Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:"Muốn chủ nghĩa cộng sản thực hiện được,cần phải có kỹ nghệ,nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình".Đó chính là mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội hướng tới:giải phóng con người nhằm phát triển mọi tiềm năng ,giá trị nhân cách của con người.Trong sự nghiệp đổi mới đất nước Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định:"Phát triển con người ,với tư cách vừa là động lực ,vừa là mục đích của cách mạng,của sự nghiệp đổi mới đất nước".Đây cũng là mục tiêu nhân văn của nền văn hoá tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc:"Nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộcvà chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác _Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ,nhằm mục tiêu tất cả vì con người,vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người."
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2016 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề văn hoá và con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i sinh để tập trung giải quyết sự cân bằng, hài hòa giữa các yếu tố.
4 – Có "vay" thì phải có "trả". "Vay" thì phải sáng tạo và không được trở thành kẻ bắt chước. "Trả" thì phải xứng đáng là một dân tộc trong số ít của thế giới có nền văn hóa tiêu biểu. Giới thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam với thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa nhân loại vừa là trách nhiệm, vừa là vinh dự. Suy cho cùng, "giúp bạn cũng chính là giúp mình". Quá trình "vay" và "trả" qua lại lẫn nhau giúp ta có điều kiện giao lưu hội nhập, tạo nên tiên tiến và hiện đại song vẫn rất truyền thống (Việt Nam) nếu chúng ta luôn có ý thức và niềm tự hào về các dân tộc.
5 – Giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc là một ý thức chính trị, và ý thức chính trị của dân tộc, xây dựng tâm lý cộng đồng với nội dung cao cả là tinh thần độc lập tự cường, tự chủ lại là biểu hiện cao nhất và trước hết của văn hóa. Trước đây bản sắc văn hóa của dân tộc với tinh thần yêu nước, chủ nghĩa dân tộc, tinh thần dân tộc tự chủ về chính trị đã khẳng định sức mạnh của phong trào giải phóng thì nay lại càng cần phải như vậy. "Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập"(4).
6 – Tiếp thu toàn diện, nhưng có chọn lọc qua "màng lọc" bản sắc văn hóa Việt Nam. Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh chỉ rõ, cái gì bổ ích và cần thiết, cái gì tốt và hay thì ta phải học lấy, tiếp nhận để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân. Nói như vậy để thấy không phải mọi thứ mới lạ đều bổ ích. Cái gì mới mà hay thì tiếp thu, còn cái mới mà lai căng, xấu xa thì cương quyết loại bỏ.
Kết hợp chặt chẽ việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đấu tranh chống lại sự xâm nhập của văn hóa độc hại. Đó là mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc với tiếp thu tinh hoa, giữa truyền thống – tiếp biến và đổi mới, để bồi bổ cho một nền văn hóa dân tộc cường tráng, với các yếu tố nội sinh sung mãn.
3.Những thành tựu và hạn chế trong quá trình hội nhập
Toàn cầu hóa là một xu thế không thể cưỡng lại đối với tất cả các quốc gia. Chủ động để hội nhập là một thái độ tích cực, khôn ngoan, là khẳng định đường hướng có chiến lược, có chiến thuật, có kế hoạch cho từng bước đi. Chủ động hội nhập sẽ khai thác được nhiều nhất những thuận lợi, những cơ hội để dân tộc có nhiều lợi ích nhất, hạn chế được đến mức thấp nhất những thách thức, những tiêu cực nảy sinh.
Nhưng 20 năm hội nhập văn hóa thế giới quả là cuộc đấu tranh quyết liệt. Không ai phủ nhận sau 20 năm đổi mới, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta được nâng cao, được mở rộng, phong phú đa dạng và giàu có hơn nhiều. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, bên cạnh những mặt tốt đó, thì nhiều mặt tiêu cực của đời sống xã hội cũng nảy sinh. Đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, đời sống văn hóa bị lai căng, nhiều chuẩn mực xã hội không còn được tôn trọng, một số mặt xấu được duy trì công khai không có người lên tiếng, nhiều tệ nạn không ngăn chặn được.
