Xét một cách toàn diện hộ nghèo không chỉ đơn thuần thiếu vốn, cái mà họ thiếu là tri thức sản xuất, nhất là các hộ thuộc vùng dân tộc thiểu số. Nhiều hộ được vay vốn rồi, nhưng không biết làm gì để có khả năng sinh lời, vẫn chỉ loanh quanh với mảnh vườn tạp, chăn nuôi gia súc, gia cầm thậm chí cho vào ống nứa cất lên mái nhà, đến kỳ hạn cán bộ tín dụng đến thu lãi và nợ, họ mang nguyên xi số tiền đó đưa trả!. Hoặc có hộ nhận về không sử dụng cho chăn nuôi, sản xuất, kinh doanh mà mà chi cho tiêu dùng như mua gạo ăn, mua quần áo, sắm đồ dùng gia đình
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề huy động và và sử dụng vốn đầu tư cho xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn 1996 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.347 triệu đồng cho 31 xã nghèo, Trà Vinh bố trí thêm ngân sách dịa phương 3.2 tỷ đồng để đầu tư cho 16 xã nghèo do tỉnh xác định…
Nhằm tập hợp sức mạnh của nhiều nguồn vốn, các địa phương cũng đã tổ chức lồng ghép các nguồn lực của các chương trình , các dự án khác nhau cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo khoảng 150 tỷ đồng. Điển hình là các tỉnh Cao bằng bố trí lồng ghép kinh phí của chương trình giáo dục, y tế cho xoá đói giảm nghèo 11919 triệu đồng; Thừa Thiên Huế lồng ghép 15593 triệu đồng cho xoá đói giảm nghèo; Gia Lai bố trí bố trí lồng ghép vốn của các chương trình, dự án khác cho 14 xã đặc biệt khó khăn 13407.4 triệu đồng; Phú Yên lồng ghép vốn của 16 chương trình, dự án khác với số tiền 11.003 triệu đồng cho xoá đói giảm nghèo…
Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, tính đến 30/9/2000, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã huy động được tổng nguồn vốn là 4.659 tỷ đồng; so với nguồn vốn từ khi thành lập và chuyển giao từ quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo chuyển sang là 521 tỷ đồng, thì nguồn vốn đã tăng lên 4.138 tỷ đồng;với kết cấu nguồn vốn vay từ Ngân hàng thương mại quốc doanh 2.602 tỷ đồng, chiếm 55,9% tổng nguồn vốn.
-Với vốn điều lệ 700 tỷ đồng chiếm 15% tổng nguồn vốn (do chính phủ cấp ban đầu là 500 tỷ đồng, được chính phủ cấp bổ sung là 200 tỷ đồng).
-Đã được Ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế cho vay đặc biệt theo chỉ địng từ Chính phủ 900 tỷ đồng chiếm 19,4% tổng nguồn vốn, trong đó cho vay trung hạn ( thời hạn 5 năm) số tiền 600 tỷ đồng và cho vay ngắn hạn số tiền 300 tỷ đồng.
-Được ngân sách các tỉnh trích nguồn vốn chuyển sang ngân hàng phục vụ người nghèo từ các tổ chức quốc tế với tổng số tiền trên 80 tỷ đồng, trong đó dự án IFAD 49 tỷ đồng, dự án OPEC 10 triệu USD; đã rút vốn đợt 1 là 2 triệu USD.
-Huy động từ cộng đồng người nghèo là 35 tỷ đồng. Số tiền này tuy nhỏ nhưng cũng đã tạo dựng được ý thức và thói quen tiết kiệm cho người nghèo.
Với tổng nguồn vốn nêu trên, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã thực hiện cung cấp tín dụng tới phần lớn các hộ nghèo có nhu cầu vay vốn trên phạm vi toàn quốc.
Tính đến 30/9/2000, đã có hơn 5,3 triệu lượt hộ nghèo nhận được vốn tín dụng từ Ngân hàng phục vụ người nghèo với tổng số tiền là 8.396 tỷ đồng; với số vốn vay, hộ nghèo đã đầu tư vào sản xuất kinh doanh; chủ yếu là đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, thâm canh tăng vụ; mở rộng ngành nghề, cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập để trả nợ ngân hàng, với doanh số thu nợ đạt 4017 tỷ đồng, bình quân mỗi hộ dư nợ tới 1,7 triệu đồng.
