Như vậy theo kết quả nghiên cứu, đa số sinh viên trong mẫu nghiên cứu ở ký túc xá, phòng thuê hoặc nhà thuê. Điều này có thể nhận thấy giá đất và nhà ở trên địa bàn Tp. HCM luôn đứng đầu cả nước, với những sinh viên ở tỉnh rời xa nhà lên thành phố để học tập, với mức tiền mà sinh viên có hàng tháng là thấp và cư trú không ổn định nên hầu hết không có đủ điều kiện mua đất, mua nhà, bên cạnh đó nếu có người quen có nhà cửa ở thành phố họ cũng không muốn đến ở nhờ vì việc ở nhờ thường hạn chế sự tự do trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của họ vì vậy cách duy nhất phù hợp với sinh viên là thuê phòng trọ, nhà trọ, hoặc ở ký túc xá. Tuy nhiên họ cũng chỉ thuê những loại nhà ở bình thường có giá cả hợp với mức thu nhập hàng tháng của họ, vì đa số sinh viên đều cho rằng nhà trọ chỉ đơn giản chỉ là nơi cho họ ngủ, nghỉ về đêm và những lúc rảnh, và những hoạt động khác là không cần thiết, và phần lớn thời gian trong ngày họ cho hoạt động học tập trên trường trên lớp, họ không có yêu cầu cao về nhà ở như chất lượng, tiện nghi
69 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 16294 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề nhà ở của sinh viên đang theo học tại Tp.HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện tại có giá cả phù hợp, 14.1% là nơi ở gần chợ. Ngoài ra các lý do như gần các trung tâm y tế, khu vui chơi giải trí thể thao, không kẹt xe cũng chiếm tỉ lệ đáng kể trong các yếu tố tác động đến việc lựa chọn chỗ ở của sinh viên.
“Lý do mình chọn nơi ở hiện tại à? Mình là sinh viên ở tỉnh lên, cũng có người quen nhưng ở xa trường. mình muốn kiếm nhà trọ gần trường để đi học cho tiện hơn, bạn biết đấy thành phố mình hay kẹt xe nữa ở gần trường chỉ cần đi bộ qua trường là được không sợ bị kẹt xe…, Ngoài ra vì mình nấu ăn ở nhà nên mình cần nơi ở gần chợ để mình có thể vừa đi học về vừa đi chợ về nấu ăn cho tiện…”
(Sinh viên nam, năm 3, trường đại học Văn Hiến).
Như vậy ta có thể thấy rằng các yếu tố có ảnh hưởng đến sự lựa chọn nhà ở của sinh viên là yếu tố quan hệ cộng đồng. Ngoài ra bị chi phối bởi 2 mục đích là nơi phục vụ tốt cho việc học tập và nơi ở có những điều kiện thuận lợi trong cuộc sống sinh hoạt của sinh viên.
2.2.3.2. Số lần chuyển nơi ở
Có chỗ ở ổn định là điều mong muốn của tất cả mọi người nói chung và sinh viên nói riêng. Để kiếm được một phòng trọ ưng ý không phải là chuyện dễ. Vì thế, việc thay đổi nơi ở là không có gì là xa lạ đối với họ. Kết quả điều tra số lần chuyển nơi ở sẽ cho chúng ta thấy điều đó. (Xem bảng 2.3)
Bảng 2.3: Số lần chuyển nơi ở của sinh viên
Số lần chuyển nhà
Trường hợp
Tỉ lệ (%)
Chưa chuyển lần nào
74
30.8
Từ 1 đến 2 lần
72
30
Từ 3 đến 5 lần
75
31.3
Trên 5 lần
19
7.9
Tổng
240
100
Nguồn: kết quả khảo sát của chúng tôi tại các trường đại học – tháng 3/2009
Kết quả khảo sát chúng tôi thấy dù ít dù nhiều thì cũng có 69.2% sinh viên là thay đổi nơi ở của mình. Ít nhất là một lần, và nhiều nhất là 20 lần, và tần suất trung bình chuyển nhà của sinh viên là trên 3 lần. Trong ấy tập trung chủ yếu vào khoảng từ 3 đến 5 lần và 1 đến 2 lần với tỉ lệ lần lượt là 31.3% và 30%.
Hiện nay nhu cầu nhà ở sinh viên đang tăng cao và tình trạng khan hiếm nhà trọ và ký túc xá thì việc kiếm được một nơi ở phù hợp phục vụ tốt cho việc sinh hoạt, học tập và nghỉ nghơi không phải là chuyện đơn giản đối với sinh viên. Do nhu cầu cuộc sống và học tập sinh viên khó có thể có được chỗ ở ổn định và có nhiều lý do để sinh viên chuyển nơi ở.
