Đề tài Vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới và nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay

Hội nghị TW 9 (khóa X) họp từ ngày 5 đến 13-1-2009 kiểm điểm nửa đầu nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đánh giá sự nghiệp đổi mới tiếp tục được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực. Chính trị - xã hội ổn định. Cơ bản ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. An sinh xã hội được chăm lo nhiều hơn. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh. Quốc phòng - an ninh được tăng cường. Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức.

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12306 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới và nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xóa đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả. - Tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân. Mở rộng diện các xã có điện, có đường, có trường học, có trạm y tế, có nước sạch… - Giảm tỷ lệ nghèo đói trong tổng số hộ của cả nước từ 20-25% hiện nay xuống còn khoảng 10% vào năm 2000, bình quân giảm 3000 nghìn hộ/năm. - Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch 5 năm, tập trung xoá về cơ bản nạn đói kinh niên. Cơ chế chính sách đối với người nghèo và xã nghèo: Hiện nay có 14 chương trình quốc gia và dự án được thực hiện có nội dung gắn với xoá đói, giảm nghèo. Từ năm 1996 sẽ lồng ghép chương trình xoá đói, giảm nghèo với các chương trình khác, trong đó lấy chương trình quốc gia về giải quyết việc làm và về phủ xanh đất trống đồi núi trọc làm nòng cốt. Bổ sung các chính sách giúp cho người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo tổ chức sản xuất, bảo đảm cuộc sống và nâng lên khá giả, trước mắt tập trung vào các chính sách sau đây: Uỷ ban nhân dân các cấp tỉnh, huyện rà soát lại toàn bộ diện tích đất đai trên địa bàn lãnh thổ, thu hồi đất đai đã cấp không đúng đối tượng, không đúng chính sách, thu hồi đất đã cấp cho các doanh nghiệp, các cơ quan sử dụng không đúng mục đích, để giao cho các hộ nông dân nghèo chưa được giao đất hoặc giao chưa đủ mức. Vận động và giúp đỡ hộ nông dân nghèo đến các vùng kinh tế mới mau chóng ổn định sản xuất và đời sống. Mở rộng các quỹ tín dụng cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất, với lãi suất ưu đãi. Các hộ nghèo được Uỷ ban nhân dân xã, phường chứng nhận được vay vốn không phải thế chấp. Thông qua ngân hàng phục vụ người nghèo và các quỹ hỗ trợ của các tổ chức đoàn thể bảo đảm 90-95% số hộ nghèo được vay vốn sản xuất, trong đó các hộ thuộc đối tượng chính sách, các hộ đói nghèo nhất được ưu tiên vay trước. Nguồn vốn để thực hiện mục tiêu này bao gồm vốn tự có của ngân hàng, vốn của các chương trình, vốn của quỹ xoá đói, giảm nghèo, vốn tài trợ quốc tế kể cả vốn vay, vốn hỗ trợ của ngân sách Nhà nước... Các cơ sở đào tạo và các trung tâm dạy nghề của Nhà nước thực hiện việc đào tạo nghề miễn phí đối với con em các hộ nghèo; đồng thời hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp nhận tuyển con em các hộ nghèo vào đào tạo và làm việc. Xây dựng đội ngũ những người tình nguyện, bao gồm các cán bộ kỹ thuật, sinh viên mới tốt nghiệp và những nông dân làm ăn giỏi trong vùng, để hướng dẫn cách làm ăn và phổ biến các biện pháp kỹ thuật giúp đỡ người nghèo sản xuất kinh doanh. Đối với các vùng cao, vùng sâu, vùng xa sản phẩm tiêu thụ khó khăn, giá thấp, Nhà nước thông qua các doanh nghiệp Nhà nước bao tiêu sản phẩm và trợ giá. Xây dựng chính sách tài trợ đầu tư 6 loại công trình xã hội thiết yếu cho 1.300 xã nghèo nhất (đường ôtô và đường dây điện đến trung tâm xã; nước sạch cho dân cư; phòng học cho học sinh cấp I, II, xoá lớp ca 3; trạm y tế; chợ tại xã hoặc liên xã). Con em các hộ nghèo đi học các trường phổ thông đều được miễn học phí (hoặc được cấp học bổng để đóng học phí); ở bậc tiểu học được mượn sách giáo khoa, cấp không vở viết và được miễn mọi khoản đóng góp khác. Đối với các hộ quá khó khăn có thể xét trợ cấp thêm học bổng. Tổ chức các lớp học tình thương cho con em người