-Trong doanh số cho vay trên, ngân hàng đã thực hiện cung cấp tín dụng tới cả những hộ nghèo ở vùng III; dư nợ hộ nghèo ở khu vực III là 487 tỷ đồng với 28 ngàn hộ cònc dư nợ; trong đó, cho vay hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu vùng xa theo Quyết định 135/1998/QĐ-TTg của thủ tướng Chính Phủ là 324 tỷ đồng với 183 ngàn hộ dư nợ.
-Nhiều hộ nghèo là người dân tộc thiểu số cũng đã được vay vốn; với dư nợ là 733 tỷ đồng; chủ yếu là người dân tộc Tày, Nùng, Thái,Mường, Khơ me, H’mông…
Đặc biệt, được Đảng bộ và chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo, nhiều tỉnh, thành phố đã huy động từ nguồn tiết kiệm chi ngân sách để hình thành quỹ xoá đói giảm nghèo, chuyển sang ngân hàng phục vụ người nghèo cho vay. Tổng số tiền huy động từ nguồn này đến ngày 30/9/2000 là 338 tỷ đồng. Trong đó, những tỉnh đã huy động được nguồn vốn địa phương lớn như:
Tỉnh
Số tiền
(tỷ đồng)
Tỉnh
Số tiền (tỷ đồng)
Nghệ An
18
Hải Phòng
9,2
Hà Tây
17,1
Quảng Trị
8
Đắc Lắc
14,8
Quảng Nam
7,8
Khánh Hoà
13,1
Kiên Giang
7
Lạng Sơn
9,9
Quảng Ninh
6,4
Ninh Thuận
9,6
Quảng Bình
6,2
(Nguồn:Nghiên cứu lý luận số 10/2000)
Trong năm 1999, Nhà nước đã duyệt chi hỗ trợ hơn 410 tỷ đồng để xây dựng hạ tầng cơ sở cho hơn 1000 xã đặc biệt khó khăn. Bởi vậy xây dựng hạ tầng cơ sở được coi là lĩnh vực ưu tiên hỗ trợ hàng đầu đối với các xã đặc biệt khó khăn. Nguồn vốn này được các địa phương bố trí đầu tư cho 1733 công trình trong đó có 547 công trình giao thông với số vốn 138.903 triệu đồng (chiếm 36,41%); Thuỷ lợi nhỏ 446 công trình với 103.754,5 triệu đồng (27,19%), nước sinh hoạt 223 công trình với 36.180,9 triệu đồng (9,48%);điện sinh hoạt 88 công trình với 17.057 triệu đồng (4,47%); 18 trạm xá với 2.764 triệu đồng (0,73%).
Cùng với kế hoạch chuyển vốn, các dự án khác khác của chương trình xoá đói giảm nghèo cũng được triển khai tương đối đồng bộ. Vốn dự án hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn thực hiện đạt 60% kế hoạch, tập trung vào hỗ trợ trực tiếp đời sống cho bà con, hỗ trợ sản xuất thông qua hình thức cho vay không lấy lãi, xây dựng mô hình chuyển giao công nghệ, hỗ trợ xây dựng thuỷ lợi nhỏ… Đối với các xã khó khăn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thì công tác định canh dịnh cư, sắp xếp ổn định dân di cư tự do rất quan trọng trong việc xoá đói giảm nghèo. Đến hết tháng 9, chương trình đã tổ chức định canh định cư được hơn 18000 hộ, đặt 30% kế hoạch, xây dựng được 133 km đường giao thông và 5 cầu cống, 33 công trình thuỷ lợi; 2116 m2 lớp học và trạm y tế, 2 công trình điện, giá trị khối lượng hoàn thành đạt trên 40 tỷ đồng. Vốn sự nghiệp kinh tế định canh định cư ngoài vùng dự án cũng đã hỗ trợ trực tiếp 12.500 hộ; hỗ trợ sữa chữa 6 công trình giao thông giao thông và 2 cống, 16 công rình thuỷ lợi, 16 giếng nước ăn, 300 m2 lớp học, giá trị khối lượng thực hiện 5 tỷ đồng đạt 60% vốn. để tạo điều kiện điều chỉnh hợp lý lực liượng lao động, chương trình đã thực hiện di dân theo kế hoạch được 8.461 hộ với 17.919 lao động và 36.819 nhân khẩu, sắp xếp ổn định dân di cư tự do, thực hiện giá trị khối lượng đạt trên 15 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, dự án chương trình Tiết kiệm–tín dụng dành cho phụ nữ nghèo do tổ chức ACTIONARD