Đề tài Vấn đề phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG CHI TIẾT 2

I. LÝ LUẬN: SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA. 2

1. Bản chất kinh tế tư nhân. 2

1.1. Các bộ phận của kinh tế tư nhân. 2

1.2. Ưu điểm của khu vực kinh tế tư nhân. 3

1.3. Hạn chế của kinh tế tư nhân. 3

2. Vai trò tác dụng to lớn của kinh tế tư nhân. 3

3. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế tư nhân. 4

II. THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN Ở NƯỚC TA. 5

1. Sự phát triển về số lượng trong khu vực kinh tế tư nhân. 5

2. Vốn cho khu vực kinh tế tư nhân. 6

2.1. Vấn đề tiếp cận vốn ngân hàng của khu vực kinh tế tư nhân. 6

2.2. Quy mô về lao động 8

2.3. Trình độ, tay nghề lao động và quản lý 8

2.4. Hiệu quả của khu vực kinh tế tư nhân 8

3. Đánh giá chung về khu vực kinh tế tư nhân 9

III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN 11

1. Nhóm giải pháp "Khởi sự kinh doanh" 12

1.1. Chiến lược quốc gia phát triển các ngành nghề phù hợp với nhu cầu thị trường. 12

1.2. Chính sách hỗ trợ vốn kinh doanh 12

1.3. Phát triển hiệp hội SMES nhằm đưa chương trình đào tạo "Khởi sự doanh nghiệp" đến tất cả những người dân có nhu cầu: 12

1.5. Giảm tải những phiền hà trong các thủ tục thành lập doanh nghiệp. 13

2. Nhóm các giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân. 14

2.1. Thông tin thị trường. 14

2.2. Hỗ trợ vốn để mở rộng và phát triển quy mô sản xuất kinh doanh. 14

2.3. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân này có trình độ sản xuất 15

3. Một số giải pháp về tín dụng để khu vực kinh tế tư nhân phát triển, phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế nước ta 15

KẾT LUẬN 17

TÀI LIỆU THAM KHẢO 18

 

