MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Tổng quan về bảo hiểm xã hội
Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm xã hội nói riêng
Đối tượng chức năng của bảo hiểm xã hội
nguồn quỹ bảo hiểm xã hội và mục đích sử dụng
Các chế độ bảo hiểm xã hội
Vị trí, ý nghĩa tác dụng của bảo hiểm xã hội
Thực trạng vần đề thu quỹ bảo hiểm xã hội
Những thành tựu bảo hiểm xã hội Việt Nam đạt được trong thời gian qua (từ năm 1995 đến nay)
Một số hạn chế và khó khăn trong công tác thu bảo hiểm xã hội
Nguyên nhân của việc thực hiện công tác thu bhxh kém hiệu quả
Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH ở Việt Nam và phương hướng trong thời gian tới
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH ở Việt Nam
Phương hướng đặt ra đối với công tác thu BHXH Việt Nam trong thời gian tới
Một số kiến nghị
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
47 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1581 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề thu quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay-Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng một khối lượng tiền tệ đáng kể, tốc độ năm sau cao hơn năm trước rất lớn. Đối với những nước dân số trẻ, nguồn thu bảo hiểm xã hội hoặc an toàn xã hội trong đó có bảo hiểm xã hội là một nguồn tiền tiết kiệm nội bộ quan trọng, đó cũng chính là một trong những nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
Tác dụng của bảo hiểm xã hội đối với người lao động.
Mục đích của bảo hiểm xã hội là bảo đảm những điều kiện vật chất, tinh thần cho người lao động và gia đình họ, nhằm giảm bớt những khó khăn, ổn định đời sống khi họ gặp phải những tai nạn rủi ro, hiểm hoạ khác. Bảo hiểm xã hội vừa thể hiện tính nhân đạo xã hội, vừa thể hiện trách nhiệm xã hội với người lao động. Người lao động là những người tham gia vào quá trình sản xuất, quá trình tạo ra của cải vật chất và sản phẩm dịch vụ phục vụ lợi ích xã hội. Bởi vậy, xã hội phải có trách nhiệm chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần của họ, không chỉ khi khoẻ mạnh tham gia vào lao động sản xuất, mà ngay cả khi gặp tai nạn rủi ro làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Thông qua bảo hiểm xã hội, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước, của cộng đồng xã hội đối với người lao động, góp phần tăng cường quản lí lao động, thúc đấy sản xuất phát triển.
Tác dụng của bảo hiểm xã hội đối với người lao động
Bảo hiểm xã hội cũng phục vụ lợi ích của người sử dụng lao động vì góp phần duy trí hoà bình và ổn định trong lao động, ổn định trong xã hội.
Người sử dụng lao động trả lương cho người lao động là để đáp ứng nhu cầu của người lao động khi họ làm việc cho người sử dụng lao động, nhưng cả khi họ không còn đủ sức để được hưởng lương. Chính là thông qua cơ chế bảo hiểm xã hội mà sự chuyển giao tiền lương giữa hai hoàn cảnh đó được thực hiện.
Người lao động là lớp người dễ rơi vào những hoàn cảnh rủi ro nhất. Số người may mắn trong số người lao động không thể đủ sức để đùm bọc được số người gặp rủi ro. Gánh nặng đó được trải rộng, càng rộng càng tốt cho người lao động. Người sử dụng lao động là lớp người thường có hoản cảch may mắn thuận lợi nhiều hơn. Sự đóng góp thêm của người sử dụng lao động chính là nhằm san sẻ bớt gánh nặng đó, là nhân danh tính đoàn kết xã hội, là căn cứ vào thực tế khả năng thanh toán của mối bên. Phần phí bảo hiểm xã hội mà người sử dụng lao động đóng thêm cho người lao động được hoạch toán vào giá thành sản phẩm, người lao động có thể nâng thêm giá bán hàng hoá và cuối cùng thì người tiêu dùng phải gánh chịu chứ không phải là người sử dụng lao động gánh chịu. Người lao động được bảo hiểm thì yên tâm phấn khởi làm việc, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, góp phần giữ vững thậm chí làm tăng lợi nhuận của người sử dụng lao động, có lợi cho cả hai bên. Sự phát triển và hoàn thiện của bảo hiểm xã hội gắn liền với sự phát triển của sức sản xuất, tiến bộ khoa học-kĩ thuật và tiến bộ xã hội, góp phần củng cố sự ổn định và an toàn xã hội.