thuộc nước Anh (viết tắt AAV) tài trợ được đánh giá là thực hiện thành công và có hiệu quả nhất trong chương trình tín dụng cho người nghèo. Với phương thức thực hiện chính là gửi tiền tiết kiệm và vay vốn. Ngoài ra, được AAV tài trợ, chị em còn được học tập, phổ biến kinh nghiệm làm ăn, kinh doanh, quản lý kinh tế và áp dụng khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất nông lâm nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi, thú y, thuỷ lợi, đưa các loại gia súc, cây trồng vật nuôi có năng suât cao vào sản xuất…Tuy mới triển khai bước đầu, mức độ làm quen và hoà nhập của chị em còn hạn chế. Tuy vậy, qua 5 năm thực hiện dự án đã thành lập được 199 nhóm cho 4.921 lượt người vay với tổng số tiền 2.699 triệu đồng. Nguồn vốn tiết kiệm được gần 1,5 tỷ đồng, vốn do AAV tài trợ bổ sung 640 triệu đồng. Số dư tiền gửi bình quân chung 300 ngàn/ người. Bình quân một món cho vay 500 ngàn đồng.
Để tạo thêm nguồn cho chương trình xoá đói giảm nghèo, việc huy động nguồn lực cộng đồng là rất quan trọng, và thực tế dã có nhiều hình thức phong phú đa dạng. Có nơi quy định mực đóng góp hàng năm cho từng cá nhân, từng doanh nghiệp hoặc từng tổ chức xã hội đẻ xây dựng quỹ xoá đói giảm nghèo. Trong vấn đề này, các đoàn thể quần chúng như hội phụ nữ, Hội nông dân,Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên,… có vai trò hết sức quan trọng. Hội phụ nữ Việt Nam có phong trào: “phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” đã tạo lập được 190 tỷ đồng cho 540 nghìn lượt chị em vay vốn phát triển sản xuất, huy động 20.000 chỉ vàng, 3 triệu con lợn giống, 68 tấn thóc giống cùng hàng triệu ngày công lao động giúp đỡ các hội viên quá khó khăn. Đoàn thanh niên với phong trào “thanh niên lập nghiệp”, Hội nông sân với phong trào “Tình làng nghĩa xóm”. Mặt trận Tổ quốc với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới” cũng đã huy động được hàng trăm tỷ đồng giúp người nghèo vượt qua khó khăn trong cuộc sống.
Ngoài ra, đã có nhiều chương trình tài trợ do nhiều tổ chức quốc tế giúp vốn cho chương trình xoá đói giảm nghèo ở nước ta như: Chính phủ Cộng Hoà Liên Bang Đức, Hà Lan, UNCEF, SIDA, … Theo thống kê đến nay, có khoảng 60 chương trình và dự án của ADB, WB, EU, FAO, Tổ chức cứu trợ nhi đồng Anh, OXFAM (Anh), chương trình phát triển lâm nghiệp Việt nam- Thuỵ Điện, SIDE (Pháp), IFAD (Hà Lan), INUS (Đức)… trợ giúp vốn khoảng 67.000 hộ nghèo trong cả nước. Ngoài việc cung ứng vốn tín dụng, các chương trình dự án còn cung cấp dịch vụ tài chính vi mô cho người nghèo, giúp các hộ nghèo tiếp cận với tài chính vi mô chính thức theo thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực cuộc sống của họ. Tạo thói quen tiết kiệm, không bao cấp trong cộng đồng người nghèo, không trông chờ, ỷ lại vào tín dụng nặng lãi hay an phận, cam chịu hoàn cảnh của người nghèo.
Như vậy, có tể khái quát cơ cấu vốn đầu tư xoá đói giảm nghèo từ năm 1996 đến nay như sau:
Số tiền (tỷ đồng)
Tỷ lệ %
Ngân sách trung ương
5333.8
33.13
Ngân sách địa phương
594.08
3.69
Hợp tác quốc tế
1099.6
6.83
Lồng ghép các chương trình kinh tế xã hội
2104.22
13.07
Lao động công ích
938.6
5.83
Các tổ chức kinh tế, cộng động
6029.5
37.45
(Nguồn: Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2000).