Qua khảo sát chúng tôi thấy một trong những lý do chính khiến sinh viên thay đổi nơi ở là nơi ở cũ không phù hợp với nhu cầu cuộc sống và học tập. Trong tổng số 165 sinh viên trả lời thì có 39.4% trả lời lý do chuyển nơi ở là chỗ ở cũ không phù hợp, không đủ điều kiện để sinh hoạt và học tập, và có 15.2% sinh viên trả lời chuyển nơi ở vì giá tiền nhà và tiền điện nước sinh hoạt tăng cao.
“Tôi cũng thông cảm với hoàn cảnh của sinh viên, nhưng cũng phải tăng giá thuê nhà vì giá cả tiêu dùng hiện nay tăng quá cao. Cháu nào chịu được thì ở tiếp, không thì đành phải kiếm chỗ khác…”
(Bà Nguyễn Thị Năm, chủ nhà trọ)
Xây dựng ký túc xá cho sinh viên là một giải pháp lâu dài và một trong nhiệm vụ trọng tâm của các trường Đại học, cao đẳng trong thành phố nhưng số lượng các ký túc xá hiện nay vẫn còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của sinh viên. Ký túc xá với những điều kiện ăn ở, sinh hoạt lý tưởng đã đáp ứng được nhu cầu về cuộc sống và học tập cho sinh viên chính vì thế có 10.9% sinh viên trả lời lý do họ chuyển nơi ở là ở ngoài nhà trọ chuyển vào ký túc xá giá cả hợp lý, gần trường, điều kiện học tập và giao lưu tốt hơn. Bên cạnh đó có 12.7% trả lởi với là lý do nơi ở cũ của sinh viên xa trường học gây khó khăn cho việc đi lại và học tập. Ngoài ra các lý do khác như chuyển nơi học, chuyển đến ở với người thân bạn bè chiếm tỉ lệ thấp.
“Tổng cộng là mình chuyển nhà 7 lần”.
Xin bạn cho biết lý do?
“Lần đầu là khi mình mới vào bạn của mình tìm nhà hộ mình phải ở một mình, buồn nên ở được nửa tháng mình chuyển nhà đến ở cùng bạn. Lần thứ hai là do bọn mình thuê nhà nguyên căn lúc đầu ở 9 người nhưng ở được hơn 1 năm thì có 3 anh chị tốt nghiệp ra trường, tiền nhà quá cao nên mình phải kiếm nơi khác để ở. Lần thứ 3 là do xung khắc với bạn cùng phòng nên chỉ ở được có 4 tháng. Lần thứ 4 là do mình được nghỉ hè 2 tháng nên trả phòng về quê cho đỡ tốn tiền. Lần thứ 5 là do điều kiện an ninh tại nơi ở không an toàn nên mình chỉ ở được có 2 tháng. Lần thứ 6 là do xung khắc với bạn cùng phòng hơn nữa chủ nhà lại tăng tiền nhà đột ngột nên mình chuyển đi”.
(Sinh viên Nữ, năm 4, Trường Kỹ thuật công nghệ).
Cũng qua kết quả nghiên cứu, khi xem xét tần suất chuyển chỗ ở thì chúng ta thấy rằng tính ổn định của việc chọn chỗ ở của sinh viên khá cao, chỉ có gần 70% có chuyển chỗ ở. Điều này được thể hiện qua phần trả lời của sinh viên trong việc lựa chọn nơi ở hiện tại. Bên cạnh đó, chúng tôi thấy rằng có 5.5% ý kiến trả lời rằng vì họ không kiếm được chỗ nào nên ở đại. Điều này có thể lý giải do nhiều lý do nhưng một trong lý do chính đó là sinh viên ngoại tỉnh, thường có tâm lý thụ động chính vì vậy họ không đòi hỏi nhiều, sinh viên chấp nhận điều kiện sống ấy bởi không còn sự lựa chọn nào khác, khi mà điều kiện kinh tế gia đình của đa số sinh viên còn rất khó khăn.
Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi cũng thấy sự khác biệt về số lần chuyển nơi ở và năm sinh viên theo học. (Xem bảng 2.4)
Bảng 2.4: Tương quan giữa năm sinh viên theo học và số lần chuyển nơi ở.
