ và cái mới trong nhận thức của học sinh với tác giả, giữa học sinh với nhau về một vấn đề trung tâm nào đó trong tác phẩm.
- Câu hỏi nêu vấn đề cần phải định hướng vào những vấn đề khái quát.
- Câu hỏi nêu vấn đề phải mang tính hệ thống liên tục làm thành một chuỗi những liên hệ nối tiếp nhau trong một hệ thống vấn đề, phản ánh được bản chất nội dung và nghệ thuậh của tác phẩm.
Câu hỏi phải sát với tác phẩm và khêu gợi hứng thú cho học sinh, Giáo viên cần xác định được câu hỏi vừa phản ánh bản chất cuả tác phẩm vừa nằm trong tầm cảm nghĩ của học sinh. Mất đi một trong hai tính chất đó câu hỏi không còn giá trị nêu vấn đề nữa.
2.2.1.4. Gợi mở
Phương pháp gợi mở không phải là phương pháp mới. Phương pháp này có những khả năng riêng biệt mà các phương pháp khác không có được. Bằng con đường đàm thoại gợi mở, giáo viên tạo ra cho lớp học một không khí tự do tư tưởng, tự do bộc lộ những nhận thức trực tiếp của mình. Những tín hiệu trực tiếp phản hồi được báo lại cho giáo viên một cách kịp thời trên lớp khi học. Quan đàm thoại, giáo viên hỏi cụ thể con người học sinh hơn như hiểu được tính cách, phẩm chất trí tuệ, tâm hồn tình cảm, phong cách con người...Năng lực làm việc độc lập, óc tìm tòi suy nghĩ , thói quen giao tiếp xã hội của học sinh được phát huy một cách tích cực.
Phương pháp gợi mở giảng dạy văn chủ yêu được thông qua hệ thống câu hỏi, toạ điều kiện cho hoạt động song phương giữa thầy và trò để từmg bước đi vào tác phẩm văn học. Các câu hỏi đàm thoại phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phải chính xác, rõ ràng, phải có màu sắc văn học, có khả năng khêu gợi tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh.
- Phải vừa sức với học sinh, thích hợp với khuân khỏ một giờ lên lớp, phải có khe năng gợi vấn đèm suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo cho học sinh.
- Phải xấy dựnh hệ thống logic có tính toán, giúp học sinh htừng bước đi ssâu vào tác phẩm như một chỉnh thể.
- Cần có sự kết hợp cân đối giữa loại câu hỏi cụ thể và loại câu hỏi tổng hợp gợi vấn đề. Câu hỏi có khi theo lô gic diễn dịch, có khi theo cách quy nạp h\nhưng đèu nhằm cung cấp cho học sinh một hệ tghống kiến thức vững chắc.
- Câu hỏi chung phải có căn cứ vào đặc điểm nội dung và nghệ thuật tác phẩm nhưng vẫn phẩi đảm bảo mục đích: làm cho học sinh hiểu tác phẩm.
2.2.1.5. Giảng bình.
Giảng bình là những việc làm khá quen thuộc đối với nhiều giáo viên dạy văn. Mục đích của người giảng bình là làm sao truyền được hiểu biết , rung cảm của mình về tác phẩm văn chương đến với người nghe để người nghe cũng rung cảm và hiểu tác phẩm một cách đúng đắn, sâu sắc. Đây là việc làm hết sức khó khưn, vì vậy nó đòi hỏi có nhiều nguyên tắc nhất định trong bình giảng. Dưới đây là một số ngyuên tắc đó:
- Người bình phải am hiểu sâu sắc về tấc phẩm đến độ biến thành rung động, cảm xúc, tình cảm chủ quan mới có khả năng gây hứng thú và rung cảm cho người nghe. Giáo viên giảng bình không để cho tiếng nói của mình lấn át tiểng nói của nhà văn, nhà thơ mà phải giúp nhà văn, thơ đưa tiếng nói đến với ngời nghe một cách nhanh nhậy, sâu lắmg.
- Người bính pahia lựa chọn những chi tiết những điểm đáng bình nhất để tạo cho học sinh một ấn tượng.