Nguồn vốn đầu tư cho các chương trình, dự án liên quan đến xoá đói giảm nghèo trong 5 năm vào khoảng 15.000 tỷ đồng chưa kể nguồn hỗ trợ lớn lao của bạn bè quốc tế. Trong đó, riêng hai năm 1999,2000 đã huy động được 9.600 tỷ đồng.
II. Kết quả đạt được
Với các nổ lực của trung ương và địa phương trong thời gian qua, công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở Việt Nam giảm từ 30% năm 1992 xuống 10% năm 2000, mỗi năm bình quân 250.000 hộ nghèo thoát khỏi cảnh đói nghèo.
Bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, Nhà nước kể cả Trung ương và địa phương cùng với các đoàn thể quần chúng, các doanh nghiệp đã dành vốn cho chương trình với mức cao nhất có thể. Riêng Ngân hàng phục vụ người nghèo đã huy động 4659 tỷ đồng cho hơn 3 triệu lượt hộ nghèo cho vay vốn với cơ chế không phải thế chấp và lãi suất ưu đãi. Có vốn lại được hướng dẫn cách làm ăn nên nhiều hộ đã từng bước thoát nghèo bằng nhiều hình thức thiết thực: trợ giá vật tư nông nghiệp, giúp giống cây con, mua bảo hiểm y tế. đã có trên 21/61 tỉnh, thành thực hiện trích ngân sách địa phương mua bảo hiểm y tế cho người nghèo, với tổng kinh phí trên 14 tỷ đồng và 1,2 triệu thẻ hộ nghèo ở nông thôn được miễn giảm thuế sử dụng đất, miễn học phí, miễn quỹ đóng góp dân công. với sự hỗ trợ vốn và kỹ thuật của chính quyền vàcác tổ chức đoàn thể, nhiều hộ đã xoá được đói, giảm được nghèo bằng sức lao động của chính mình bằng một số nghề: trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ, đánh bắt thuỷ sản,…
Nhìn nhận lại kết quả và cơ chế hoạt động của chương trình tín dụng xoá đói giảm nghèo từ Ngân hàng phục vụ người nghèo có thể khái quát những mặt tích cực sau:
Một là, Ngân hàng phục vụ người nghèo được tổ chức và hoạt động theo Quyêt định 525/TTg của thủ tướng Chính phủ, thực thi một thể chế chính sách được nông dân đồng tình, hưởng ứng, thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Đây là giải pháp cụ thể góp phần ổn định kinh tế- xã hội, thực hiện mục tiêu xã hội công bằng văn minh. Trong điều kiện hiện nay, mô hình tổ chức được thiết lập bằng việc sử dụng hệ thống mạng lưới của các ngân hàng thương mại quốc doanh làm dịch vụ huy động vốn và cho vay đã tiết kiệm được chi phí xã hội; tận dụng được nhân lực, công nghệ, tập trung được vốn, kỷ thuật,… chuyển trực tiếp hỗ trợ người nghèo (không phải chi phí tuyển nhân lực, không tăng thêm các chi phí mua săm, xây dựng cơ sở vật chất…). Do đó triển khai được nhanh trên phạm vi toàn quốc về hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo; có cơ chế hạch toán theo hệ thống riêng, thống nhất phân định rõ nguồn vốn sử dụng vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo.
Hai là, chủ trương ngân sách Nhà nước hỗ trợ vốn thông qua bù chênh lệch lãi suất huy động , và sử dụng phương pháp tín dụng ngân hàng để hỗ trợ cho người nghèo (thay vì nguồn vốn cấp từ ngaan sách có hạn, bằng phương pháp huy động vốn trong đan cư, phần chênh lệch lãi suất cho vay được ngân sách cấp bù) đã tạo ra khối lượng vốn lớn hơn nhiều lần so với cách đầu tư trực tiếp trước đây.