Phần II
Thực trạng vấn đề thu quỹ bảo hiểm xã hội
I. Những thành tựu bảo hiểm xã hội Việt Nam đạt được trong thời gian vừa qua (từ năm1995 đến nay)
Bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đảm bảo an sinh xã hội và quyền lợi về bảo hiểm xã hội cho người lao động khi gặp rủi ro phải tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. Cùng với sự đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội chung, từ năm 1995 công tác bảo hiểm xã hội ở nước ta cũng đã chuyển sang một cơ chế thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội hoàn toàn mới so với trước đây. Những nội dung chủ yếu của sự đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội là:
Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
Hình thành một quỹ bảo hiểm xã hội tập trung, độc lập do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp để chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Thành lập hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam từ trung ương đến cấp quận, huyện, thị xã để thực hiện công tác bảo hiểm xã hội
Qua hơn 5 năm thực hiện, đến nay có thể khẳng định rằng những quan điểm nội dung và phương pháp đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với mục tiêu đổi mới toàn diện đất nước. Công tác bảo hiểm xã hội đã từng bước khẳng định tầm quan trọng và vị thề của mình đối với việc phát triển kinh tế-xã hội củađất nước cũng như việc đảm bảo quyền lợi về bảo hiểm xã hội cho người lao động bằng những kết quả cụ thể, to lớn trong thực tiễn xã hội.
Mở rộng đối tựng tham gia bảo hiểm xã hội
Thời kì trước năm 1995, do hoàn cảnh đất nước nên việc thực hiện bảo hiểm xã hội cơ bản do Nhà nước bao cấp. Đối tượng được hưởng bảo hiểm xã hội chủ yếu là người lao động thuộc khu vực Nhà nước. Các đơn vị sử dụng lao động chỉ phải đóng một phần rất ít nhưng vẫn được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.
Từ ngày 01/01/1995 đến nay, khách hàng không còn sự phân biệt giữa người trong biên chế Nhà nước hay nbnggoài biên chế. Vì thế, khong chỉ sôa cán bộ công nhân viên chức thuộc khu vực Nhà nước và các lực lượng vũ trang mà còn được áp dụng bát buộc đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở lên. Tất cả người lao động thuộc đối tượng quy định đều có quyền tham gia bảo hiểm xã hội. Việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội dã động viên mọi người lao động yên tâm làm việc ở các thành phần kinh tế khác nhau. Thúc đẩy thị trường lao động phát triển, đồng thời cũng tạo nên sự công bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế.
Nhờ vào việc mở rộng đối tượng tham gia, nên số người đóng bảo hiểm xã hội ngày càng tăng. Năm 1995 có 2,2 triệu người lao động tham gia bảo hiểm xã hội, đến năm 1999 là gần 4 triệu người tăng 81% so với năm1995
Năm
Số LĐTGBHXH(người)
Tỉ lệ% (năm sau/năm trước)
Tỉ lệ tăng(%)
1995
2.275.998
ắ
ắ
1996
2.821.414
123,9
23,9
1997
3.162.352
112,1
12,1
1998
3.355.389
106.1
6,1
1999
3.834.372
114.3
14,3
(Nguồn báo cáo tình thình thu BHXH-BHXH Việt Nam)
Bảng số liệu trên cho thấy số lao động tham gia bảo hiểm xã hội qua các năm đều tăng năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt số lao động năm 1996- một năm sau khi thực hiện Điều lệ bảo hiểm xã hội tăng 545.446 người đạt 123,9% so với năm 1995. Đến năm 1999 số người tham gia bảo hiểm xã hội là 3.834.372 người tăng 1.558.374 người so với năm 1995 và tỉ lệ là 68,5%. Trong khi đó số lao động làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân ngoài quốc doanh có tốc độ tăng cao nhất. Cụ thể là:
Năm
Số người TGBHXH (người)
1995
30.063
1996
56.218
1997
84.058
1998
112.685
Với tốc độ tăng bình quân 60%/năm
Tiếp đến là tốc độ tăng của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Năm
Số người TGBHXH (người)
1995
78.791
1996
125.889
1997
214.596
1998
242.108
(Nguồn tạp chí BHXH số 2/2000)
Từ những con số trên cho thấy việc ban hành và áp dụng Điều lệ bảo hiểm xã hội về việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hộ ở nước ta trong những năm qua là vô cùng đúng đắn và phù hợp với mục tiêu đổi mới toàn diện đất nước tạo cho bảo hiểm xã hội hình thành được một quỹ bảo hiểm xã hội tập trung, hoạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước. Chủ động chi trả cho người lao động góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách trong việc chi trả cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội, và đặc biệt là bảo đảm được nguyên tắc số đông bù số ít trong bảo hiểm .