Hội nhập thế giới, nghĩa là ra với đại dương với nhiều sóng to gió lớn. Ở lĩnh vực nào cũng cần phải có người cầm lái có bản lĩnh và có tầm nhìn xa trông rộng. Trên thế giới đã có nhiều bài học về sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa hóa. Những bài học nào cũng chỉ có những giá trị nhất định chứ không thể là chìa khỏa vạn năng. Chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc là hoàn toàn đúng đắn, nhưng triển khai xây dựng quản lý văn hóa toàn xã hội là vô cùng khó khăn phức tạp, là thách thức lớn cần có sức mạnh của nhiều cấp nhiều ngành mới có thể làm được. Với quyết tâm cao thì cuối cùng căn bệnh nào cũng tìm ra được thuốc đặc trị, cũng tìm được giải pháp giải quyết đúng đắn.
Nền văn hóa Việt Nam trong 4000 năm lịch sử tồn tại và phát triển đã thể hiện sức sống mãnh liệt. Âm mưu đồng hóa của những nền văn hóa lớn hết đợt sóng này đến đợt sóng khác cũng không xóa được bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Có thể nói nền văn hóa Việt Nam đã được tôi luyện và có sức đề kháng cao.
Phép biện chứng duy vật và thực tiễn xã hội cho thấy, đời sống tinh thần có cuộc sống độc lập của nó so với nền tảng vật chất xã hội. Văn hoá, một khi ra đời, dù là xuất phát từ tồn tại kinh tế, từ đời sống vật chất, nó trở thành thực thể độc lập với cơ sở kinh tế - xã hội. Thực tế đã chứng minh, những hệ tư tưởng, chính trị, văn hoá đã đóng vai trò điều chỉnh và qui định chiều hướng vận động của xã hội. Ngày nay, loài người càng nhận rõ rằng, văn hoá không chỉ là cái phái sinh của điều kiện kinh tế - xã hội, mà còn là động lực nội sinh của sự phát triển đó.
Văn hoá Việt Nam với bản sắc của mình, qua bao lần tiếp biến vẫn không bị sai lạc, phai mờ, thậm chí qua bao lần đất nước bị xâm lăng, dân tộc bị thôn tính, nhưng bản sắc đó không bao giờ mất, không những không mất mà nó ngày càng được khẳng định và phát triển.
Nói như vậy không có nghĩa hội nhập văn hóa chỉ có đem lại những thuận lợi, tạo ra tất cả những yếu tố tích cực cho và giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam.
Chúng ta dể dàng nhận thấy: “Toàn cầu hoá và hội nhập” một mặt làm nâng cao chất lượng sống, mặt khác cũng hình thành nên những chuẩn mực mới lạ trong đời sống tinh thần, có thể dẫn đến "sự va chạm" giữa lối sống, lối tư duy hiện đại với lối sống và tư duy truyền thống: Lối sống và cách tư duy hoà với thiên nhiên, tình cảm cộng đồng tình làng nghĩa xóm dường như "mặc cảm" với lối sống đô thị và toán tính kinh tế có tính cá nhân, nếp sống thanh bình dễ "dị ứng” với nhịp độ gấp gáp của tác phong công nghiệp, ứng xử tình cảm nghiêng về đạo đức thường tương phản với văn hoá trí tuệ và nền pháp lý chặt chẽ, lối sống tiêu xài không mấy phù hợp với truyền thống thanh đạm của con người Việt Nam…
Vài năm gần đây, không chỉ ở thành thị mà cả ở nông thôn, điều kiện sống, tiện nghi sinh hoạt, lối sống đã có sự thay đổi lớn, sự thay đổi đó diễn ra không chỉ ở bề ngoài mà cả ở chiều sâu. Sự khủng hoảng một số mặt trong nhiều phương diện đời sống đang hình thành liên quan đến từng gia đình. Trước đây một số người đi tìm sự thoả mãn lối sống của họ ở nước ngoài, thì nay lối sống đó đã nảy nở tại Việt Nam, trên một số lĩnh vực lối sống đó đã khống chế lối sống truyền thống Việt Nam, nhiều cách sinh hoạt, cách sống, cách nghĩ... thực sự đã xung đột với những chuẩn mực mà nhân dân ta cho là lành mạnh. Nhiều hiện tượng trước đây hoàn toàn xa lạ thì nay ở không ít người được xem như là chuyện bình thường: bạo lực, kích dâm, xem tiền là tối thượng, xem hưởng thụ vật chất là mục đích của cuộc đời. Đồng minh của lối sống buông thả là luận điệu tự do, dân chủ không ranh giới. Tất cả những cái đó nếu không kịp thời ngăn chặn, đến một lúc, an ninh quốc gia, thậm chí độc lập dân tộc sẽ là cái bia bắn phá, lối sống dân tộc, văn hoá dân tộc sẽ bị coi là lạc hậu, lạc lõng.