- Kết hợp nhuan nhuyễn giữa giảng và bình. Giảng mà không bình thì ý khô khan, bình mà không có giảng thì dễ miên man xã vời. Có khi giảng cho hiểu từ hiểu được rồi mới thấm lời bình. Có thể nói nhờ giảng mà lời bình thêm sâu sắc hơn.
Phương pháp dạy học văn có rất nhiều. Tuy nhiên, không có phương pháp nào là vạn năng là tối ưu, mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng. Chính vì vậy, mà mỗi người giáo viên khi lên lớp cần kết hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp phát huy tối đa những ưu điểm và hạn chế nhược điểm của từng phương pháp dạy học sao cho giờ học văn trở lên hấp dẫn, sôi nổi gây được hớng thú cho học sinh bên cạnh đó các phươg pháp dạy học cũng cần có sự kết hợp hài hoà với phương pháp đọc, hiểu theo hướng tíchg hợp và tích cực.
2.2.2. Phương pháp dạy học kịch trong trường THCS.
Ngoài việc sử dụng kết hợp các phương pháp trên, còn cần lưu ý đến một số những nguyên tắc chung khi dạy học kịch nói chung và hái kịch nói riêng:
- Cần xác định được hành động kịch, hành động nào là cao trào, thắt, mở nút.
- Xác định xung đột kịch của các tuyến nhân vật trong tác phẩm.
- Chú ý vào những lời giới thiệu trước khi chuyển cảnh, bắt đầu một chảnh mới.
- Trong khi dạy nên cho học sinh đọc phân vai ở lớp (với điều kiện tất cả học sinh đã đoc văn bản ở nhà).
Chương II
Định hướng đọc - hiểu
1. Tác giả.
1.1. Thân thế sự nghiệp.
Mô -li -e tên thật là Jăng Baptixtơ Pôcơlanh, sinh ngày 16 thán 1 năm 1662 tai Pari trong một gia đình thị dân được nhiều ân sủng của nhà vua Mô-li -e được đào tạo thành luật sư nhưng ngay từ thời thơ ấu, ông đã say mê nghệ thuật hài kịch, đẫ sớm có năng khiếu mẫn cảm về loại hình này, nên Mô li e đã từ bỏ con đường luật sư êm ả để đi vào con đường nghệ thuật đầy khó khăn, vào một loại hình mà trong con mắt mọi người chỉ là trò mua vui rẻ tiền.
Cùng với gia đình nghệ sỹ Bêgia, ông sàng lập ra đoàn kịch chứ danh. Song ở Pari, đoàn kịch này không đứng nổi, ông cùng bạn bè đưa gáng hát của mình đi lang thang biểu diễn ở các tỉnh khác nhau của nước Phấp, từ 1645 - 1658 mới trở về biểu điẽn ở ngoại ô Pari. Lúc này đoàn kịch của Mô -li - e chững chạc có tay nghề vững chắc. Năm 1659 đoàn kịch được phép biểu diễn cho Vua Luixivê xem với vở hài kịch "Những ả cầu kỳ rởm". Vở kịch thành công, nhà Vua tán thưởng công chúa hoan nghênh. Đoàn kịch được phép về biẻu diễn ở Pari, được phép mua vui cho Vua, Mô-li -e là linh hồn của đoàn kịch và cùng với đoàn kịch tài năng của Mô-li-e chín rộ. Năm 1662, ông cho diễn vở(Trường học làm vợ, phê bình trường học là vở kịch ứng tác ở Vecxây). Trong giai đoạn 1664 - 1666, Mô-li-e viết 3 vở hài kịch lớn với những tư tưởng triết học và xã hội phong phú: (Táctuyp (1964), Đôngjuăng - 1665 và Anh ghét đời - 1666). Sau đó cuộc đời hoạt động của Mô -li - e bớt sôi động hơn với nhữmg vở ( Lão hà tiện - 16668, Trưởng giả học làm sang 1670, Những bà thông thái - 1672, Người bệnh tưởng - 1673...) ngày 11.2.1673 trong đêm diễn thứ 4 vở " người bệnh tưởng", đóng vai nhân vật chính Mô -li - e đã kiệt sức trên sân khấu. Ông được đưa ngay về nhà và chỉ hơn 1 giờ sau thì chết. Nhà thờ vốn thù ghét Mô -li - e ngăn cản việc mai táng ông theo nghi thức của tôn giáo. Vợ ông phải quỳ xuống chân nhà Vua hết lời cầu khẩn mới được phép chôn ông vào lúc đêm khuya, ở nghiã địa của nhà thờ.