Sinh viên năm
Số lần chuyển nơi ở
Chưa chuyển
Từ 1-2 lần
Từ 3-5 lần
Trên 5 lần
Tổng
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Năm nhất
51.7
28.3
18.3
1.7
100
Năm hai
28.3
38.3
30
3.3
100
Năm ba
21.7
26.7
36.7
15
100
Năm tư
21.7
26.7
40
11.7
100
Tổng
30.8
30
31.3
7.9
100
Nguồn: kết quả khảo sát của chúng tôi tại các trường đại học – tháng 3/2009
Chưa chuyển lần nào có 51.7% sinh viên năm nhất, năm hai là 28.3%, năm ba và năm tư chiếm tỉ lệ ngang nhau 21.7%. Chuyển nhà từ 3 đến 5 lần sinh viên chiếm tỉ lệ cao nhất 40%, tiếp đến là sinh viên năm ba 36.7%, sinh viên năm hai là 30%. Số sinh viên chuyển nơi ở trên 5 lần tập trung ở các sinh viên năm ba và năm tư với tỉ lệ lần lượt là 15% và 11.7% còn năm hai và năm nhất chiếm tỉ lệ thấp. Qua đó ta nhận thấy sinh viên có năm theo học càng cao thì có xu hướng thay đổi nơi ở nhiều hơn.
Nguyên nhân của sự khác biệt là do đa số sinh viên trên địa bàn nghiên cứu là sinh viên tỉnh. Mạng lưới xã hội đóng một vai trò quan trong việc tìm kiếm nhà ở. Sự giúp đỡ của người khác là một nhân tố có tác động ảnh hưởng lớn đến việc tìm kiếm chỗ ở của sinh viên cũng như thời gian và kinh phí. Chính vì thế, có được sự giúp đỡ của người khác như người trong gia đình, họ hàng, bạn bè hay nhà trường… là một thuận lợi lớn đối với sinh viên. Đặc biệt là những sinh viên năm nhất và năm hai, rời xa mái ấm gia đình chuyển đến một địa bàn mới với mọi điều kiện sống sinh hoạt bước đầu còn xa lạ, bắt đầu một cuộc sống tự lập họ phải tự lo toan mọi vấn đề trong cuộc sống của mình. Vì vậy sinh viên thường tìm đến sự giúp đỡ từ những người thân và bạn bè với mong muốn họ có thể được giúp đỡ về nhiều mặt đặc biệt là chỗ ở và cuộc sống sinh hoạt. Theo kết quả nghiên cứu cho thấy khi mới lên thành phố có 69.6% sinh viên nhận được sự giúp đỡ trong việc tìm kiếm nhà ở, và 30.3% là tự kiếm nhà ở cho mình. Và chủ yếu khi mới lên thành phố sinh viên thường nhận được sự giúp đỡ từ bạn bè và người thân quen trong gia đình họ hàng của mình 86.8%, và còn lại là được sự giúp đỡ từ nhà trường nơi sinh viên theo học với 13.2% được trung tậm hỗ trợ sinh viên của trường giới thiệu chỗ ở.
Còn đối với những sinh viên năm ba và năm tư khi mà họ đã có cơ hội trải nghiệm cuộc sống hơn, tự lập hơn, không còn bỡ ngỡ với điều kiện sống mới nữa vì họ đã có một đến hai năm để làm quen với nó thì việc tìm kiếm cho mình một nơi ở phù hợp trở nên dễ dàng hơn so với những sinh viên năm dưới.
Như vậy chúng ta có thể thấy biến số năm theo học học khác nhau thì có mức độ chuyển nơi ở khác nhau. Năm theo học càng cao thì tần suất chuyển nơi ở càng lớn.
Nói tóm lại, trước nhu cầu của cuộc sống sinh viên di cư đến thành phố với nhiệm vụ chủ yếu là học tập, cần kiếm một nơi ở ổn định, điều kiện sinh hoạt tốt, đảm bảo cho việc học tập. Vì vậy, khi nơi ở không đáp ứng được nhu cầu của họ lập tức chuyển nơi ở. Nên đa số đa số sinh viên trong mẫu nghiên cứu đều không có chỗ ở nhất định từ khi lên Tp. HCM theo học đến nay.