doc19 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1018 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vấn đề phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưng có thuê mướn lao động. Tuy nhiên thu nhập vẫn dựa chủ yếu vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình. Kinh tế cá thể, tiểu thủ có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình từng người lao động. Vì vậy việc mở rộng sản xuất, kinh doanh kinh tế cá thể và tiểu chủ cần được khuyến khích. c. Kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay kinh tế tư bản tư nhân còn có vai trò quan trọng xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất và xã hội hoá sản xuất, cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. 1.2. Ưu điểm của khu vực kinh tế tư nhân. a. Kinh tế cá thể, tiểu chủ. Thành phần kinh tế này hoạt động dưới hình thức kinh doanh hộ gia đình trong các lĩnh vực nông lâm ngư nghiệpVới số lượng đông đảo trên khắp cả nước do đó là một kênh để có thể phát huy nguồn lực về vốn, lao động một cách nhanh nhất với quy mô rộng nhất. Do quy mo nhỏ cũng là một lợi thế dễ tổ chức quản lý, thay đổi, bắt đầu ngành nghề sản xuất phù hợp với yêu cầu thị trường mà các khu vực kinh tế khác ít quan tâm. b. Kinh tế tư bản tư nhân. Thành phần kinh tế này rất năng động nhạy bén với kinh tế. Phần lớn tập trung trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, kinh doanh bất động sản. Chủ sở hữu cá thể thay đổi ngành nghề và thực hiện sản xuất kinh doanh ở các phân đoạn thị trường phù hợp với trình độ của mình. Đây chính là lợi thế lớn nhất của kinh tế tư bản tư nhân. Mặt khác các quyết định kinh doanh không bị ràng buộc như các khu vực khác. 1.3. Hạn chế của kinh tế tư nhân. Mặc dù nhà nước đã có nhiều chính sách biện pháp định hướng, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân đã cố gắng điều chỉnh nhiều nhưng cũng không thể loại bỏ những hạn chế cố hữu của nó: tính tự phát rất cao. Đầu cơ buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giảbất chấp tất cả vì lợi nhuận. 2. Vai trò tác dụng to lớn của kinh tế tư nhân. Bên cạnh những thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội thì thành phần kinh tế tư nhân vẫn tồn tại và có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế cơ lợi cho đất nước. Trong việc giải quyết việc làm, tăng sản phẩm huy động nguồn vốn. Bởi kinh tế tư nhân rất năng động nhạy bén với kinh tế thị trường. Thực tế là sau hơn 20 năm đổi mới của Đảng ta từ sau đại hội IV Đảng cộng sản Việt Nam cho đến nay khu vực kinh tế tư nhân đã có bước phát triển mạnh mẽ. Và có những đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước. Một là huy động được nguồn lực tiềm ẩn trong dân cư vào phát triển sản xuất kinh doanh. Hai là tạo ra đa số công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động bảo đảm đời sống và do đó góp phần đáng kể cho việc ổn định xã hội, tăng trưởng GDP thực sự có ý nghĩa trong điều kiện nước ta khi mà khả năng thu hút lao động của khu vực kinh tế nhà nước còn hạn chế. Ba là, duy trì phát triển các làng nghề truyền thống, kinh nghiệm sản xuất. Kinh doanh, kinh nghiệm quản lý đã tích luỹ qua nhiều thế hệ, tạo lập sự cân đối và phát triển kinh tế giữa các vùng góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nông thôn. Bốn là góp phần mạnh mẽ vào thúc đẩy sức cạnh tranh của nền kinh tế. Năm là khu vực kinh tế tư nhân hình thành tầng lớp xã hội mới là doanh nhân là những người khá năng động. 3. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế tư nhân. Do những đặc điểm của nền sản xuất trong thời kỳ quá độ nước ta. Nền kinh tế phát triển chưa thực sự cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau, tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Nên về phương diện kinh tế - xã hội phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Trong đó có thành phần kinh tế tư nhân. Để phù hợp với đặc điểm thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Mặt khác từ những bài học xương máu trong thời kỳ chuyển biến từ sở hữu tư nhân thành sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất: do nóng vội chủ quan duy ý chí xoá bỏ sở hữu tư nhân đã làm cho kinh tế rối ren gặp không ít khó khăn. Vì vậy trong giai đoạn hiện nay khi mà nước ta đã bước vào nền kinh tế hội nhập. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chẳng những không cần xoá bỏ mà phải được tạo mọi điều kiện để phát triển. II. Thực trạng của kinh tế tư nhân ở nước ta. 1. Sự phát triển về số lượng trong khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân như doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp doanh đã phát triển nhanh chóng thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Trong giai đoạn 1990 - 1995 kinh tế cá thể, tiểu chủ trong lĩnh vực phi nông nghiệp tăng rất nhanh nếu năm 1990 mới có khoảng 800000 cơ sở kinh tế cá thể tiểu chủ thì năm 1995 lên tới 2 triệu cơ sở, tốc độ tăng bình quân 20%/ năm, giai đoạn 1996 - 2000 số hộ kinh doanh cá thể tăng chậm hơn những năm trước ở mức bình quân 6%/ năm. Cho đến nay đã có khoảng gần 3 triệu hộ kinh doanh, trên 200 ngành kinh doanh. ở nông thôn, với việc chủ trương giao ruộng đất ổn định cho nông dân, hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Về thực chất đó là kinh tế cá thể hoặc kinh tế tiểu chủ. Hiện nay, nước ta có gần 12 triệu hộ nông dân khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào thành tựu nổi bật trong lĩnh vực nông nghiệp những năm qua. Từ một nước phải nhập khẩu hàng năm gần triệu tấn lương thực nay trở thành nước xuất gạo đứng thứ 2 thế giới. Hiện nay cả nước có khoảng 113.000 trang trại. Cùng với kinh tế cá thể tiểu chủ các doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có sự phát triển nhanh từ 132 doanh nghiệp (1991) lên đến 70.000 doanh nghiệp (2001) từ năm 200 trở lại đây số doanh nghiệp đăng ký tăng lên nhiều lần lớn hơn tổng số doanh nghiệp 6 năm trước cộng lại. Thực tế cho thấy tiềm năng phát triển khu vực này rất lớn. Trong cơ cấu các loại hình doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân chiếm 58,76%, Công ty trách nhiệm hữu hạn 38,68% còn lại là Công ty cổ phần, Công ty hợp doanh. Đến năm 2007 có hơn 200000 doanh nghiệp dân doanh và 3 triệu hộ gia đình kinh doanh cá thể. 2. Vốn cho khu vực kinh tế tư nhân. Nền kinh tế nước ta có xuất phát điểm thấp: là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, lại bị chiến tranh tàn phá nên tích luỹ tư bản cho phát triển kinh tế rất nhỏ. Nên vấn đề tín dụng ngân hàng là rất quan trọng đối với khu vực kinh tế tư nhân. 2.1. Vấn đề tiếp cận vốn ngân hàng của khu vực kinh tế tư nhân. a. Khả năng tiếp cận. Năm 1995, khu vực kinh tế tư nhân chỉ mới nhận được vốn tự hệ thống ngân hàng là 18.198 tỉ đồng, đến năm 1999 lưu lượng vốn đạt được 44873 tỉ đồng tăng 146% so với năm 1995, trong khi đó tín dụng cho doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng 73%. Đến năm 1997, 1998, 1999 tỉ trọng vốn tín dụng cho khu vực KTTN trong tổng số vốn tín dụng cho các khu vực kinh tế khoảng 46%. Các năm gần đây tỉ trọng này đã tăng lên đáng kể (năm 2003: 64,5%, năm 2004: 66,5%, năm 2007: 67,3%. Tuy nhiên, hiện nay kinh tế tư nhân đang gặp phải một cản trở lớn đến sự phát triển sản xuất kinh doanh và là hiện tượng phổ biến đối với toàn bộ doanh nghiệp thuộc khu vực. Kinh tế tư nhân là tình trạng thiếu vốn để sản xuất mở rộng sản xuất. Quy mô doanh nghiệp hầu hết là vừa và nhỏ, số quy mô lớn là rất ít. Thực tế những năm gần đây số doanh nghiệp có vốn sử dụng dưới 10 tỉ đồng chiếm trên 90%, bình quân vốn thực tế sử dụng của một doanh nghiệp là 3,7 tỷ đồng. Lao động bình quân của doanh nghiệp là 26 người. Mức trang bị tài sản cố định trên một lao động của doanh nghiệp tư nhân chỉ có 34,7 triệu đồng. Chỉ tiêu hiệu quả của doanh nghiệp thấp. Tỷ suất lợi nhuận/ vốn rất thấp xa so với lãi suất ngân hàng. Đặc biệt là của khu vực hộ cá thể còn thấp hơn nữa, chủ yếu là gia công (nếu sản xuất), hoặc đại lý (nếu bán hàng) lấy công làm lãi là chính. Điều này chứng tỏ khả năng tích tụ, huy động vốn còn thấp của KTTN. Lượng vốn tự có của các doanh nghiệp chỉ đáp ứng từ 20% đến 30% yêu cầu. Các doanh nghiệp thiếu vốn dẫn đến không có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ hiện đại. Hiện nay đa số các doanh nghiệp nước ta sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ, 76% dây chuyền được sản xuất từ những năm 1950 - 1960, 75% thiết bị đã hết khấu hao, 50% thiết bị là đồ tân trang. Tóm lại các doanh nghiệp vn chỉ có 10% hiện đại, 38% trung bình, 52% lạc hậu và rất lạc hậu về máy móc thiết bị. Điều đó giải thích tại sao khu vực kinh tế tư nhânh chỉ tập trung vào lĩnh vực thương mại dịch vụ, những ngành đòi hỏi ít vốn, thời gian quay vòng nhanh, chứ chưa đủ sức đầu tư vào những ngành nghề đòi hỏi nhiều vốn công nghệ tiên tiến. Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân vay vốn ngân hàng ngày càng tăng. Nhưng nhìn chung tiếp cận vốn từ khu vực ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn còn không ít khó khăn. b. Tiếp cận vốn ngân hàng của khu vực kinh tế tư nhân gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất vấn đề thế chấp, cầm cố bảo lãnh. Theo các quy định hiện hành của nhà nước và ngành ngân hàng về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín thi: khi các doanh nghiệp sử dụng tài sản để thế chấp, cầm cố, bảo lãnh thì rất khó khăn. Trong việc xử lý các thủ tục như đăng ký sở hữu tài sản, khó khăn trong việc xác định giá trị của tài sản thế chấp nhất là tài sản đó là nhà đất Thứ hai, đa số thường không đủ điều kiện để vay vốn tín chấp tại ngân hàng: chưa có tín nhiệm với ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Không ít doanh nghiệp lửa đảo, chây ì trả nợ, hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, không rõ ràng về sổ sách. Thứ ba vẫn còn tình trạng hình sự hoá quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp về quyết định cho vay và việc không một tổ chức cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của tổ chức tín dụng vẫn chưa được thông thoáng. 2.2. Quy mô về lao động Quy mô của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay chủ yếu là nhỏ và vừa, số doanh nghiệp có dưới 200 lao động chiếm 97,7%. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân đã đóng vai trò tích cực và có hiệu quả đối với việc giải quyết việc làm. Theo thống kê 2000, trên lĩnh vực phi nông nghiệp có hơn 4,6 triệu người làm việc trong các doanh nghiệp, công ty chiếm khoảng 18%. Khu vực kinh doanh cá thể tiểu chủ chiếm khoảng 82% so với tổng lao động toàn xã hội thì toàn khu vực này chiếm 12% và chiếm gần 70% lực lượng lao động xã hội trong khu vực phi nông nghiệp. Hiện nay, ở nước ta lực lượng lao động bổ sung hàng năm khoảng 1,4 triệu người. Số lao động dôi, dư từ các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước do tinh giảm biên chế và sắp xếp lại doanh nghiệp khá lớn, khoảng gần 1 triệu người. Do đó việc thu hút đáng kể lực lượng lao động của khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian qua có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong giải quyết việc làm. 2.3. Trình độ, tay nghề lao động và quản lý Lao động trong khu vực kinh tế tư nhân ít được đào tạo, trình độ văn hoá và kỹ năng thấp, chủ yếu là lao động phổ thông. Qua số liệu điều tra cho thấy, trong khu vực này chỉ có 5,13% số lao động có trình độ đại học, khoảng 48,4 số chủ doanh nghiệp có bằng cấp chuyên môn. Riêng các cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ chỉ có 0,5% số lao động có trình độ cao đẳng và đại học. Đồng thời, trình độ quản lý của người quản lý khu vực kinh tế tư nhân phần lớn dựa trên kinh nghiệm bản thân mà thiếu trình độ quản trị doanh nghiệp, quản lý bằng tin học và đánh gía thị trường tiêu thụ. Đây chính là hạn chế của khu vực này khiến cho việc lập các kế hoạch kinh doanh mang tính chiến lược là rất khó khăn. 2.4. Hiệu quả của khu vực kinh tế tư nhân Từ năm 1996 trở lại đây, tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư nhân giữ ở mức 32% - khoảng 1/3 GDP toàn quốc. Khu vực kinh tế tư nhân có ưu thế là suất đầu tư thấp dễ chuyển đổi phương hướng sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường Vì vậy, tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân khá ổn định. Giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của khu vực kinh doanh tư nhân là 7,2% trong đó doanh nghiệp tư nhân 8,5% công ty TNHH và công ty cổ phần 6,1%; kinh doanh cá thể, tiểu chủ: 7,2%. Năm 2002, tốc độ tăng trưởng chung của cả nước đạt 7% thì khu vực kinh tế tư nhân trong nước tăng 19%., Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước (GDP) phân theo thành phần kinh tế (giá thực tế) Đơn vị: % 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số 100 