"Đời hoạt động nghệ thụât của Mô -li - e là cuộc đời một mặt thì kiên trì rèn luyện trong thực tế vĩ đại của nhân dân, một mặt thì đấu tranh không khoan nhượng với những lực lượng đen tối cống hiến trọn vẹn cho nghệ thuật chân chính. Chỉ riêng cuộc đời ấy cũng đủ để khiến Mô -li - e trở lên bất hủ"(10,289)
1.2. Con người và phong cách sáng tác.
Mô -li - e là một tên tuổi lớn của chủ nghĩa cổ điển Pháp, của lịch sử văn học Pháp và của lịch sử sân khấu thế giới "hoạt động chủ yếu vào nửa cuối thế kỷ 17, cùng thời với Laphongten, Ra-xin, Boa-lô, Mô -li - e mang đến cho văn đàn Pháp những cống hiến rất lớn với tư cách là người sáng lập ra hài kịch cổ điển và đưa nó tới đỉnh cao xán lạn, với tư cách là nhà văn - chiến sĩ đã đấu tranh đến cùng cho những lý tưởng tiến bộ, với tư cách là người nghệ sỹ ưu tú đã kết tinh được những truyền thống tốt đẹp của nhân dân, dân tộc Pháp. Chủ nghĩa cổ điển Pháp, với Mô -li - e đã chuyển mạnh hơn, rộng rãi hơn về phía cuộc sống hiện thực muôn hình muôn vẻ và luôn sôi động trong đó quần chúng nhân dân lao động tiến lên vai trò mới"(10,287).
Mô -li - e có những quan điểm sáng tác rõ ràng. Những quan điểm này phù hợp với một nền nghệ thuật chân chính, tiến bộ, đồng thời cũng phù hợp chủ nghĩa cổ điển nói chung.
Trước hết, chính là trên tinh thần duy lí, duy vật, Mô -li - e đã nhận xét, phê phán các hiện tượng xã hội, cách tính cách đáng chê cười. Theo quan niệm chung của chủ nghĩa cổ điển, hài kịch là loại sáng tác văn học nhằm đả phá những tệ nạn của xã hội, những nhược điểm trong tâm lí của con người. Mô -li - e quan niệm rằng nhà văn có thể lấy đề tài ở bất kỳ nguồn gốc nào, miễn là đề tài ấy phong phú. Ông khai thác nguồn chủ yêu là đời sống tâm hồn xã hội Pháp đương thời, trong tâm lý của con người. Mô -li - e quan niệm rằng nhà văn có thể lấy đề tài ở bât kỳ nguồn nào, miễn là đề tài ấy phong phú. Ông khai thác nguồn chủ yếu là đời sống tâm hồn xã hội Pháp đương thời, trong cung đình, trong thành thị, trong dân gian.
Một bộ phận quan trọng sáng tạo của Mô -li - e là hài kịch tính cách. Những hài kịch này phản ánh xu hường đi vào lòng người, mô tả tâm lí, nghiên cứu tự nhiên của chủ nghĩa cổ điển nói chung. Để làm rõ các tính cách điển hình trong khuôn khổ sân khấu cổ điển, Mô -li - e đã chọn con đường riêng. Ông tập trung cao độ vào tính cách, thậm chí vào nét cơ bản trong tính cách. Ông tước bỏ những chi tiết phụ, đối lập, không có lợi cho sự chú ý theo dõi và sự xác định tính cách. Trong sáng tác của ông, chỉ thấy xuất hiện lên một tính cách cụ thể, dễ nhận, dễ phân biệt. Mỗi nhân vật là hiện thân của một tính cách nhất định: hoặc đạo đức giả, hoặc hà tiện, hoặc thông thái rởm...Những tính cách khác, nếu có đều phải lùi hàng xuống hàng dưới nhằm phục vụ cho tính cách chủ yếu.