Công tác thu bảo hiểm xã hội
Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nội dung hoạt động bảo hiểm xã hội đã có những thay đổi quan trọng. Một trong những thay đổi đó là việc xây dựng quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với nhân sách Nhà nước. Trước đây quỹ này thực chất là không tồn tại về mặt tài chính, được bao cấp gần như triệt để. Việc trhực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội do nguồn góp của các doanh nghiệp từ ngân sách Nhà nước. Từ năm 1962 đến năm 1987 mức đóng gióp là 4,7% so với tổng quỹ lương, từ năm 1987 đến thời điểm quý III năm 1992 là 13%. Việc quản lí quỹ do Bộ lao động thương binh và xã hội thu 8% (trước năm 1987 thu có 1%) để chi cho 3 chế độ: hưu trí, mất sức lao động, tử tuất, còn lại do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam thu 5% để chi trả cho 3 chế độ ngắn hạn: ốm dau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Qua nhiều năm, việc đóng góp bảo hiểm xã hội chỉ đạt 5% mức quy định.
Trong những năm gần đây, ở những đơn sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ thì việc nộp thiếu, nộp chậm là phổ biến, dẫn đến tình trạng thu không đủ chi, 80% kinh phí chi trả phải lấy từ ngân ssách Nhà nước. Có thể thấy rõ vấn đề thu quỹ bảo hiểm xã hội thời kì 1964-1991 qua bảng sau
Năm
%thu BHXH so với chi (%)
% ngân sách NN trợ cấp (%)
Năm
%thu BHXH so với chi (%)
% ngân sách NN trợ cấp(%)
1964
95,3
4,7
1978
20,9
79,1
1965
62,6
37,4
1979
17,9
82,1
1966
58,4
41,6
1980
15,8
84,2
1967
52,5
47,5
1981
10,8
89,2
1968
45,2
54,8
1982
8,1
91,9
1969
41,2
58,8
1983
6,1
93,9
1970
29,7
70,3
1984
6,4
83,6
1971
19,8
80,2
1985
3,0
97,0
1972
15,6
84,4
1986
3,3
96,7
1973
15,7
84,3
1987
2,33
97,67
1974
15,8
84,2
1988
29,05
70,95
1975
15,5
84,5
1989
32,59
67,41
1976
16,8
83,2
1990
26,18
73,82
1977
16,7
83,3
1991
15,07
84,93
( Nguồn chuyên gia ILO)
Qua bảng trên ta thấy thực trạng quỹ bảo hiểm xã hội phần lớn do ngân sách Nhà nước bù đắp, trong khi đó nền kinh tế của chúng ta lại quá thấp kém, do vừa trải qua hai cuộc chiến tranh tàn phá. Vì vậy, để giải quyết vấn đề này, hiện nay quỹ bảo hiểm xã hội hoạt động trên nguyên tắc tự trang trải các chi phí. Nhờ vậy 5 năm qua, kể từ khi đổi mới chính sách (01/01/1995) bảo hiểm xã hội là một chặng đường không ít khó khăn mà bảo hiểm xã hội đã vượt qua, đã tự khẳng định mình và không ngừng lớn mạnh. Có thể nói trong 5 năm qua, bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố và toàn ngành đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ và có một ý nghĩa rất quan trọng. Những kết quả đó được chứng minh thông qua công tác thu bảo hiểm xã hội. Nếu so sánh kết quả thu bảo hiểm xã hội với thời điểm trước khi bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập thì kết quả thu bảo hiểm xã hội đã tăng lên rất nhiều. Đánh giá qua các mặt hoạt động của công tác thu bảo hiểm xã hội trong những năm qua, chúng ta thấy: việc hoàn thiện hệ thống cung cấp văn bản quy định làm tiền đề cho công tác thu bảo hiểm xã hội rất được quan tâm chú trọng. Kết quả đạt được đã khẳng định phần nào sự trưởng thành của hoạt động thu bảo hiểm xã hội. Cụ thể là:
Năm
Tổng số thu (triệu)
Tỉ lệ%(nămsau/năm trước)
Tỉ lệ tăng(%)
1995
1.500.000
ắ
ắ
1996
2.569.733
171,32
71,32
1997
3.554.848
138,34
38,34
1998
3.824.181
107,58
7,58
1999
4.188.382
109,52
9,52
(Nguồn: Tạp chí BHXH số 2/2000)
Từ bảng số liệu trên cho thấy tổng số thu bảo hiểm xã hội năm 1998 so với năm 1995 tăng 2.324.181 triệu đồng đạt 245,95%, năm 1999 bảo hiểm xã hội Việt Nam đã thu được 4.188.382 triệu đồng đạt 109,52% kế hoạch năm. Đặc biệt nếu so sánh với năm 1994 là năm trước khi đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội tập trung, hoạch toán với ngân sách Nhà nước, làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong việc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội để có điều kiện đầu tư vào lĩnh vực kinh tế-xã hội cần thiết khác.