4.Kiến nghị và giải pháp về xây dựng nền văn hoá Việt Nam
4.1 Kiến nghị:
Thực tế cho thấy rằng nền văn hoá Việt Nam hiện nay đã có bước chuyển biến rõ rệt, tạo nên một bước ngoặc lớn. Các chuẩn mực giá trị đạo đức truyền thống và những giá trị đạo đức của thời trước đây đã thay đổi hoàn toàn. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thay hình thành nên một diện mạo mới nhưng cũng vô cùng phức tạp, các mặt tích cực và tiêu cực xen lẫn nhau. Cơ chế thị trường luôn hoạt động theo quy luật cung-cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Lợi nhuận trong hoạt động kinh tế là môi trường thuận lợi cho chủ nghĩa cá nhân vị kỷ phát triển. Lối sống chạy theo đồng tiền, tất cả vì tiền, có “tiền mua tiên cũng được” đã đi vào cách nghĩ của một bộ phận người dân. Vấn đề nóng bỏng hiện nay là làm thế nào để trong điều kiện kinh tế thị trường giữ được bản sắc văn hoá Việt Nam, những thuần phong mỹ tục, cốt cách, tâm hồn Việt Nam? Ta cần phải xét văn hoá theo một cách khác. Không phải một nước giàu thì văn hoá cao. Văn hoá cũng không thể là vật có thể chế tạo ra được bằng nghị quyết, sắc lệnh. Nó đòi hỏi thời gian rất dài. Văn hoá đâu phải ra đời một sớm một chiều, mà phải có hàng ngàn năm hun đúc. Chính vì vậy, văn hoá Việt Nam được xem là một trong 5 nền văn hoá lớn có bản sắc độc đáo ở châu Á.
4.2 Giải pháp:
- Đẩy mạnh hợp tác, giao lưu văn hoá quốc tế để học hỏi tinh hoa văn hoá nhân loại trên cơ sở kiên định đường lối phát triển văn hoá của Đảng: tiên tiến nhưng đậm đà bản sắc dân tộc.
- Xây dựng con người mang đặc tính văn hoá Việt Nam truyền thống và hiện đại; nghĩa là có thể tiếp nhận được những giá trị của thời đại, đồng thời có ý thức tôn trọng và tự hào về nguồn di sản văn hoá dân tộc.
- Tăng cường quản lý văn hoá cấp Nhà nước, tạo điều kiện cho môi trường văn hoá lành mạnh phát triển. Đồng thời, phải có những biện pháp uyển chuyển phù hợp với trình độ phát triển và trình độ dân trí của mỗi địa bàn cụ thể.
- Tăng cường xã hội hoá hoạt động văn hoá, tiến tới xây dựng một thị trường văn hoá thực sự lành mạnh, đúng định hướng XHCN và phẩm chất văn hoá.
- Tích cực xây dựng gia đình văn hoá và đời sống văn hoá trong nhân dân, đặc biệt là đối với đồng bào người dân tộc thiểu số.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của lĩnh vực văn hoá thông tin: nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền của báo chí, xuất bản…; quản lý chặt chẽ hệ thống Internet nhằm tránh những mặt tiêu cực và tệ nạn.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách, phương tiện, cán bộ… cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá đất nước.
- Trên cơ sở đường lối văn hoá đúng đắn của Đảng, phải có được một chiến lược giữ gìn và phát huy di sản văn hoá dân tộc, tạo phong trào toàn dân bảo vệ di sản văn hoá dân tộc.
- Quán triệt đường lối chủ trương của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bàn sắc dân tộc.
4.3 Xây dựng và phát triển nền văn hoá:
Lấy con người làm trung tâm, nhất thiết phải nâng cao dân trí, coi trọng các chính sách văn hoá. Đây là vấn đề mới mà nhiều nước đã thực hiện, coi đó là phương cơ bản của chiến lược phát triển văn hoá. Bởi, muốn phát triển đất nước nhất thiết phải phát triển văn hoá và có chính sách văn hoá đúng đắn. Mà đối với văn hoá, trước hết và trên hết phải nói đến chính sách nâng cao dân trí. Mặt khác, xây dựng và phát triển một nền văn hoá vì con người, lấy con người làm trung tâm không thể không đặt vấn đề nâng cao dân trí. Để nâng cao dân trí, tạo mặt bằng trí tuệ cho cả cộng đồng, chiến lược phát triển văn hoá không chỉ thể hiện sự quán triệt đồng thời giữa các mặt phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội mà còn phải có biện pháp tập trung vào những lĩnh vực thiết yếu nhất có ý nghĩa đột phá của quá trình phát triển.