100 100 100 100 - Kinh tế Nhà nước 38,53 38,40 38,31 38,26 39,22 - Kinh tế ngoài quốc doanh 48,19 47,84 47,78 47,67 45,61 + Kinh tế tập thể 8,58 8,06 7,98 7,49 7,11 + Kinh tế tư nhân 7,31 7,95 8,30 8,23 8,39 + Kinh tế cá thể 32,31 31,84 31,42 31,22 31,50 - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 13,28 13,75 13,76 14,47 15,17 Tạp chí con số và sự kiện Tổng cục Thống kê Dự báo năm 2005, cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế là: Kinh tế Nhà nước: 38,5%; Kinh tế ngoài quốc doanh 47,0%; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: 15%. Đáng quan tâm là trong cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế, tỷ trọng khu vực kinh tế Nhà nước, tập thể, cá thể giảm dần. Khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng dần theo thời gian. 3. Đánh giá chung về khu vực kinh tế tư nhân Nhìn một cách khách quan, trong quá trình đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội cho sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Sự hình thành và phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã tạo nên không khí cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng sôi động và quyết liệt. Nó buộc doanh nghiệp Nhà nước cũng phải đổi mới trong nền kinh tế, làm cho kinh tế thị trường ngày càng thể hiện rõ hơn. Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây, khu vực kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh còn thấp. Thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất là cản trở lớn nhất khiến cho các doanh nghiệp trong khu vực này không có điều kiện cải tiến và trang bị kỹ thuật hiện đại cho sản xuất để nâng cao năng suất lao động. - Trình độ văn hoá và trình độ, kỹ năng kỹ thuật của người lao động còn thấp. Bên cạnh đó trình độ quản trị của người quản lý còn chưa đáp ứng được sự cạnh tranh của cơ chế thị trường yêu cầu. Phần lớn đây là những người có vốn tự đứng ra tổ chức, thực hiện hoạt động kinh doanh trên cơ sở kinh nghiệm nhưng va chạm của bản thân là chính. - Thị trường tiêu thụ sản phẩm là trở ngại lớn cho việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Số lượng cơ sở kinh tế tư nhân tiếp cận được với thị trường thế giới còn rất ít. Do đó, môi trường kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu là thị trường nội địa trong khi thị trường nội địa phát triển yếu, một phần là do sức mua của người dân thấp; phần khác do khả năng quản lý thị trường yếu, hàng lậu tràn lan chiếm lĩnh thị trường. - Chính sách của nhà nước đối với kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân còn chưa thông thoáng. Hệ thống ngân hàng thường đặt ra những điều kiện đối với doanh nghiệp tư nhân khi tiếp cận với nguồn vốn của Ngân hàng. Nhà nước chưa có một chính sách cụ thể để giải quyết mặt bằng các cơ sở sản xuất kinh doanh. Định kiến xã hội vẫn coi khu vực kinh tế tư nhân gắn liền với tiêu cực sợ đẩy mạnh khu vực kinh tế tư nhân này sẽ dẫn đến chệch hướng. Những quan điểm trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc huy động các nguồn vốn của khu vực kinh tế tư nhân cho đầu tư sản xuất. Khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta mới ở trình độ thấp của sự phát triển, tính riêng rẽ, cá nhân là phổ biến, chưa có tính liên kết, hợp tác để tạo sức mạnh chung. Đồng thời, ý thức chấp hành luật pháp còn kém. Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ. ý thức chấp hành nghĩa vụ thuế chưa cao. Do đó, số thuế thu được chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng của khuvực kinh tế này. Đa số doanh nghiệp kinh doanh không đúng mặt hàng đã đăng ký. Tình trạng hàng nhái, hàng giả, vi phạm bản quyền, sở hữu công nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại còn khá phổ biến. Quyền lợi của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa được quan tâm thực hiện, họ vẫn chưa được đóng bảo hiểm để bảo vệ quyền lợi đầy đủ. Qua gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Điều đó đã khẳng định sự đúng đắn về chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta. III. Các giải pháp nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói yêu nước là phải tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Vậy mà đã có một thời gian rất dài, quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội đã không được hiểu và thực hiện một cách đúng đắn, khuvực kinh tế tư nhân đã bị kìm hãm, tiêu diệt đáng kể. Tuy nhiên, trong những năm đổi mới gần đây chúng ta đã nhận thấy vai trò có tính chất lịch sử của khu vực kinh tế này, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm đáng kể bằng những chính sách và sự quản lý vĩ mô tạo thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. 