Để khắc hoạ rõ tính cách và cũng để tăng cường tính hài kịch Mô -li - e hay dùng một biện pháp quen thuộc - cường điệu tính cách, đẩy tính cách lên sát ranh giới của sự vật vô lí, khó tin, không giống như thật. Hành động sân khấu của Mô -li - e khá đơn giản. Thường bắt đầu xu thế mỗi lúc một tập trung hơn, mạnh mẽ hơn cuar những thói giả dối, kệch cỡm. Sự thái quá ấy vi phạm"tự nhiên" làm cho những đầu óc lành mạnh, tỉnh táo, gần với cuộc sống bình thường, nhưcg sao chịu đựng nổi. Những xung đột ấy không phức tạp, không gay gắt đòi hỏi những giải pháp quyết liệt, chỉ một biện pháp nhỏ, kheo tổ chức, là đủ để bắt cái hài thể hiện rõ. Màn chót của xung đột vì thế cũng nhẹ, thường phụ thuộc vào những yếu tố bất ngờ bên ngoài.
Tài năng của Mô -li - e thể hiện rất đa dạng trong việc xây dựng các vở kịch. Ngoài việc tổ chức chặt chẽ các kịch tính, đảm bảo sự cân đối giữa các cảnh, các hồi, ông cìn sử dụng nhiều biện pháp gây cười lây truyền từ truyền thông dân gian như các biện pháp hề, ông tận dụng khả năng gây cười của biện pháp trùng lặp, bằng cách gây hiểu nhầm, bằng cách chơi chữ...tiếng cười mà ông tạo ra là đa dạng từ tiếng cười hề kịch vui vẻ, rồi đến tiêng cười khôi hài, tới cái cười mỉa mai giễu cợt, tới tiếng cười châm biếm, cho tới cái cười bi đát. Mỗi nhân vật, mỗi tính cách mà Mô -li - e dựng đều gắn với các tiếng cười khác nhau. Các tiếng cười này tạo ra cách nhìn soi chiếu nhân vật. Xây dựng nhân vật từ góc độ tiếng cười cũng là một đặc điểm thi pháp quan trọng trong hài kịch của Mô -li - e.
Mô -li - e tiếp thu những truyền thống của hài kịch dân gian và những thành tựu của kịch cổ điển, ông đã sáng tạo lên hững vở hài kịch có nội dung xã hội sâu sắc. Nhiều nhân vật điển hình xã hội về thói hư tật xấu. Mô -li - e là người sáng tạo ra hài kịch Pháp, đóng góp nhiều vào mỹ học cổ điển Pháp nhiều quan niệm mới. Hài kịch Mô -li - e đạt quy mô lớn chủ yếu do ông kết hợp một cách đầy sáng tạo tư tưởng Đề - các với tư tưởng Ga-xăng-đi, cái " cổ điển" với cái "barôc", vừa có tinh lịch sử, vừa có tính nhân loại, nhiều khi đạt tới cái mênh mông bí ẩn của con người, cái khát vọng không bờ bến, cái cô đơn vĩnh hằng bằng nghệ thuật hài kịch. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Mô-li-e đóng vai trò lớn trong sự phát triển của hài kịch toàn Châu Âu và cả thế giới.
1.3. Thời đại Mô-li-e sống
Mô-li-e sống ở thế kỷ XVII, một thế kỷ quan trọng trong lịch sử văn học thành văn của nhân dân Pháp. Đó là thế kỷ hoàn thành việc tập trung nhà nước tren nền tảng 1 Quốc gia thống nhất, một dân tộc thống nhất. Thế kỷ này trải qua và kéo dài qua 3 thời đại: Hăngri IV (1594 - 1610), Lu-i XIII (1610-1643), Lu-i XIV(1643-1715) người được mệnh danh là vua mặt trời.