Ba là, hình thành một cơ chế tín dụng riêng biệt tương đối phù hợp với người nghèo; cơ chế cho vay được nới lỏng; đơn giản hoá thủ tục cho vay; người vay không phải đến trụ sở ngân hàng mà chỉ phải nộp đơn đề nghị vay vốn thông qua tổ chức vay vốn vag gia dịch vay- trả ngay tị trụ sở xã; người vay không phải thế chấp tài sản mà thay vào đó là sự kiểm tra, giám sát của cộng đồng dân cư,sự phối hợp giữa các tổ chức đoàn thể trong việc lồng ghép các chương trình xoá đói giảm nghèo ở địa phương nhằm giúp cho việc sử dụng vốn đạt hiệu quả cao hơn. với cơ chế tín dụng như hiện nay, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo thông qua việc bình xét các đối tượng được vay vốn của các tổ chức cộng đồng xã hội, mở rộng tính công khai dân chủ và tính nhân dân sâu sắc.
Các chính sách và cơ chế tín dụng xoá đói giảm nghèo đã được nghiên cứu và thay đổi phù hợp với các quy định của ngành và sự phát triển chung trong từng thời kỳ:
- Về lãi suất cho vay: 5 năm qua đã có 5 lần thay đổi theo hướng hạ lãi suất cho vay đối với hộ nghèo từ mức lãi suất 1,2%/ tháng hạ xuống 1%/tháng; 0,8%/tháng và hiện nay đang áp dụng là 1,7%/tháng, riêng đối với hộ nghèo vùng III được vay với lãi suất 0,6%/tháng, và đều thấp hơn mức lãi suất hiện hành của các ngân hàng thương mại và Hợp tác xã tín dụng. Ngoài lãi suất cho vay, hộ nghèo không phải trả một khoản phí nào cho ngân hàng hoặc các tổ chức chính trị- xã hội khác.
- Về quy định mức vay tối đa: Khi mới thánh lập Ngân hàng phục vụ người nghèo có mức vay tối đa không quá 2,5 triệu đồng/hộ. Hiện nay điều chỉnh nâng lên không quá 3 triệu đồng/ hộ. Riêng đối với hộ nghèo đầu tư cho chăn nuôi đại gia súc, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, mua sắm nông cụ, nuôi trồng đánh bắt hải sản, kinh doanh các ngành nghề, được vay vốn tối đa đến 5 triệu đồng /hộ phù hợp với tăng trưởng nguồn vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo và quy mô sử dụng vốn tối đa với hộ nghèo.
- Về thời hạn khi mới thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo: thời hạn cho vay trung hạn tối đa 36 tháng, nay được nghiên cứu áp dụng thời hạn tối đa 60 tháng. ngoài ra, Ngân hàng phục vụ người nghèo còn áp dụng hình thức cho vay lưu vụ, gia hạn nợ, cho vay lại cho đến khi hộ nghèo thoát khỏi ngưỡng nghèo, tạo điều kiện cho hộ nghèo sử dụng vốn tín dụng đầu tưvào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Bốn là, đã thiết lập được kênh tín dụng riêng để hỗ trợ vốn tín dụng cho người nghèo, thực hiện chính sách tín dụng hợp lý; tạo diều kiện cho hộ nghèo có vốn sản xuât, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, từng bước làm quen với nền sản xuất hàng hoá. Vốn của nhà nước đã thực sự đến tay người nghèo, người nghèo vay vốn và trả nợ sòng phẳng,nợ quá hạn thời điểm hiện nay (nếu loại trừ nợ thiệt hại do thiên tai) là 1,66%, một số nơi chất lượng tín dụng tương đối tốt, tỷ lệ nợ quá hạn thấp như: Hưng Yên 0,05%, Nam Định 0,16%, Hải Dương 0,21%, Thái Bình 0,26%, Bắc Ninh 0,53%, Hà Tây 0,94%; tỷ lệ thu lãi bình quân đạt 85%. Theo thống kê tại các tỉnh cho thấy: vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo cùng các chương trình hỗ trợ khác đã giúp cho 415 ngàn hộ nghèo được vay vốn thoát khỏi ngưỡng nghèo đói theo chuẩn mực hiện nay, đời sống của hàng vạn người đã được cải thiện hơn.