CHƯƠNG 3:CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ CỦA ĐẢNG
1.Hội nghị V Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 8
Quan điểm ĐCSVN về phát triển văn hoá gắn với chiến lược phát triển con người trong Hội nghị V Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 8 :”con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hoá Việt Nam.Vì vậy, quá trình xây dựng nền văn hoá Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển con người Việt Nam.Đây là khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực Văn hoá và chế độ XHCN của chúng ta”
2.Hội nghị V Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 9
Quan điểm ĐCSVN về phát triển văn hoá gắn với chiến lược phát triển con người trong Hội nghị V Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 9:”xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh KT-XH.Mọi hoạt động văn hoá cần hướng tới chiến lược “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị ,tư tưởng, trí tuệ, đạo đức,thúc đẩy năng lực sáng tạo ,có ý thức cộng đồng,nhân ái ,khoang dung, lối sống văn hoá,quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng”
3.Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2020
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2020 (theo Quyết định số 581/QĐ-TTg). Việc xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 là nhằm cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm đường lối của Đảng về phát triển văn hóa, xác lập những mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu; là cơ sở hoạch định quy hoạch, kế hoạch để từng bước thực hiện việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
Chiến lược cũng đưa ra định hướng phát triển các chuyên ngành văn hoá, nghệ thuật gồm: Nghệ thuật biểu diễn; điện ảnh; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm; thư viện; bảo tàng, di tích và văn hoá phi vật thể; văn hoá cơ sở; nghiên cứu khoa học về văn hoá, nghệ thuật; quyền tác giả và quyền liên quan
3.1Nhiệm vụ trọng tâm
Nhiệm vụ trọng tâm đã được đề ra trong Chiến lược là xây dựng con người toàn diện; xây dựng đời sống văn hoá, môi trường văn hoá; bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc; phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo, tín ngưỡng...
3.2Mục tiêu trọng tâm
Mục tiêu trọng tâm của Chiến lược là hướng mọi hoạt động văn hoá vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo; tuân thủ pháp luật; có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, lối sống văn hoá... Tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hoá dân tộc, đi đôi với việc tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời đại. Đồng thời, đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá, huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hoá, coi đầu tư cho văn hoá là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững...
3.3Việc thực hiện Chiến lược
Việc thực hiện Chiến lược được chia làm 2 giai đoạn.
3.3.1 Giai đoạn 1 (đến năm 2015). Nhiệm vụ của giai đoạn này là bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển văn hoá, ban hành Luật Quảng cáo; Luật Thư viện; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh, Luật Di sản văn hoá, Luật Sở hữu trí tuệ; Pháp lệnh Nghệ thuật biểu diễn và Pháp lệnh Mỹ thuật - Nhiếp ảnh.
Đồng thời, tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá, gồm: Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tiêu biểu của dân tộc, xây dựng và phát triển đời sống văn hoá cơ sở và hỗ trợ phát triển điện ảnh; Xây dựng cơ chế, chính sách nâng cao hưởng thụ và hoạt động văn hoá của nhân dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong thời gian đến năm 2015 sẽ tiến hành quy hoạch phát triển các ngành Điện ảnh, Mỹ thuật, Triển lãm, quy hoạch xây dựng tượng đài, các khu vui chơi giải trí dành cho trẻ em và hệ thống các trường đào tạo về văn hoá, nghệ thuật.
Cũng trong giai đoạn này sẽ thiết lập một số trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài; hoàn thành và đưa vào hoạt động Trung tâm Hội trợ triển lãm quốc gia, Bảo tàng lịch sử quốc gia, Nhà hát ca múa nhạc Việt Nam, Làng văn hoá - du lịch các dân tộc Việt Nam...
3.3.2 Giai đoạn 2 (đến năm 2020) sẽ tiếp tục điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển văn hoá một cách đồng bộ, tiên tiến; nâng cao trình độ và chất lượng đào tạo văn hoá, nghệ thuật ngang tầm khu vực. Các dự án lớn như Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam, Bảo tàng Khoa học - Công nghệ, Trường quay điện ảnh Cổ Loa, Khu lưu trữ hình ảnh động quốc gia, Nhà hát đa năng quy mô lớn tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và một số địa phương khác cũng sẽ được thực hiện trong giai đoạn này.