2.3.2. Thực trạng nhà ở sinh viên.
Như vậy theo kết quả nghiên cứu, đa số sinh viên trong mẫu nghiên cứu ở ký túc xá, phòng thuê hoặc nhà thuê. Điều này có thể nhận thấy giá đất và nhà ở trên địa bàn Tp. HCM luôn đứng đầu cả nước, với những sinh viên ở tỉnh rời xa nhà lên thành phố để học tập, với mức tiền mà sinh viên có hàng tháng là thấp và cư trú không ổn định nên hầu hết không có đủ điều kiện mua đất, mua nhà, bên cạnh đó nếu có người quen có nhà cửa ở thành phố họ cũng không muốn đến ở nhờ vì việc ở nhờ thường hạn chế sự tự do trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của họ vì vậy cách duy nhất phù hợp với sinh viên là thuê phòng trọ, nhà trọ, hoặc ở ký túc xá. Tuy nhiên họ cũng chỉ thuê những loại nhà ở bình thường có giá cả hợp với mức thu nhập hàng tháng của họ, vì đa số sinh viên đều cho rằng nhà trọ chỉ đơn giản chỉ là nơi cho họ ngủ, nghỉ về đêm và những lúc rảnh, và những hoạt động khác là không cần thiết, và phần lớn thời gian trong ngày họ cho hoạt động học tập trên trường trên lớp, họ không có yêu cầu cao về nhà ở như chất lượng, tiện nghi…
“Bạn biết đó mình là sinh viên tỉnh mà, kinh tế gia đình không phải là khá hàng tháng ba mẹ chỉ có đủ tiền cho tụi mình là trả tiền thuê nhà với lại ăn uống thôi, chứ làm sao có đủ tiền mà mua nhà”
(Sinh viên nam, năm 3, Trường Đại học Văn Hiến)
“Mình là sinh viên ở tỉnh, nhà mình không có đủ điều kiện để mua nhà ở thành phố này cho mình ở, mình lại không có người quen ở thành phố này nên phải đi ở trọ…”.
(Sinh viên nử, năm 4, Trường Đại học Kỹ thuật công nghệ).
2.3.2.1. Loại nhà ở
Thực ra việc khảo sát chất lượng nhà ở cũng khá phức tạp khi ranh giới giữa các loại nhà không được rõ rệt. Tuy nhiên theo kết quả điều tra cộng với sự quan sát của nhóm nghiên cứu chúng tôi đã cho thấy loại nhà đúc (đổ bê tông) và nhà gạch (mái tôn) được sinh viên lựa chọn thuê ở nhiều nhất lần lượt chiếm tỉ lệ 49.4% và 44.4% trong tổng số 160 sinh viên, nhà tạm bợ và nhà gỗ ghép chiếm tỉ lệ thấp 6.3% (xem biểu đồ 2.1). Đối với Tp. HCM, việc người dân ở loại nhà gạch mái tôn cũng là phổ biến, tuy nhiên trong nhà họ thường có trần nhà khá đẹp, còn đối với nhà trọ của sinh viên thì việc có trần nhà là hiếm thấy. Nếu nhà nào có trần dù bán kiên cố hay kiên cố thì chúng tôi thì chúng tôi đều cho đó là loại nhà đúc.
Những loại nhà trên với đặc trưng khí hậu miền Nam nắng nóng quanh năm sẽ không tránh khỏi tình trạng nóng bức đặc biệt là nhà gạch mái tôn điều này cũng hạn chế thời gian ngủ nghỉ, sức khỏe cũng như ảnh hưởng đến việc học tập cũng như sinh hoạt của sinh viên. Tuy nhiên những loại nhà này có mức độ kiên cố cao và an toàn cao, và việc đảm bảo vệ sinh nơi ở cũng tốt hơn các loại nhà ở tạm bợ khác trong khi giá cả hợp lý với mức tiền sinh viên có hàng tháng.
Biểu đồ 2.2: Loại nhà ở (tỉ lệ %)
Nguồn: kết quả khảo sát của chúng tôi tại các trường đại học – tháng 3/2009
Như vậy nhìn chung theo kết quả nghiên cứu loại hình, nhà ở trong mẫu khảo sát không ở mức quá thấp kém, hay rơi vào tình trạng nhà tạm bợ, nhà ổ chuột.
2.3.2.2. Giá tiền nhà.
Trong tổng 240 sinh viên của mẫu nghiên cứu thì chỉ có 5.4% sinh viên ở nhờ nhà người quen không phải đóng tiền nhà, còn lại là 94.6% sinh viên hàng tháng phải chi trả tiền nhà.
Theo kết quả nghiên cứu thì có 23.7% có chi phí cho tiền nhà hàng tháng từ 50.000 - 150.000đồng/1 người/1 tháng (chủ yếu là sinh viên ở trong ký túc xá), còn lại là 46.% phải trả tiền nhà từ 170.000 – 300.000 đồng, 15% là phải trả tiền nhà từ 320.000 – 400.000 đồng, đặc biệt là có tới 9.2% sinh viên phải trả tiền trọ với mức trên 400.000 đồng. (Xem biểu đồ 2.3).