Việc thống nhất này dã được tạo điều kiện tập trung thị trường, điều kiện quan trọng và có lợi cho sự phát triển của giai cấp tư sản. Sự phát triển của giai cấp tư sản đã mang lại cho nhà nước quân chủ tập trung một nguồn lợi to lớn. Chính quyền phong kiến tập trung tồn tại được nhờ vào túi tiền của tầng lớp thị dân. Sự xác lập chế độ quân chủ chuyên chế là biểu hiện về chính trị của quá trình phong kiến tan rã và quan hệ sản xuất tư bản phát triển. Trong điều kiệnlịch sử này đã xuất hiện và tồn tại một thế cân bằng lịch sử. Thế cân bằng chính trị giữa 2 lực lượng quý tộc và tư sản là một yếu tố lịch sử xã hội quan trọng nhất có ảnh hưởng đến quyết định đến sự phát triển của xã hội, đến sự hình thành và phát triển dòng văn học cổ điển chủ nghĩa, dòng văn học chính thống thế kỷ XVII.
Một sự kiện quan trọng nữa là hình thành Viện Hàn lâm Pháp vào năm 1634. Đây là chủ trương lấy văn nghệ phục vụ cho sự nghiệp thống nhất quốc gia do Hồng y giáo chủ Tể tướng Risơliơ đề xướng và thực hiện. Viện Hàn lâm chịu trách nhiệm biên soạn tự điển, ngữ pháp, thống nhất quốc gia về mặt ngôn ngữ. Vì vật, ý thức phục vụ cho sự thống nhất và ổn định về một đặc điểm thống nhất trong sáng tác của những nàh cổ điển. Cảm hứng về quốc gia trở thnàh nội dung chính của thời đại. Nghĩa vụ phụng sự quốc gia được đề cao.
Sau khi được nổi loạn La Phrôngđơ ( từ 1647 đến 1653), do sự bất mãn của tầng lớp lãnh chúa nhất thế bị dập tắt , nước Pháp đi vào thới kỳ phát triển mạnh mẽ nhất. Thời kỳ hoàng kim của Lu-i XIV.
Thời kỳ này, nước Pháp trở thành trung tâm chính trị, trung tâm của các hoạt động xã hội của các thế lực phong kiến Châu Âu. Nhờ có địa vị độc tôn về quân sự và chính trị, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, nước Pháp vươn lên chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá. Nó ảnh hưởng và tri phối mạnh mẽ các nền văn hoá Tây Âu khác. Đó là khi nói tới văn học Tây Âu người ta chỉ cần nói đến văn học Pháp với đỉnh cao của nó là chủ nghĩa cổ điển.
Nói đến thê kỷ XVII ở Pháp, không thể không nói đến chủ nghĩa duy lí của R.Đêcactơ - một thành tựu lớn của giai cấp tư sản đạt được trong lĩnh vực triết học. Chủ nghĩa duy lí đã trở thành thê giới quan và phương pháp luận giúp các nhà cổ điển tái tạo đời sống hiện thực xã hội Pháp thế kỷ XVII.
2. Tác phẩm
2.1 Xuất xứ, tóm tắt tác phẩm
Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục trích trong vở kịch 5 hồi trưởng gỉ học làm sang (1670) và là lớp kịch kết thúc hồi II.