Đánh giá kết quả thực hiện chương trình Tiết kiệm- Tín dụng dành cho phụ nữ nghèo: kết quả nổi bật là thông qua chương trình, đã giúp cho nhiều hộ nghèo có thêm nguồn vốn để phát triển sản xuất, chăn nuôi, cải thiện đời sống. Một số hộ nhờ vay vốn đã thoát khỏi cảnh nghèo đói. Cái được lớn nhất là tạo cho chị em có ý thức tiết kiệm, tiết kiệm thường xuyên và đi lên với đồng vốn còn rất nhỏ bé ban đầu. Đồng thời qua việc sinh hoạt tổ nhóm, qua tập huấn kỹ thuật sản xuất nông nghiệp và khuyến cáo chị em đã tiếp cận với tư duy kinh tế, luôn tìm tòi suy nghĩ để phát triển kinh tế mở rộng ngành nghề sản xuất đa dạng, góp phần cải thiện được đời sống, có hộ đã vươn lên làm giàu, mua được máy xay xát, máy kéo Bông sen, phát triển được đại gia súc…Từ đó góp phần nâng cao nhận thức của các hội viên. Tạo được tinh thần đoàn kết, tương trợ nhau giúp đỡ nhau trong các tổ nhóm, trong bản làng, thôn xóm. Trong những năm triển khai thực hiện chưa hề để xảy ra hiện tượng mất vốn, không có nợ quá hạn. Những hộ gia đình có khó khăn đột xuất hoặc nguyên nhân khách quan đều được chị em trong tổ, nhóm động viên, giúp đỡ, nhắc nhở trả nợ cho đúng hạn để giữ vững lòng tin với cấp trên.
Hiệu quả sử dụng nguồn vốn hợp tác quốc tế:
- Đã giải quyết tình trạng về cơ sở hạ tầng lạc hậu phân bổ không đồng đều, xoá bỏ bớt sự cách biệt về phát triển kinh tế- xã hội giữa các vùng lãnh thổ trong cả nước giữa thành thị và nông thôn nhằm đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Tập trung cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và quản lý; đồng thời dành một phần tín dụng cho đầu tư các ngành nông lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng.
III. Những tồn tại và vướng mắc.
1. Đánh giá chung.
Mặc dù việc huy động và sử dụng vốn cho đầu tư xoá đói giảm nghèo đã có hiệu quả rõ rệt, có bước tiến lớn trong quá trình thực hiện, nhưng hiện tại đang xuất hiện những thách thức mới trong công tác xoá đói giảm nghèo. Đó là:
- Hiệu quả xoá đói giảm nghèo không bền vững, nguy cơ tái nghèo đang xuất hiện trở lại. Có khi chỉ là một thành viên trong gia đình bị ốm đau, bệnh tật, gia đình gặp hoạn nạn, sản xuất bị thiên tai… thì nghèo đói lại xuất hiện trong chính gia đình họ.
- Năng lực sử dụng vốn, khả năng hấp thụ vốn vay trong một bộ phận hộ nghèo rất thấp. Gần đây, có thực trạng nông dân vay vốn nợ chồng lên nợ, càng vay nhiều thì lại càng nghèo đi. Chuyện nêu lên có vẻ như là một nghịch lý nhưng là có thật. Tại sao vậy?
Xét một cách toàn diện hộ nghèo không chỉ đơn thuần thiếu vốn, cái mà họ thiếu là tri thức sản xuất, nhất là các hộ thuộc vùng dân tộc thiểu số. Nhiều hộ được vay vốn rồi, nhưng không biết làm gì để có khả năng sinh lời, vẫn chỉ loanh quanh với mảnh vườn tạp, chăn nuôi gia súc, gia cầm… thậm chí cho vào ống nứa cất lên mái nhà, đến kỳ hạn cán bộ tín dụng đến thu lãi và nợ, họ mang nguyên xi số tiền đó đưa trả!. Hoặc có hộ nhận về không sử dụng cho chăn nuôi, sản xuất, kinh doanh mà mà chi cho tiêu dùng như mua gạo ăn, mua quần áo, sắm đồ dùng gia đình…
Vốn đã mỏng, nhưng không ít hộ lại “cấu” từ vốn vay để dùng cho mục đích sinh hoạt. Nếu vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo giải ngân vào dịp giáp hạt, đầu năm học, Tết nguyên đán… thì chắc chắn phần dùng sẽ rất cao.Hiện tượng đó làm cho vốn vay cứ bị lõm dần, không sinh lời, không thực hiện được cả tái sản xuất giản đơn, người vay sẽ mất khả năng trả nợ. Đây là chưa kể khả năng chống đỡ với rủi ro của người nghèo là rất thấp. Tình trạng nợ quá hạn gia tăng, nguồn vốn cho vay hộ nghèo bị cạn kiệt.