Nguyên nhân
Công tác thu bảo hiểm xã hội được xác định là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Vì vậy, ngay từ khi mới thành lập, trên cơ sở danh sách các đơn vị sử dụng lao động bận bàn giao từ cơ quan lao động thương binh và xã hội, tài chính và liên đoàn lao động. Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố đã tập trung nắm tình hình hoạt động và sử dụng lao động của các đơn vị có trong danh sách được bàn giao, cũng như các đơn vị ngoài danh sách bàn giao nhưng trong diện phải tham gia bảo hiểm xã hội theo qui định cuả luật. Nhờ có sự cố gắng trên, trong 5 năm qua toàn nghành luôn hoàn thành vượt chỉ tiêu kế hoạch thu bảo hiểm xã hội do Nhà nước giao.
Những kết quả đạt được ở trên là nhờ công tác quản lí thu bảo hiểm xã hội từng bước đi vào nề nếp, người lao động ý thức được trách nhiệm và quyền lợi khi tham gia bảo hiểm xã hội. Công tác thu bảo hiểm xã hội của các tỉnh, thành phố ngày một hoàn thiện; tuyên truyền, vận động và phối hợp với các ban, nghành liên quan trong việc thực hiện công tác bảo hiểm xã hội được đảm bảo. Trình độ cán bộ không ngừng được nâng cao. Bảo hiểm xã hội các tỉnh thành phố đã từng bước áp dụng công nghệ tin học vào việc quản lí thu bảo hiểm xã hội. Bên cạnh đó, còn do một số nguyên nhân sau:
- Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố đã kết hợp công tác giải quyết chế độ chính sách bảo hiểm xã hội với công tác thu. Vì vậy, làm tăng thêm ý thức trách nhiệm của các đơn vị sử dụng lao động trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Tuy nhiên, trong các năm 1995, 1996 vẫn còn một số ý kiến chưa đồng tình với cách làm trên của cơ quan bảo hiểm xã hội, đến nay các đơn vị sử dụng lao động và người lao động đã nhận thức được việc thực hiện nguyên tắc có đóng bảo hiểm xã hội mới được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội là việc làm cần thiết và hoàn toàn phù hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội.
- Việc triển khai công tác cấp sổ bảo hiểm xã hội đã tạo được niềm tin cho người lao động, cũng thông qua công tác này bảo hiểm xã hội của các tỉnh, thành phố đã phát hiện kịp thời các trường hợp khai giảm số lao động và quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao động, tạo điều kiện truy thu một số lượng lớn tiền đóng bảo hiểm xã hội còn nợ đọng.
- Chỉ thị 15/CT ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đã có tác dụng rất tích cực trong việc thúc đẩy sự quan tâm của cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp đối với công tác bảo hiểm xã hội, đặc biệt là trong công tác thu. ở hầu hết các địa phương việc thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội đã được qui định là một trong các tiêu chuẩn cơ bản để xét danh hiệu chi bộ, Đảng bộ trong sạch, vững mạnh và các hình thức khen thưởng khác.
Kết quả nổi bật về công tác thu bảo hiểm xã hội trong những năm qua là số lao động tham gai và số thu bảo hiểm xã hội ngày càng tăng, mặc dù các kinh doanh trong và ngoài nước có những tác động không thuận lợi tới công tác thu.