Nhân vật trung tâm của vở kịch là Ông Giuốc-đanh, một ư sản giàu có đang tấp tểnh học đòi làm quý tộc. Lão đã ngoài 40 tuổi. Lão có 1 con gái là Luyxin đang yêu tha thiêt chàng trai Clêông nhưng bị lão ngăn cấm vì bản thân anh ta không phải là quý tộc. Lão tìm mọi cách để kết thân với người thượng lưu, để được lọt vào mắt xanh của quý bà Đôrimen. Vì thế lão không ngần ngại đổ tiền ra để làm đẹp lòng gã quý tộc Đôrăng thất thế sa cơ, đang cự kỳ túng bấn. Đôrăng cũng tỏ ra hết lòng để lão sớm được trở thành quý tộc, sớm chiếm được mối tình của Đôrimen. Bù lại hắn có đủ tiền để thoả mãn mọi ý đồ riêng. Bị lừa dối, bị phỉnh phờ Giuốc-đanh tỏ ra hào phóngvung tiền không tiéc tay. Để xứng đáng là bậc quý tộc mong muốn chiếm được cảm tình của quý bà phu nhân kia, Giuốc-đanh đã tổ chức thuê đủ các loại thầy: thầy nhạc, thầy vũ, thầy kiếm, thầy triết... đến nhà lão để dãy lão các môn học để tạo cho lão có 1 thứ vốn liếng để ra nhập hàng ngũ quý tộc. Các loại thầy này đều kiết Giuốc-đanh là một kẻ ngu dốt nhưng họ đều cho rằng " túi tiền của lão khôn ra phết, túi tiền ấy sửa chữa và uốn lắn được mọi sai sót". Và các ông thầy này tỏ ra hết sức tận tuỵ phục vụ cho túi tiền ấy. Nắm được những cuồng vọng của lão, những thành viên tích cực có lương tri của gia đình đã tìm mọi cách thức tỉnh lão. Cuối cùng học phải tạo ra hình thức là để Clêông đóng giả một hoàng tử Thổ Nhĩ Kỳ đến cầu hôn con gái lão. Giuốc-đanh đồng ý gả ngay con gái cho chàng rể ngoại bang ấy, đổi lại chàng rể quý tộc giả phong tặng cho lão tước hiệu Mamamusi, tước hiệu quý tộc phong kiến Thổ Nhĩ Kỳ giả hiệu. Kết thúc vở kịch là cảnh Giuốc-đanh sung sướng đến phát cuồng trong bộ quần áo, trong tước vị quý tộc giả hiệu tuyên bố với mọi người là " giờ chỉ còn bà vợ tôi nữa, ai lấy tôi xin cho nôt".
2.2 Phân tích nội dung văn bản
"Trưởng giả học làm sang là một trong những vở hài kịch thành công nhát của Mô-li-e. Tác giả đã tạo lên bức tranh xã hội Pháp thế kỷ XVII vô cùng chân thực và sinh động: những gã trọc phú học đòi quý tộc một cách ngu ngốc, kệch cỡm: những tên quý tộc kiểu cách rởm đời, giả dối xảo trá, tham lam. Mô-li-e đặt niềm tin vào thê hệ trẻ những người có hiểu biết, giàu lòng nhân ái. Ông đề cao giá trị đích thực của cá nhân. Mô-li-e đã sử dụng tiếng cười của một vũ khí sắc bén để tấn công lối cầu kỳ rởm tầng lớp quý tộc Pháp đương thời và đám trưởng giả lố bịch đang quý tộc hoá" (9219)
Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục, một lớp kịch tong vở trưởng giả học làm sang của Mô-li-e, được xây dựng và hết sức sinh động, khác học tài tình tính cách lố lăng của một tay trưởng giả học đòi làm sang, gây lên tiếng cười sảng khoái cho khán giả.
Lớp kịch này chai làm 2 cảnh, dấu hiệu nhận biết trên văn bản là đoạn chỉ dẫn sân khấu " Bốn anh thợ phụ bước vào". Cả 2 cảnh này đều diễn ra trong không gian phòng khách nhà ông Giuốc-đanh - nhân vật chính. Không khí kịch về sau càng sôi động, cho đến cuối cảnh sau thì không khí hài kịch thực sự náo nhiệt.