Biểu đồ 2.2: Mức chi cho tiền nhà (đơn vị đồng)
Nguồn: kết quả khảo sát của chúng tôi tại các trường đại học – tháng 3/2009
Trong tổng số 237 sinh viên phải đóng tiền nhà hàng tháng thì số tiền thấp nhất sinh viên phải trả cho 1 tháng là 50.000 đồng và cao nhất là 800.000 đồng/1 người/1 tháng, như vậy ta có thể dễ dàng nhận thấy sinh viên thuê nhà trọ ở bên ngoài nhà dân hiện nay đang chịu một mức giá khá cao, trung bình là 274.000 đồng/1 tháng (Xem phụ lục bảng 1.6), tức là phải trả số tiền để thuê nhà ở là 9.133 đồng/1 người/1 ngày. Trong khi đó điều kiện sinh hoạt ở nhà trọ vẫn chưa thể đảm bảo một chỗ học tập, nghỉ ngơi tốt nhất. Chính vì thế có 34.1% (78 sinh viên) đánh giá số tiền thuê trọ không phù hợp với giá cả chung của thị trường hiện nay.
Trong số 78 sinh viên trả lời giá tiền nhà chưa phù hợp thì đa số trong họ cho rằng tiền nhà nên ở mức từ 200.000 đồng trở xuống (59.5%), trong đó mức giá từ 100.000 đồng trở xuống có 22.8% sinh viên chon, mức giá từ 100.000 – 200.000 đồng có 36.7%. Ở mức từ 200.000 – 300.000 đồng là 30.4%, và chỉ có 10.1% sinh viên chấp nhận mức giá trên 300.000 đồng. (Xem bảng 2.5).
Bảng 2.5: Giá tiền nhà theo sinh viên là phù hợp.
Mức tiền
Trường hợp
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ tích lũy (%)
Từ 100 ngàn trở xuống
18
22.8
22.8
Từ 100 ngàn đến 200 ngàn
29
36.7
59.5
Từ 200 ngàn đến 300 ngàn
24
30.4
89.9
Trên 300 ngàn
8
10.1
100
Tổng
78
100
Nguồn: kết quả khảo sát của chúng tôi tại các trường đại học – tháng 3/2009
Như vậy hiện nay số đông sinh viên trên địa bàn nghiên cứu đang phải chịu một mức giá tiền nhà khá cao với mức trung bình gần 300.000 đồng. Trong khi đó số tiền sinh viên có hàng tháng là mức có giới hạn, điều này ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống sinh hoạt của họ sẽ được chung tôi làm rõ trong phần chi tiêu sinh hoạt của họ.
2.3.2.3. Môi trường ở - chất lượng phòng ở.
Khác với những đối tượng khác, chỗ ở của sinh viên còn là nơi sinh viên tự học tập, tự nghiên cứu sau những giờ lên lớp, lên giảng đường, sau những giờ học tập căng thẳng sinh viên rất cần một không gian để rèn luyện thể lực sức khỏe, đảm bảo cho việc học tập. Trong khi đó nhà ở lại có diện tích hẹp và lại bao gồm cà nhà vệ sinh, phòng tắm, khu vực nấu ăn. Như vậy tình hình ở các nhà trọ sinh viên hiện nay là khá phức tạp: chỗ học, chỗ ngủ, chỗ nấu ăn, chỗ giặt giũ, tắm rửa, vệ sinh đều trong một phòng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phản ánh rõ điều này.
Về diện tích phòng
Trên thực tế hiện nay nhu cầu nhà ở của sinh viên ngày càng lớn, việc kinh doanh nhà trọ đang ngày càng phát triển, và là một trong những nguồn thu chính của người dân địa phương nên các chủ nhà trọ thường xây phòng trọ có diện tích nhỏ để tăng số lượng phòng ở trong khi đó chưa có văn bản của cơ quan nào đưa ra những quy định chính thức về tiêu chuẩn xây dựng nhà trọ, phòng trọ trong khi đó sinh viên phải ở từ 3 đến 5 người/1 phòng mới có thể cân bằng được mức thu chi. Vì vậy diện tích phòng tương đối hẹp so với nhu cầu sinh hoạt đơn giản thường ngày của mỗi người.