Thu bảo hiểm xã hội ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Từ khi thành lập đến nay các đơn vị trong hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam đã triển khai tích cực công tác thu bảo hiểm xã hội, đạt được những thành tích rất đáng phấn khởi. Kết quả công tác thu năm sau cao hơn năm trước đã khẳng định tính tất yếu của sự ra đời và đảm bảo cho sự tồn tại của hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam. Trong đó công tác thu bảo hiểm xã hội ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng đã đạt được những kết quả bước đầu.
Thu bảo hiểm xã hội đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn được quan tâm vì số lao động làm việc trong khu vực này chiếm tỷ trọng lớn so với tổng số lao động làm việc trong cả nước. Từ khi bắt đầu hoạt động, bảo hiểm xã hội Việt Nam .liên tục triển khai các cuộc hội thảo về thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh tại Trung ương và các tỉnh thành phố; phối hợp với các ban, nghành liên quan, tuyên truyền vận động các chủ sử dụng có trách nhiệm tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động và người lao động nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gai bảo hiểm xã hội.
Tính theo số liệu tổng hợp qua 2 năm 1997- 1998 cho thấy:
1997
1998
%1997so với tổng số cả nước 1998
Số đơn vị
2.358 triệu
3.147 triệu
-
-
Số lao động
84.058 triệu
122.685 triệu
3,6%
3,7%
Số đã thu
72.414 triệu
118.902 triệu
2,8%
3,6%
Số nợ đọng
6.001 triệu
14.716 triệu
-
-
(Nguồn tạp chí bảo hiểm xã hội số 2/2000)
Như vậy, công tác thu bảo hiểm xã hội đối với khu vực ngoài quốc doanh, năm 1998 so với năm 1997 tăng 789 đơn vị, số lao động tăng 38.627 lao động, tổng số thu bảo hiểm xã hội năm 1998 so với năm 1887 tăng 46.488 triệu đồng bằng 64,2%. Song nếu so sánh với tổng số đơn vị ngoài quốc doanh thuộc diện phải tham gia bảo hiểm xã hội mới chỉ là con số rất nhỏ trên tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện đang hoạt động, số thu bảo hiểm xã hội ngoài quốc doanh so với tổng số thu bảo hiểm xã hội của toàn nghành còn thấp năm 1997 là 2,8% và năm 1998 là 3,6%. Tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội còn cao so với tổng số bảo hiểm xã hội phải nộp, theo số liệu báo cáo của các tỉnh, thành phố đến quý 2/1999 tổng số DNNQD hiện đang tham gia bảo hiểm xã hội còn nợ 16.635 triệu đồng.
Thu bảo hiểm xã hội ở một số tỉnh, thành phố.
Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội:
Năm 1999 lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước không tăng do số lao động nghỉ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội nhiều, một số doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang cổ phần, lao động giảm. số lao động do mở rộng sản xuất thu hút thêm không nhiều, khu vực liên doanh với nước ngoài do không tiêu thụ được sản phẩm, lao động giảm cùng với việc giảm tiền lương làm cho tổng quỹ lương của hai khu vực bị hạn chế dẫn đến hanj chế nguồn thu bảo hiểm xã hội so với tổng quỹ tiền lương. Trong khi đó khu vực doang nghiệp tư nhân tham gia đóng bảo hiểm xã hội tăng cùng với số lao động đi làm việc ở nước ngoài tham gia bảo hiểm xã hội và cán bộ xã phường hưởng sinh hoạt phí có đóng bảo hiểm xã hội đã làm cho số thu bảo hiểm xã hội năm 1999 đạt và vượt mức thu năm 1998.
Đến cuối tháng 12/1999 Hà Nội có 381.632 người đăng ký danh sách tham gia bảo hiểm xã hội thuộc 4.126 đơn vị, cơ quan đóng trên địa bàn so với cuối tháng 12/1998 tăng 13.324 người.