Trong thực tế, đã phát sinh nhiều trường hợp tổ trưởng các tổ tín chấp chiếm dụng lãi, chiếm dụng vốn của ngân hàng khi người nghèo hoàn trả. Trong khi đó việc kiểm tra, giám sát hộ nghèo sử dụng vốn vay tại một số địa phương bị buông lỏng. Một số thành viên ban đại diện chưa tích cực hoạt động; việc xét duyệt danh sách hộ nghèo tại một số địa phương thực hiện thiếu khách quan. Việc bình xết hộ nghèo, chính quyền các đoàn thể, ban xoá đói giảm nghèo ở các xã, phường cũng hết sức phân vân, việc bình xét chỉ mang tính áng chừng theo cảm tính, cộng với sức ép của dân, nên đi đến chỗ “phá rào”. Tính chất ưu đãi và ranh giới của vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo với vốn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn bị mờ nhạt và lẫn lộn. Đã có rất nhiều đơn thư khiếu nại về việc người nghèo không được vay vốn.
Bên cạnh đó, sự ra đời của các tổ tiết kiệm vay vốn (TKVV) rất chậm và hoạt động trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Mức cho vay hộ nghèo hiện nay mang tính chất bình quân đồng đều, tối đa 3 triệu- điều này chưa đáp đáp ứng nhu cầu vốn thực tế của một số hộ nghèo vươn lên sản xuất kinh doanh theo dự án có tính chất khả thi, đồng thời làm cho bản chất tín dụng chính sách bị hiểu lệch theo tính chất Nhà nước trợ cấp cho người nghèo, từ đó dẫn đến sử dụng vốn kém hiệu quả.
Một số địa phương thực hiện cho hộ nghèo vay chưa gắn kết với chương trình lồng ghép giúp đỡ ngươì nghèo như: vấn đề nâng cao dân trí,phổ biến kinh nghiệm, chuyển giao kỹ thuật, chương trình khuyến nông, khuyến ngư… Do đó, mặc dù có vốn nhưng người nghèo chưa có kinh nghiệm và thiếu kiến thức sản xuất kinh doanh, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp, khả năng rủi ro cao, đặc biệt là các hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển, hoặc nơi cấp uỷ chính quyền địa phương thiếu sự quan tâm đến việc cho vay hộ nghèo.
Khi thực hiện chính sách tín dụng xuất phát từ nguồn vốn phụ thuộc ngân sách Nhà nước nên đôi khi xảy ra hiện tượng: vốn tín dụng chưa đáp ứng thường xuyên kịp thời vụ và nhu cầu của người vay. Mức vốn cho vay thời kỳ đầu quá nhỏ, chưa phù hợp với suất đầu tư cho cây trồng vật nuôi. Những hộ không có đất đai ngành nghề, chính sách tín dụng với phương thức cho vay trực tiếp tới hộ nghèo chưa thật phù hợp.
Trong quản lý điều hành, một số nơi UBND xã tự ý thu lại tiền vay của hộ nghèo để sử dụng cho mục đích của xã như: xây dựng trụ sở, làm đường, xây dựng đường điện, trả nợ thuỷ lợi phí… Một số nơi tự ý thu thêm lệ phí của hộ nghèo (sau khi khi phát tiền vay) để lập quỹ của xã, quỹ của đoàn thể xã hội, phát sinh hiện tượng các tổ trưởng tổ vay tự ý thu nợ, thu lãi của dân không nộp ngân hàng, thậm chí có một số trường hợp cá biệt: cán bộ ngân hàng tham ô, lợi dụng tiền vay của hộ nghèo rồi bỏ trốn… đó là những nguyên nhân làm phát sinh nợ quá hạn, giảm hiệu quả vốn vay của Ngân hàng phục vụ người nghèo.
2. Đối với tín dụng ngân hàng.