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy diện tích trung bình của mỗi nhà ở khoảng 28.4m2, diện tích cao nhất là 75m2, và diện tích thấp nhất là 4m2. Diện tích nhỏ từ 4–10m2 cũng chiếm 1 tỉ lệ không nhỏ là 12.4%. Còn lại phần lớn các phòng đều có diện tích từ 11–20m2 chiếm tỉ lệ là 37.2%, tỉ lệ càng giảm đối với các phòng/nhà có diện tích cao, các phòng từ 21–30m2 chiếm 18.1%. Diện tích trên 30m2 có 36.7%, con số này cho chúng ta thấy một điều đáng mừng là hiện nay diện tích sinh hoạt của sinh viên khá lớn, nhưng thực tế đối với sinh viên ở ký túc xá, do nhu cầu nhà ở của sinh viên quá cao trong khi hầu hết các trường đại học có ký túc xá cũng chỉ có thể giải quyết được một số lượng nhỏ nhu cầu vì thế số lượng sinh viên trong một phòng ký túc xá thường là cao. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi diện tích trung bình của 1 phòng ký túc xá là 44.2m2, thay vào đó số lượng sinh viên ở lại khá đông trung bình 1 phòng có gần 14 người, và cao nhất là 25 sinh viên/ 1 phòng, ít nhất cũng có 3 sinh viên trong 1 phòng, như vậy diện tích trung bình của một sinh viên ở ký túc xá là 3.2m2/1 sinh viên. Như vậy tuy mức phí tiền nhà không thấp hơn bao nhiêu so với sinh viên ở trọ bên ngoài nhưng diện tích ở trung bình lại thấp hơn, điều kiện sinh hoạt chật chội hơn.
Thêm vào đó, để tăng diện tích nhà cũng như tăng giá nhà trọ nhằm thu lợi nhuận cao hơn, các chủ nhà trọ đa số xây thêm các gác xếp trong mỗi phòng. Vì vậy trong mẫu nghiên cứu số lượng phòng có gác xếp chiếm tỉ lệ 35.6%.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, với số lượng người tính trung bình trong mỗi phòng là 3.68 người thì trung bình diện tích phòng ở trên một người trong mẫu nghiên cứu khoảng 3.9m2. Con số này không cân bằng với con số diện tích trung bình 28.5m2/1 phòng. Điều này ta cũng thấy sự chênh lệch diện tích sinh hoạt giữa các sinh viên. Như vậy diện tích nhà/ phòng ở trong mẫu nghiên cứu là thấp, điều này sẽ làm hạn chế việc sinh hoạt hàng ngày của sinh viên.
Ngoài ra, diện tích sinh hoạt trong phòng của mỗi sinh viên còn hạn chế bởi với lối thiết kế phòng trọ khép kín, trong phòng bao gồm cả công trình phụ như nhà tắm, nhà vệ sinh và bếp nấu ăn. Qua kết quả nghiên cứu có 43.4% ý kiến sinh viên trong tổng 509 ý kiến trả lời trong phòng họ có phòng tắm, 41.8 % là có phòng vệ sinh, và bếp nấu ăn là 14.7%.
Điều này có nghĩa là diện tích nhà tắm, nhà vệ sinh, bếp nấu ăn đã chiếm một diện tích không nhỏ trong phòng ở của họ, làm thu hẹp phạm vi nơi ăn uống, ngủ nghỉ, học tập và sinh hoạt của sinh viên.
Như vậy, Chúng ta thấy rằng diện tích phòng ở trong mẫu nghiên cứu là thấp và điều này sẽ làm hạn chế việc sinh hoạt hàng ngày, cũng như việc học tập, nghỉ ngơi của sinh viên.
Rõ ràng không ai có quyền cấm sinh viên có thể thuê mướn những phòng trọ rộng rãi và thoáng mát, cũng không ai bắt họ phải sống trong môi trường đông đúc và chật chội như thế nhưng vì giá cả thuê nhà thì mắc, thêm vào đó xuất phát từ ý nghĩ nhà trọ sinh viên chỉ là chỗ ở tạm bợ, sinh viên chỉ cần có chỗ ở là được và vì muốn tăng lợi nhuận nên các chủ nhà trọ ít đầu tư cho điều kiện nhà ở cho sinh viên. Chính vì thế đa số các sinh viên thường phải chịu chấp nhận cảnh sống tạm bợ, điều kiện sinh hoạt bất tiện.
“Vì từ trước tới giờ mình chuyển nhà nhiều rồi, giờ không muốn chuyển nữa đồ đạc nhiều, hơn nữa đâu phải mình không muốn chuyển đến nơi ở tốt hơn nhưng không thể kiếm ra, đa số sinh viên tụi mình sống là như vậy đó…”
(Sinh viên nam, năm 3, trường Đại học Văn Hiến)
Có 37 sinh viên (23.1%) trả lời rằng nơi sinh viên sinh sống xảy ra tình trạng ngập nước, trong đó 32.4% trả lời thường xuyên có tình trạng ngập nước (1 tháng 2 lần), 37.8% trả lời là vài tháng ngập 1 lần, 27% trả lời rằng cứ có trời mưa là nơi họ đang sống bị ngập nước, 2.7% là 1 tháng 1 lần xẩy ra tình trạng ngập nước.