1. Nhóm giải pháp "Khởi sự kinh doanh" 1.1. Chiến lược quốc gia phát triển các ngành nghề phù hợp với nhu cầu thị trường. Nhà nước nên có những chiến lược tầm vĩ mô phát triển các ngành nghề phù hợp với điều kiện từng địa phương để mọi người dân đều có cơ hội tham gia sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế. Các địa phương có lợi thế địa lý gần biển như Thanh Hoá, Quảng Ninh, Ninh Thuận cần phát triển các khu vực chăn nuôi thuỷ hải sản phục vụ định hướng xuất khẩu ra thị trường thế giới. Khuvực các tỉnh có đất đỏ bazan như Tây Nguyên thì cần có chiến lược phát triển cây cà phê, hạt điều, cao sư có quy mô và cụ thể hơn đến tận thị trường tiêu thụ. Đây chính là chìa khoá để giải quyết vấn đề tạo điều kiện để khu vực kinh tế nông thôn tiến kịp với kinh tế thành thị. 1.2. Chính sách hỗ trợ vốn kinh doanh Nhà nước thông qua các kênh giải ngân vốn như Ngân hàng và các quỹ tín dụng cần tạo điều kiện để người dân và các doanh nghiệp dân doanh có thể tiếp cận được nhằm bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh. Đặc biệt vai trò của ngân hàng nông nghiệp và cụ thể là hệ thống ngân hàng chính sách cần phát huy tác dụng hoạt động đưa đồng vốn đến được những người cần vốn để đồng vốn được phát huy hiệu quả. Nhất là ở khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa: 1.3. Phát triển hiệp hội SMES nhằm đưa chương trình đào tạo "Khởi sự doanh nghiệp" đến tất cả những người dân có nhu cầu: Bên cạnh các lớp đào tạo dài hạn tại các trường Đại học chính quy như: Đại học kinh tế quốc dân, Đại học tài chính, Đại học ngoại thương thì cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam VCCI là tổ chức phi chính phủ, đại diện các doanh nghiệp luôn tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn "Khởi sự doanhnghiệp" thông qua chương trình hợp tác các địa phương hỗ trợ kiến thức căc bản cho người dân với mục đích giúp họ làm giàu bằng khả năng của mình. TRên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình Việt Nam và các đìa truyền hình địa phương cũng đã có những chưong trình giúp khởi sự doanh nghiệp. Đây chính là những hoạt động tiếp cận được khuyến khích và phát huy để khu vực kinh tế dân doanh tiếp được với kiến thức kinh doanh, kỹ năng cần thiết để khởi nghiệp một cơ sở kinh doanh. 1.4. Kinh doanh thuế ưu đãi cho những doanh nghiệp mới thành lập. Nhà nước mà cụ thể là chính phủ cần có chính sách ưu đãi về thuế cho những doanh nghiệp khu vực kinh doanh dân doanh mới thành lập, đặc biệt là các đơn vị, hộ gia đình ở khu vực nông thôn, miền núi hoạt động trong cáclĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi. Đây chính là cách khuyến khích nông dân và người dân các đại phương hăng hái tham gia mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh để hoạt động hiệu quả hơn. Chính sách ưư đãi thuế bằng cách miễn thuế hoặc giảm thuế cho các tư nhân mới thành lập trong 1-2 năm đầu cũng là hình thức hỗ trợ đối với những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích. 1.5. Giảm tải những phiền hà trong các thủ tục thành lập doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê được của bà Phạm Chi Lan phó chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam trước đây và là thành viên ban cố vấn chính phủ thì tổng số giấy phép của các doanh nghiệp trong các ngành nghề có tới hơn 300 loại. Đây cũng là phiền toái rất lớn đối với việc khởi sự của các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp trong khu vực dân doanh. Để tạo điều kiện cho các công ty, các doanh nghiệp thì Nhà nước cần giảm bớt đi những thủ rục không cần thiết, chỉ giữ lại những thủ tucj trọng yếu với các ngành nghề cụ thể nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong khâu đăng ký kinh doanh cũng như trong các hoạt động cụ thể của quá trình sản xuất kinh doanh. Đây chính là nhóm các giải pháp để tạo điều kiện