Theo Quyết định đó, Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cụ thể cho: Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Thông tin và Truyền thông, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch là đơn vị chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, các Bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2020; xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch văn hoá 5 năm và hàng năm phù hợp với Chiến lược phát triển văn hoá và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, tổng hợp tình hình thực hiện và định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ; tổ chức sơ kết việc thực hiện Chiến lược này vào năm 2015 và tổng kết vào đầu năm 2021.
KẾT LUẬN
Nói đến sức mạnh văn hoá Việt Nam trước hết phải nói đến chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến ý thức cộng đồng dân tộc mà ngày nay là ý thức tập thể tinh thần d0oàn kết, đến chủ nghĩa nhân đạo, lòng nhân ái, tình thương yêu con người, nhất là con người cùng khổ, người bị áp bức, bị bốc lột tất cả những phẩm chất ấy đều thể hiện trong văn hoá Việt Nam, mang đặc trưng bản chất của văn hoá Việt Nam.
Do đó, vấn đề hưởng thụ cũng như tiêu dùng văn hoá đang trở thành một nhu cầu bức thiết không thể thiếu trong việc nâng cao mức sống, chất lượng sống của nhân dân, một mục tiêu thiết yếu và quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta.
Bên cạnh đó, với xu thế toàn cầu hoá của thế giới hiện nay đã tạo nhiều thời cơ thuận lợi cho Việt Nam phát triển cả về kinh tế, văn hoá, xã hội… Tuy nhiên, nó cũng đã mang đến không ít những khó khăn, tiêu cực cho xã hội Việt Nam. Mà trong đó, văn hoá là vấn đề đang được sự quan tâm hơn hết và đang đặt ra hàng loạt vấn đề có quan hệ đến tình hình phát triển đất nước. Đặc biệt là sự mai một bản sắc văn hoá dân tộc, mai một những giá trị truyền thống văn hoá, những phẩm chất tốt đẹp…của người Việt Nam, nhất là của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời đại khoa học công nghệ phát triển hiện nay.
Quá trình hình thành, phát triển và thực trạng của nền văn hoá Việt Nam. Đồng thời, phải nắm rõ đặc trưng bản sắc văn hoá dân tộc, ra sức trau dồi, phát huy những giá trị của nền văn hoá dân tộc nhằm làm cho nền văn hoá dân tộc Việt Nam ta ngày càng tiến bộ, cùng hoà nhập vào nền văn hoá chung của nhân loại nhưng vẫn thấm đẫm màu sắc dân tộc Việt Nam như quan điểm của Đảng đã đề ra trong văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH TW khoá VIII về xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu văn hoá Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh để hiểu thực chất dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam và văn hoá Việt Nam. Và hơn thế nữa là để tìm ra những giải pháp xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Có như vậy, văn hoá Việt Nam mới tạo dựng được nền tảng vững chắc cho việc xây dựng và phát triển một đất nước Việt Nam mới giàu đẹp, có thể sánh vai với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới trong thế kỷ XXI.
CHƯƠNG 4:KHÁI QUÁT CON NGƯỜI
1.Quan điểm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội. Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Con người là một bộ phận của tự nhiên. 2.Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội 2.1. Con người là chủ thể của lịch sử Lịch sử loài người được hình thành khi con người biết chế tạo ra công cụ sản xuất, con người bắt đầu sinh sống theo một cách riêng, tách mình ra khỏi thế giới loài vật, hình thành thế giới loài người. Trong quá trình lao động sản xuất, con người không ngừng cải tiến công cụ, tích luỹ kinh nghiệm làm cho lực lượng của sản xuất của xh tiến dần từ trình đọ thấp lên trình độ ngày càng cao.