Cũng do tận dụng tối đa diện tích nên trong những dãy nhà trọ này, công trình phụ và kết cấu bố cục nhà thường thiếu hợp lý, thiếu ánh sáng, khoảng không gian mở cần có. Thêm vào đó với tính chất khí hậu miền Nam nắng nóng nên khi được hỏi về không khí nhiệt độ trong phòng/nhà sinh viên đang ở hàng ngày thì có tới 17.1% sinh viên đánh giá phòng trọ nóng bức ngột ngạt, 47.9% là bình thường.
Tóm lại, về điều kiện nhà ở trong nghiên cứu này không rơi vào tình trạng “nhà ổ chuột” hay “nhà tạm bợ”, tuy nhiên còn hạn chế về mặt diện tích và mang tính chất nóng bức do số lượng người ở trong một phòng cao do một phần lớn mái lợp nhà bằng tôn và còn điều kiện vệ sinh chưa được tốt lắm. Điều này ảnh hưởng đến sinh hoạt, học tập cũng sức khỏe của họ.
Điện nước sinh hoạt.
Song song với vấn đề nhà ở, vấn đề điện nước trong sinh hoạt cũng là một vấn đề lớn trong đời sống sinh hoạt của sinh viên. Điện nước là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống con người nói chung và sinh viên nói riêng. Để giảm chi phí, hầu như chủ nhà nào cũng hạn chế tối đa đầu tư, kể cả điện nước và các tiện nghi tối thiểu phục vụ sinh hoạt hàng ngày.
Khác với những sinh viên ở ký túc xá được bao tiền điện nước chung với tiền nhà (chỉ khi nào sinh viên sử dụng quá định mức mới phải đóng thêm với mức phí cũng thấp hơn). Thì sinh viên ở trọ mức chi cho điện nước cũng là một khoản chi gần như cố định trong cuộc sống sinh hoạt của họ.
Nguồn điện.
Trong nghiên cứu này phần lớn sinh viên sử dụng nguồn điện chung với nhà chủ 76.2% khi thanh toán tiền điện họ phải thanh toán cho nhà chủ, 22.5% có đồng hồ riêng tự thanh toán tiền điện với điện lực (chủ yếu tập trung vào các nhà người quen, và nhà thuê), 1.3 % là được nhà chủ bao tiền điện. (Xem bảng 2.6)
Bảng 2.6: Nguồn điện sinh viên đang sử dụng
Nguồn điện
Trường hợp
Tỉ lệ (%)
Câu nhờ nhà chủ
122
76.2
Có đồng hồ riêng
36
22.5
Bao điện
2
1.3
Tổng
160
100
Nguồn: kết quả khảo sát của chúng tôi tại các trường đại học – tháng 3/2009
Theo quy định công nhân, người lao động, sinh viên sử dụng điện cho mục đích sinh hoạt tại các nhà lưu trú, khu tập thể sẽ được áp dụng giá bán 920 – 1.010 đồng/1 kw. Đối với sinh viên, công nhân, người lao động thuê nhà để ở thì áp dụng giá bán lẻ điện sinh hoạt bậc thang, cứ 4 người tính là hộ sử dụng điện (có giấy hoặc sổ đăng ký tạm trú, giấy chứng minh chủ nhà đăng ký kinh doanh phòng trọ hoặc giấy xác nhận của địa phương chủ hộ có nhà cho thuê…) [24]. Nhưng thực tế, theo kết quả khảo sát của chúng tôi sinh viên phải trả tiền điện ở mức cao hơn người dân địa phương, nếu người dân địa phương phải trả 750đồng/1kw trong định mức thì sinh viên phải chi trả trung bình là 2.121đồng/1kw có nghĩa là cao hơn 3 lần, mức cao nhất mà sinh viên phải trả là 4.000 đồng/1kw. Chính vì vậy mà khi được hỏi giá điện như vậy là phù hợp chưa thì có tới 43.1% sinh viên cho rằng là không phù hợp. Như vậy vì là nhà trọ theo kiểu phòng nên không có đồng hồ gốc như kiểu gia đình, hộ gia đình là không thể có. Điều này sẽ kéo theo khó khăn cho người đi thuê phòng nói chúng và sinh viên nói riêng khi mà họ phải trả số tiền điện với giá cao.