làm tăng số lượng các doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhaanm cần được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Đặc biệt là công cụ để phát triển kinh tế nông thôn và khu vực miền núi. 2. Nhóm các giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân. 2.1. Thông tin thị trường. Đây chính là điều bức xúc nhất đối với khu vực kinh tế tư nhân vì với điều kiện hạn chế và quy mô nhỏ, doanh nghiệp tư nhân cũng như các hộ kinh doanh chưa có khả năng tiềm kiếm thị trường cho mình mang tầm chiến lược đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Nhà nước thông qua các công cụ của mình như các phương tiện thông tin đại chúng là đài phát thanh, truyền hình cần đưa tin về thị trường trong nước và quốc tế đối với các loại mặt hàng khác nhau một cách định kỳ và thường xuyên để các doanh nghiệp có thể nắm bắt kịp thời nhằm định hướng công việc kinh doanh của mình một cách phù hợp với thị trường, xu hướng thời đại. Cần phổ cập kỹ năng tìm kiếm thông tin cho các thành viên trong khu vực kinh tế tư nhân thông qua các lớp học ngắn ngày về kỹ năng tìm kiếm thông tin trên internet thông qua hoạt động đào tạo của các trường, các hiệp hội cụ thể như doanh nghiệp, hội nông dân tập thể Đi cùng các đoàn viếng thăm các Nguyên thủ quốc gia ra nước ngoài thì cộng đồng doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần quan tâm thông tin thị trường tại địa phương đoàn kết sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp tìm đối tác xuất khẩu trực tiếp rất cần thiết. - Phát triển các hoạt động xúc tiến thương mại: quảng cáo, triển lãm, giới thiệu sản phẩm tiêu thụ. 2.2. Hỗ trợ vốn để mở rộng và phát triển quy mô sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp có nhu cầu vốn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thì điều kiện để các doanh nghiệp dân doanh tiếp cận được với nguồn vốn của nhà nước là rất khó khăn, điều kiện để được vay thực sự chưa cởi mở đối với các doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình.Đây là trơr ngại cần được nhà nước quan tâm bằng các chính sách hỗ trợ vốn vay thiêts thực hơn. Các doanh nghiệp dân doanh với điều kiên của bản thân họ rất khó có thể tiếp cận được nguồn vốn từ dân như các công ty cổ phần hay các công tu của nhà nước. Do đó Nhà nước cần tạo điều kiện hơn nữa để khu vực này có đủ lực để phát huy khả năng lớn mạnh lên. 2.3. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân này có trình độ sản xuất Các doanh nghiệp tư nhân, các hộ cá thể thường sản xuất với trình độ kỹ thuật lạc hậu do đó năng suất lao động không cao, hiệu quả chưa đáng kể. Muốn vậy cần phải áp dụng vào các máy móc hiện đại trong một số ngành yêu cầu cao như xây dựng, vật liệu, các công trình xây lắp điện hoặc các dây truyền chế biến thuỷ sản hiện đại. Đây là một biện pháp của nền sản xuất xã hội, do đó khu vực tư nhân thực hiện công cuộc chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất là góp phần thúc đẩy cho tiến trình chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật ở trình độ cao cho một nền đại công nghiệp của CNXH. 3. Một số giải pháp về tín dụng để khu vực kinh tế tư nhân phát triển, phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế nước ta Thứ nhất, phải xoá bỏ mặc cảm về thành phần kinh tế; nghiên cứu bỏ cụm từ: "thành phần kinh tế". Các đơn vị thuộc khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là kinh tế hộ và cá thể phải tự mình tìm giải pháp thoát ra khỏi cảnh thiếu thốn, đói nghèo và thực hiện các biện pháp tạo vốn, đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh theo hướng nâng cao năng suất và chất lượng. Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện cơ sở pháp lý để: - Tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tạo cho khu vực kinh tế tư nhân (trong đó có doanh nghiệp) được bình đẳng trong việc tiếp cận vốn, bình đẳng về lãi suất (trong đó có ưu đãi cho diện chính sách xã hội). - Xem xét về cính sách thuế hiện tại, có thể áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp. Mở rộng diện ưu đãi đối với các doanh nghiệp mới thành lập; thực hiện chính sách thuế ưu đãi trong xuất khẩu; tiếp tục cải cách hành chính về thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7392.doc
Tài liệu liên quan