Trong các chế độ xã hội có quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất chỉ được thực hiện thông qua cuộc đấu tranh giai cấp.Cuộc đấu tranh này diễn ra hết sức gay gắt mà đỉnh cao là các cuộc cách mạng xã hội để xoá bỏ các quan hệ sản xuất lỗi thời. Ví dụ, cuộc đấu tranh của giai cấp nô lệ xoá bỏ quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để xoá bỏ quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa . Như vậy, lịch sử nhân loại chính là lịch sử hoạt động thực tiễn của con người.Con người sáng tạo ra lịch sử dựa trên sự nhận thức và vận dụng qui luật khách quan. Trong giới tự nhiên, sự phát triển diễn ra một cách tự động, không thức 2.2. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội Từ khi xuất hiện đến nay, loài người luôn cháy bỏng hoài bão được sống tự do, hạnh phúc và không ngừng đấu tranh để hoài bão đó được trở thành hiện thực. Trong các chế độ xã hội dựa trên quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất( chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản), các giai cấp thống trị luôn dùng mọi thủ đoạn để tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do và hạnh phúc của số đông quần chúng lao động , cho nên loài người không ngừng đấu tranh chống lại sự áp bức bất công đó. Thế kỷ XXI chắc chắn sẽ có nhiều biến đổi to lớn, khoa học và công nghệ sẽ có những bước tiến bất ngờ. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia là phải làm chủ được các thành tựu của văn minh. Vậy con người là chủ thể của lịch sử nên chính con người chứ không phải đối tượng nào khác, phải loại trừ những yếu tố ngăn cản tự do, hạnh phúc của con người, đồng thời thúc đẩy làm biến đổi xã hội theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn. Do đó mọi chủ trương chính sách, mọi hành động của cộng đồng quốc tế, của các quốc gia và hành động của mỗi cá nhân phải nhằm bảo vệ con người, vì tự do hạnh phúc của con người. Vì con người là chủ thể của lịch sử nên con người cần được tôn trọng, cần phải đảm bảo các quyền chính đág của mình, phải là mục tiêu của mọi tiến bộ xã hội. Chủ Nghĩa Tư bản hiện đại vẫn đang còn sự phát triển. Nhưng theo qui luật tiến hoá của lịch sử, tương lai sẽ thuộc về một xã hội tốt đẹp hơn. Một xã hội không có tình trạng áp bức, bóc lột, một xã hội thống nhất và văn minh với nhân đạo, một xã hội mà trong đó mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, và xã hội chỉ có thể là Xã Hội Chủ nghĩa. 2.3. Chủ Nghĩa Xã Hội ( CNXH) là sự phát triển toàn diện của con người Xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.... mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân là mục tiêu cao cả cuả Xã Hội Chủ Nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “ tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập , dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc ,ai cũng được học hành” Chủ Nghĩa Xã Hội đã trải qua bước phát triển quanh co, đày thử thách của lịch sử, nhưng đang vững bước đi lên và đạt nhiều kết quả trong mục tiêu vì sự phát triển toàn diện của con người. Nước ta là một nước nghèo đang trong giai đoạn quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Tuy vậy, Đảng và nhà nước luôn coi trọng con người, coi con người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội, thể hiện ở các nhiệm vụ phát triển sau: -Đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo, kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. -Thực hiện công bằng trong phân phối, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội .Bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Phát triển kinh tế phù hợp với các vùng,miền nhiều khó khăn, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. -Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cuả nhân dân. -Đẩy mạnh hoạt động của thể dục thể thao, nâng cao thể trạng tầm vóc của con người Việt Nam. -Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phấn đấu vì sự công bằng xã hội.Trong giáo dục, thực hiện: giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội văn minh.Những mục tiêu trên đang được Đảng và nhân dân ta thực hiện nhằm xây dựng một xã hội: dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng, dân chu, văn minh.
CHƯƠNG 2:VẤN ĐỀ VĂN HOÁ VÀ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ- HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
1. Con người là mục tiêu của sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:"Muốn chủ nghĩa cộng sản thực hiện được,cần phải có kỹ nghệ,nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình".Đó chính là mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội hướng tới:giải phóng con người nhằm phát triển mọi tiềm năng ,giá trị nhân cách của con người.Trong sự nghiệp đổi mới đất nước Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định:"Phát triển con người ,với tư cách vừa là động lực ,vừa là mục đích của cách mạng,của sự nghiệp đổi mới đất nước".Đây cũng là mục tiêu nhân văn của nền văn hoá tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc:"Nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộcvà chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác _Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ,nhằm mục tiêu tất cả vì con người,vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người." Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh và của Đảng ta không phải là con người trừu tượng mà là những cá nhân, những tập thể, những tầng lớp người cụ thể. Vì hạnh phúc của mỗi người"dân"
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- baitieuluantriet size 13.4.doc