Mô hình tổ chức Ngân hàng phục vụ người nghèo chưa đồng bộ và chưa hoàn chỉnh: Ngân hàng phục vụ người nghèo hiện nay chưa thực sự là một ngân hàng chính sách độc lập, mà như đang là một bộ phận cấu thành của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Chi nhánh Ngân hàng phục vụ người nghèo hiện nay thực chất là một bộ phận chuyên trách của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn được giao quyền hạn và nhiệm vụ cụ thể là tổ chức thực hiện dịch vụ cho Ngân hàng phục vụ người nghèo. Mối quan hệ giữa 2 ngân hàng không rõ ràng về trách nhiệm thực hiện quy trình nghiệp vụ, đặc biệt là quy trình kiểm tra và giám sát hộ vay. Chính vì vậy trong chỉ đạo, điều hành còn vướng mắc và hiệu quả chưa cao. Trong các quy định của Ngân hàng phục vụ người nghèo về kiểm tra, giám sát hộ vay cũng chưa quy định rõ ràng cụ thể về trách nhiềm giữa hai ngân hàng và đại diện các tổ tín chấp. Cơ chế đồng trách nhiệm trong thực tế không phát huy được hiệu quả, dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Về lãi suât.
Như trên đã đề cập, nguồn vốn cho vay của Ngân hàng phục vụ người nghèo gồm 2 phần: vốn Ngan sách cấp và vốn huy dộng.
Để huy động được vốn trong xã hội thì phải có lãi suất hợp lý. Song, lãi suất cho vay hộ nghèo luôn thấp hơn lãi suất thông thường. Cụ thể như, hiện nay lãi suất cho vay thông thường của các ngân hàng thương mại là 0,7 đến 0,85%/tháng, còn lãi suất cho vay đối với hộ nghèo là 0,6%/ tháng. Song, để huy động được vốn thì Ngân hàng phục vụ người nghèo phải đưa ra lãi suất huy động tối thiểu là 0,3%/tháng, với lãi suất quá thấp so với mặt bằng lãi suất chung làc 0,5-0,6%/tháng thì không thể huy động được vốn. Các doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại không thể tiếp tục đóng góp thêm vốn cho Ngân hàng phục vụ người nghèo. Do đó chỉ trông chờ vào vốn thu nợ để tiếp tục cho vay. Hiện nay, nhiều khoản cho vay chưa đến hạn, nên chưa thu được nợ và tỷ lệ nợ quá hạn còn thấp nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên nhiều hộ nghèo sẽ không thể trả nợ đúng hạn, tỷ lệ nợ quá hạn gia tăng, vốn cho vay không thu nợ đúng hạn để quay vòng tiếp tục cho vay chu kỳ sau. ở nhiều tỉnh, huyện, Ngân hàng phục vụ người nghèo không có nguồn vốn cho vay mới mà chỉ trông chờ vào chỉ tiêu nguồn vốn cấp trên phân bổ và chuyển về.
Tuy nhiên, qua thực hiện cho vay lãi suất ưu đãi đối với hộ nghèo trong thời gian qua đã bộc lộ một số tồn tai :
- Cho vay lãi suất ưu đãi đã nảy sinh tư tưởng “ỷ lại” là tiền lệ để trở lại bao cấp qua con đường tín dụng, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp.
- Có tư tưởng vốn “ban phát” nên dễ xảy ra hiện tượng bình quân chia đều, tiêu cực trong phân chia cho vay, nảy sinh nhu cầu giả tạo để sử dụng vốn sai mục đích.
Khó phát huy nội lực, huy động vốn trong nội bộ dân cư để bổ sung nguồn vốn cho vay người nghèo (vì huy động cao theo lãi suất thị trường, nhưng cho vay theo lãi suất ưu đãi, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động âm). Muốn huy động nguồn vốn trong dân cư, Ngân sách phải bù lỗ. Một thực tế để huy động 1.050 tỷ đồng kỳ phiếu của Ngân hàng phục vụ người nghèo nhằm tạo nguồn vốn cho vay hộ nghèo, Ngân sách nhà nước phải cấp bù chênh lệch lãi suất năm 1999 là 117 tỷ đồng, trong khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp thì đây là vấn đề khó. Vì vậy, hoạt động Ngân hàng phục vụ người nghèo thiếu tính bền vững.
-Thiếu sức thuyết phục để thu hút các nguồn vốn của các tổ chức quốc tế bổ sung nguồn vốn cho vay người nghèo. Vì các tổ chức quốc tế cho rằng, đây là kênh tín dụng bao cấp, thiếu cơ sở phát triể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35162.doc