Trên văn bản ta thấy ở cảnh trước gồm những lời thoại của 2 nhân vật: ông Giuốc-đanh và bác phó may, cảnh sau là lời đối thoại của Giuốc-đanh và tay thợ phụ. Cảnh trước xuất hiện trên sân khấu 4 nhân vật ( ông Giuốc-đanh, một gia nhân, bác phó may và tay thợ phụ mang bộ lễ phục). Cảnh sau xuất hiện thêm 4 tay thợ phụ. Cảnh trước, ông Giuốc-đanh và bác thợ phụ đối thoại với nhau. Cảnh trước Giuốc-đanh. Cảnh trước, ông Giuốc-đanh và bác thợ phụ đối thoại với nhau. Cảnh sau Giuốc-đanh nói với một tay thợ phụ mang lễ phục xuất hiện từ cảnh trước, nhưng xung quanh ông ta là cả 4 tay thợ phụ đến sau đang xúm vào để giúp ông thể lễ phục mới lên như nói với cả bọn. Thêm nữa, cảnh trước cử chỉ, động tác của nhân vật ít hơn ( chỉ là những cử chỉ, động tác kèm theo đối thoại của 2 nhân vật), đến cảnh sau, các thợ phụ nhộn nhịp cởi quần áo cũ, mặc lễ phục mới cho ông Giuốc-đanh... thêm nữa, khi ông Giuốc-đanh mặc lễ phục còn có cả nhảy múa và âm nhạc.
ở cảnh đầu của lớp kịch, tính cách của Giuốc-đanh thể hiện tong đối thoại của bác phó may. Nào là chuyện đôi bít tất, chuyện bộ tóc giả, lông đính mũ xong chủ yếu là chuyện xoay quanh bộ lễ phục, với những bông hoa ngược. Không biết là do bác phó may dốt, do sơ suất hay cố ý may thành những bông hoa ngược? Chỉ biết rằng chính ông Giuốc-đanh phát hiện ra sự cố này. Nhưng bác phó may với tay nghề khó hiểu này lại bảo rằng người quý tộc họ vẫn mặc vậy. Giuốc-đanh thì học đòi làm sang. Thế là ông hoàn toàn bị khuất phục bởi sự láu cá của bác phó may. Kịch tính được đẩy lên cao khi bác phó may liên tiếp ra đòn " nếu ngài muốn thì tôi sẽ may hoa xuôi lại thôi mà", " xin ngài cứ việc bảo". Sợ cơ hội làm sang sẽ tuột mất, ông Giuốc-đanh từ chối đây đẩy: " không, không". " Tôi đã bảo không mà". Rồi lại chính đã nắm chắc điểm yếu của đối phương, chỉ cần bác lảng sang chuyện thử lễ phục mới là Giuốc-đanh chẳng còn để ý gì đến chuyện ăn bớt vải nữa. Chẳng thế mà bác phó may rất tự tin khi mặc đúng cái áo may bằng vải ăn bớt của ông Giuốc-đanh khi đến nhà Giuốc-đanh.
Sang cảnh sau của lớp kịch, tính cách tưởng giả học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh đang tiếp tục được bộc lộ. Lần này đến lượt tay thợ phụ lợi dụng ông ta. Nếu anh này cứ gọi ông Giuốc-đanh như cách gọi thông thường ( ông hoặc ngài) thì đã không có chuyện gì sảy ra.Đằng này lại xưng tôn là ông lớn, lại đúng vào lúc ông đang mặc lễ phục say sưa với cảm giác trở thành quý tộc. Thế là y được thưởng vì tiếng ông lớn sang trọng ấy. Tay thợ phụ ranh ma này nắm được thóp Giuốc-đanh thì liên tiếp tung ra những câu lịnh hót để moi tiền. Và y rất thành công. Những tiếng " cụ lớn", rồi " đức ông" đều đem lại tiền thưởng cho y. Không phải ông Giuốc-đanh không nghĩ đến túi tiền của mình " Nó như thế là phải chăng, nếu không ta đến mất tong cả tiền cho nó thôi" mà vì cái mộng quý tộc còn lớn hơn cả tiếc tiền. Như vậy cũng đủ thấy tính cách học đòi làm sang của Giuốc-đanh mạnh đến mức nào.
Sự chênh lệch, mất cân xứng giữa nội dung và hình thức giữa cái bên trong và bên ngoài là nguyên tắc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề dạy học và đọc hiểu hài kịch mô-li-e theo chương trình thcs mới qua trích đoạn ông giuốc-đanh mặc lễ phục từ vở kịchtrưởng giả học làm sang.doc