Kết quả thu cả năm đạt 456,561 tỷ đồng chia ra:
Khối
Số đơn vị
Số người
Số tiền thu được (tỷ đồng)
Hành chính sự nghiệp
1.925
123.565
123,450
Doanh nghiệp Nhà nước
1.273
227.856
204,811
Văn phòng đại diện
205
1.130
22
Liên doanh
302
18.919
92,5
Tư nhân
268
6.781
7,3
Phường, xã hưởng SHP
146
1.917
1,5
Đi lao động nước ngoài
7
1.464
5
Cộng toàn thành phố
4.126
381.632
456,561
(Nguồn: báo cáo kết quả công tác năm 1999 và nhiệm vụ năm 2000 của BHXH TP Hà Nội)
Nhìn chung việc đóng bảo hiểm xã hội đã được các đơn vị sử dụng lao động thực hiện khá hơn trước và trải đếu các tháng trong năm, song số đơn vị nợ hoặc đóng chậm vẫn còn nhiều.
- Thu bảo hiểm xã hội doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở một số tỉnh, thành phố
Qua hơn 3 năm thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đói với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có chuyển biến đáng kể cả về lượng cũng như về chất. Người lao động làm việc thuộc khu vực này tham gia bảo hiểm xã hội mỗi năm một tăng. Quyền lợi và trách nhiệm về bảo hiểm xã hội giữa các bên: người sử dụng lao động, người lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội từng bước được củng cố góp phần nâng cao hiệu lực pháp luật.
Trong đó, một số tỉnh, thành phố có nhiều biện oháp hữu hiệu quản lí thu bảo hiểm xã hội khu vực kinh tế ngoài quốc doanh như: bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh phân cấp quản lí thu bảo hiểm xã hội doanh nghiệp ngoài quốc doanh cho bảo hiểm xã hội quận, huyện. Do khu vợc kinh tế ngoài quốc doanh ở Thành phố Hồ Chí Minh đông về số lượng đơn vị nhưng nhỏ về quy mô hoạt động, lại gắn kết với hoạt động quản lí Nhà nước ở cấp quận huyện nên bảo hiểm xã hội Thành phố chọn đơn vị hành chính xã, phường làm điểm để điều tra, quản lí. Một mặt, xây dựng và ban hành cơ chế phối hợp với các ngành lao động thương binh và xã hội , liên đoàn lao động Thành phố, phòng kinh tế, thuế… để nắm được tình hình sản xuất, sử dụng lao động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mặt khác, tuyên truyền về chính sách bảo hiểm xã hội đến với người lao động.
Bảo hiểm xã hội tỉnh An Giang ngay từ thàng 08/1996 đã tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh ra chỉ thị về việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng trên 10 lao động. Trên cơ sở đó, bảo hiểm xã hội An Giang xây dựng các kế hoạch thực hiện, đặt ra mục đích, yêu cầu và các bước thực hiện. Bảo hiểm xã hội An Giang còn chủ động tham mưu cho UBND tỉnh, huyện ban hành quyết định về tổ chức kiêm tra việc chấp hành Luật lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó nội dung trọng tâm là thực hiện chính sách thu nộp bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội Thành phố Hải Phòng tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và chính quyền địa phương, tham mưu cho UBND Thành phố ban hành chỉ thị đối với tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc chậm nhất đến tháng 07/1999 phải thực hiện thu nộp bảo hiểm xã hội và giao cho các cấp, các ngành kiểm tra đôn đốc thực hiện.
Ngoài ra, bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố khác cũng đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm thúc đẩy việc quản lí, đôn đốc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia bảo hiểm xã hội để đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Tuy nhiên kết quả thu bảo hiểm xã hội khu vợc kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay vẫn còn tập trung chủ yếu ở một số tỉnh, thành phố lớn, cụ thể như biểu đồ sau:
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
0
TPHCM
B dương
Hà nội
Q ninh
đồngnai
BR-VT
LONGAN
H phòng
Cần thơ
A GIANG
65803
55227
6290
11147
3331
4864
2846
1774
1129
5055
4956
2261
1591
4340
931
876
1342
726
2981
1554
Tỉnh, t phố
Số LĐ tham gia BHxh(người)
Số người tham gia bhxh năm 1997
Số người tham gia bhxh năm 1998
Bảng1: Số người tham gia BHXH ở 10 tỉnh, thành phố năm 1997 và 1998
836.656
52743.794
67867.491
3335.883
7439.692
5198.946
5891.451
820.611
3206.011
1472.318
2373.391
2039.398
2273.719
1942.466
2247.569
892.195
1429.589
633.848
1123.587
479.298
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
tphcm
b dương
hà nội
q ninh
đồng nai
br-vt
long an
h phòng
cần thơ
a giang
Số thu bhxh năm 1997
Số thu bhxh năm 1998
Số thu bhxh(nghìn đồng)
Bảng2: Số thu BHXH ở 10 tỉnh, thành phố năm 1997 và 1998
(Nguồn:Tạp chí BHXH tháng 4/2000)
Phân tích kết quả từ hai biểu đồ trên cho thấy, chỉ tính riêng 10 tỉnh, thành phố đã thu bằng 96,06% số thu bảo hiểm xã hội khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của cả nước. Tổng số lao động tham gia 100.696 người chiếm 89,72% tổng số lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Năm 1997 mới có 2305 doanh nghiệp trong tổng số 24571 doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia bảo hiểm xã hội bằng 9,4%. Năm 1998 số doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia bảo hiểm xã hội có tăng lên là 3136 doanh nghiệp nhiều hơn so với năm 1997 là 831 đơn vị tăng 36%.