Nguồn nước.
Tương tự như vấn đề sử dụng nguồn điện, việc sử dụng điện cho sinh hoạt của sinh viên cũng diễn ra tương tự. Đa số sinh viên trong mẫu nghiên cứu sử dụng nguồn nước là nước máy chiếm tỉ lệ 71.6%, (Xem bảng 2.7). Nhưng vẫn còn một tỉ lệ không nhỏ sử dụng nguồn nước là nước giếng (27.8%), trong khi đó những năm gần đây do mở rộng sản xuất công nghiệp, số lượng nước thải công nghiệp ngày càng tăng nên việc nguồn nước giếng bị ảnh hưởng là điều không tránh khỏi. Theo đánh giá về chất lượng nguồn nước mà sinh viên đang sử dụng thì 51.2% sinh viên đánh giá là chất lượng nước là bình thường, 11.9% cho rằng chất lượng nước không tốt, 1.9% là rất không tốt.
Bảng 2.7: Nguồn nước sinh viên đang sử dụng
Nguồn nước đang sử dụng
n (ý kiến)
Tỉ lệ (%)
Nước máy
118
71.6
Nước Giếng
46
27.8
Khác
1
0.6
Tổng
165
100
Nguồn: kết quả khảo sát của chúng tôi tại các trường đại học – tháng 3/2009
Trong kết quả ngiên cứu này số sinh viên trả lời phải trả tiền nước sinh hoạt là 84.4%, và số sinh viên được nhà chủ bao điện nước là 15.6%. Theo quy định, giá nước ở đô thị lớn như Hà Nội, Tp.HCM không thấp hơn giá sàn quy định là 3.000 đồng/m3 và không được vượt mức giá trần là 12.000/m3. Thế nhưng theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi các phòng trọ cho thuê trên địa bàn nghiên cứu đa số người thuê phòng đang phải chịu mức giá cao khoảng trên 10.000 đồng/m3. Thông thường người dân địa phương phải trả 2.700 đồng/1m3 nước nhưng sinh viên phải trả trung bình là 6.646 đồng/1m3, thậm chí có sinh viên phải trả 15.000 đồng/1m3 (6.3%), mức chi chủ yếu từ 5.000-1.000 đồng/1m3 chiếm tỉ lệ là 42.5%, mức chi từ 11.000-15.000 đồng/m3 chiếm tỉ lệ là 16.9%, từ 2.000 – 4.000 đồng/m3 là 25%.
Còn đối với sinh viên ở ký túc xá theo tìm hiểu của chúng tôi là họ được bao điện nước sinh hoạt chỉ khi nào sinh viên sử dụng quá định mức cho phép thì mới thu tiền nước với Ký túc xá Bách Khoa là mức phí cho mỗi sinh viên là 250.000 đồng một tháng (bao gồm tiền ở và tối đa 10 ký điện, 4 khối nước miễn phí), Ký túc xá Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh là 130.000 đồng một (bao gồm tiền ở và tối đa 5 ký điện, 4 khối nước miễn phí) chỉ khi nào sinh viên sử dụng vượt quá định mức thì thu 1.100 đồng/ 1kw điện, và 2.500 đồng/ 1m3. Nhưng thường thì sinh viên không phải đóng thêm tiền điện nước sinh hoạt bởi:
“Chúng tôi đưa ra quy định này nhằm mục đích là hạn chế sự lãng phí trong sử dụng điện nước của sinh viên chứ thường thì không thu thêm tiền của các em”
(Thầy Hà trưởng ban quan lý Ký túc xá Đại học Công nghiệp Tp. HCM)
Nói tóm lại, phần đông sinh viên trên địa bàn nghiên cứu đều là những người đi thuê nhà ở để phục vụ cho sinh hoạt và học tập. Vì là nhà trọ nên việc sử dụng nguồn điện và nước trong sinh hoạt hàng ngày họ phải thường câu nhờ nhà chủ với giá cao. Vì do tính chất đặc biệt của thị trường nhà trọ cho thuê, người thuê nhà phải chấp nhận yếu thế trong các cuộc thương lượng thuê nhà, phòng trọ.
2.3.2.4. Vấn đề an ninh trật tự.
Tp. HCM là nơi tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng và các khu công nghiệp nên thu hút một lượng lớn học sinh, sinh viên và người lao động, đa phần lực lượng này ở các tỉnh khác về và ở dồn trong một khu, dẫn đến tình trạng hình thành các khu phố trọ như phường 19, 25 quận Bìn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van de nha o cua sinh vien.doc