Số lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia bảo hiểm xã hội ở cả 10 tỉnh, thành phố năm 1998 đều tăng hơn so với năm 1997. Đặc biệt là tỉnh Quảng Ninh và Thành phố Hải Phòng, tỉ lệ tham gia bảo hiểm xã hội năm 1998 so với năm 1997 là 192%, tiếp đến là tỉnh Cần Thơ 185% và Bình Dương là 177%.
Về số thu bảo hiểm xã hội ở các tỉnh năm 1998 so với năm 1997 cũng đều tăng lên một cách đáng kể. Trong đó dẫn đầu là tỉnh Quảng Ninh tỉ lệ thu năm 1998 so với năm 1997 là 391% tăng gần 4 lần, sau đó là tỉnh Bình Dương tăng hơn 2 lần.
Đây là một kết quả rất khả quan cho thấy việc thực hiện bảo hiểm xã hội ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là hợp lí và đúng đắn. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực kinh tế có lực lượng lao động không nhỏ và còn ẩn chứa nhiều tiềm năng. Vì thế cần phải tập trung nguồn lực để tạo ra bước phát triển vượt bậc, để mọi người lao động trong khu vực này đều được đảm bảo quyền lợi về tham gia cũng như được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Đó là hành động triển khai có hiệu quả nhất chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về bảo hiểm xã hội, đó cũng là việc làm góp phần tạo nên sự công bằng và an sinh xã hội.
Công tác chi trả các chế độ
Cùng với công tác thu, công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cũng đóng một vai trò quan trọng thể hiện sự phát triển độc lập của quỹ bảo hiểm xã hội. Công tác chi cũng đã đảm bảo được an toàn, kịp thời, đủ số và tận tay đối tượng, bước đầu tạo được niềm tin đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Trong gâng 3 năm qua, bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố đã chi trả cho các đối tượng số tiền lên tới 11.616.722 triệu đồng, trong đó chi từ ngân sách Nhà nước là 10.698.994 triệu đồng, chi từ quỹ bảo hiểm xã hội là 917.727 triệu đồng.
Trong đó bảo hiểm xã hội các tỉnh thành phố đã chi trả lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội: 24.427.025 triệu đồng. Chi trả từ nguồn ngân sách Nhà nước cho các đối tượng về hưởng bảo hiểm xã hội trước năm 1995 là 23.643.468 triệu đồng. chi từ nguồn quỹ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng về hưởng bảo hiểm xã hội sau năm 1995 là 2.697.574 triệu đồng. chia ra các năm như sau:
Kết quả chi trả lương hưu và trợ cấp
Chi từ quỹ BHXH
Tổng chi
Chi từ NSNN
383.15
4771.053
4387.903
593.525
5756.618
5128.425
751.629
5880.054
5128.425
980
6081.759
5101.759
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
1996
1998
1999
Số tiền (tỷ đồng)
Năm
(Nguồn:báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động của BHXH Việt Nam năm 2000)
Nhìn chung chi từ nguồn ngân sách Nhà nước cho các đối tượng về hưởng bảo hiểm xã hội trước năm 1995 ngày càg có xu thế giảm do số đối tượng giảm bình quân 2% hàng năm (khoảng 30.000 người). Ngoài ra, việc tăng giảm kinh phí chi trả bị phụ thuộc vào việc ban hành các chế độ, chính sách liên quan đến quyền lợi của đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội như
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35012.doc