nghèo do những giáo viên tình nguyện giảng dạy. Các học sinh giỏi là con em các hộ nghèo, nhất là con em đồng bào các dân tộc ít người, được ưu tiên xét chọn vào các trường dân tộc nội trú, các trường đại học, cao đẳng và ưu tiên xét học bổng hằng năm. Cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo theo số người trong gia đình. Các tỉnh, thành phố có điều kiện, có thể thành lập cơ sở khám chữa bệnh nhân đạo cho người nghèo. Phối hợp các chương trình xã hội khác như: Dân số, kế hoạch hoá gia đình, chống sốt rét, bướu cổ, tiêm chủng mở rộng, phòng chống tệ nạn xã hội và chương trình hành động quốc gia vì trẻ em 1991 - 2000 để chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo. Tổ chức điều tra xác định số hộ nghèo đói do mất khả năng lao động và xây dựng tiêu chuẩn chính sách trợ cấp cụ thể theo chính sách cứu tế xã hội nhằm ổn định đời sống lâu dài cho họ. 5. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam diên x ra từ ngày 19/4 đến ngày 22/4/2001 Tại Hà Nội Nhiệm vụ của Đại hội là nhìn lại chặng đường 71 năm cách mạng Việt Nam; tổng kết năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII; 15 năm đổi mới đất nước, mười năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội; rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 21; hoạch định phương hướng nhiệm vụ xây dựng Đảng ta ngang tầm đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng. Mục tiêu của Đảng: Hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010), với mục tiêu tổng quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại... Đại hội đã thông qua Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi. Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) và các Hội nghị Trung ương Khoá IX đã cụ thể hoá và bổ sung các quan điểm về chính sách xã hội của Đại hội VIII, với những nội dung cơ bản về vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội: - Giải quyết chính sách xã hội phải gắn liền với quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là “phát triển thị trường lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh tế” - Trong giải quyết các chính sách xã hội, Nhà nước vừa là người điều tiết, vừa là nhà đầu tư. - Coi trọng công bằng trong hưởng thụ các dịch vụ xã hội, đặc biệt là công bằng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục và chăm sóc y tế, với việc tạo cơ hội cho những đối trọng, những vùng còn khó khăn có cơ hội được chăm sóc tốt hơn.   - Xã hội hoá việc giải quyết các vấn đề xã hội, động viên toàn xã hội tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. - Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội. Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX của Đảng nêu rõ: Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mười năm 2001 - 2010 nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. 6. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam X, được gọi chính thức là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X là đại hội lần thứ mười của Đảng Cộng sản Việt Nam, được tổ chức từ ngày 18 đến 25 tháng 4 năm 2006 tại Hà Nội. 1.176 đại biểu, đại diện cho 3,1 triệu đảng viên đã tham dự lễ khai mạc. Đại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị với tiêu đề: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Đại hội chủ trương phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương. Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, hội nhập sâu rộng hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế, Hội nghị TW 4, khóa X (tháng 1 – 2007) nhấn mạnh phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực thi các cam kết với WTO. Xây dựng cơ chế đánh giá và cảnh báo định kỳ về tác động của việc gia nhập WTO đối với lĩnh vực xã hội để có biện pháp xử lý chủ động, đúng đắn, kịp thời. Hội nghị TW 9 (khóa X) họp từ ngày 5 đến 13-1-2009 kiểm điểm nửa đầu nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đánh giá sự nghiệp đổi mới tiếp tục được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực. Chính trị - xã hội ổn định. Cơ bản ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. An sinh xã hội được chăm lo nhiều hơn. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh. Quốc phòng - an ninh được tăng cường. Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức. Đảng ta đã đưa ra những chương trình rộng lớn để tập trung giải quyết là “Chương trình về xóa đói, giảm nghèo”. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước cũng đã có hàng chục chương trình cấp quốc gia và dự án đang được thực thi có nội dung gắn với xóa đói, giảm nghèo. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc xóa đói giảm nghèo: Một số luận điểm và chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước: Một là: xóa đói giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt. Tính lâu dài của xóa đói giảm nghèo là do: - Thứ nhất, xóa đói giảm nghèo là nội dung, và nhiệm vụ cần thực hiện để bảo đảm công bằng xã hội. Thực tiễn cho thấy, có những nguyên nhân nảy sinh nghèo đói không phải do môi trường xã hội, không do điều kiện kinh tế - địa lý, mà do hoàn cảnh và đặc điểm của từng cá nhân, từng hộ gia đình. Những trường hợp này luôn có khả năng xuất hiện và việc xóa đói giảm nghèo mang tính thường trực. - Thứ hai, chủ trương của Đảng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần là một định hướng chiến lược. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn có xu hướng phân hóa hai cực giàu nghèo. Vì vậy, cùng với việc tăng cường sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thường xuyên và liên tục, lâu dài, thì nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, nhất là giảm nghèo, cũng là vấn đề liên tục và lâu dài mới giải quyết được. - Thứ ba, dân giàu nước mạnh là mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện mục tiêu này là một quá trình phấn đấu gian khổ, lâu dài. Xóa đói giảm nghèo vừa có tính cơ bản và cần thực hiện liên tục, lâu dài, lại là một công việc cần kíp, trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước cải thiện đời sống của nhân dân; bởi vì đây không chỉ là việc thực hiện truyền thống, đạo lý của dân tộc “thương người như thể thương thân”, mà còn là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Hai là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện giúp cho việc xóa đói giảm nghèo, nhưng đây là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đối và không phải là một. Có người cho rằng, muốn xóa đói giảm nghèo trước hết phải đầu tư phát triển sản xuất để tăng trưởng kinh tế. Chỉ đến khi kinh tế đã phát triển đến giai đoạn nhất định sẽ hết đói nghèo, vì thế không nên đặt vấn đề xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ lâu dài và trọng yếu. Thực ra tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề nghèo đói, bởi vì nguyên nhân chính yếu của đói nghèo nói chung là do kinh tế chưa phát triển. Tuy nhiên, đói nghèo lại do nhiều nguyên nhân khác mang tính đặc thù. Vả lại trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, chúng ta chấp nhận kinh tế nhiều thành phần cùng vận động, phát triển cũng là phải chấp nhận tình trạng phân hóa giàu nghèo tương đối. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo không những là công việc cần thiết mà là nhiệm vụ cấp bách và quan trọng. Chúng ta xác định sự phân hóa giàu nghèo không thể tránh khỏi, nên cũng quyết tâm không để xảy ra tình trạng làm giàu vô tội vạ trên lưng người khác, cũng như tình trạng “kẻ ăn không hết, người lần không ra”, không thể để người nghèo bị bỏ rơi trước con mắt của cộng đồng. Ba là, xóa đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội không có nghĩa là kìm hãm sự phát triển kinh tế, không có nghĩa là cào bằng. Kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu trước đây đã cho thấy, nếu đặt công bằng xã hội lên trên hết và tách rời với phát triển kinh tế thì trước hết dẫn tới sự triệt tiêu các động lực phát triển. Tuy nhiên, nếu đặt hiệu quả kinh tế là mục tiêu duy nhất thì sẽ làm tăng tình trạng phân hóa hai cực, làm tăng sự khốn khó đối với không ít quần chúng nhân dân. Bởi vậy, trong khi thực hiện bài toán phát triển đất nước, làm sao phải tạo mọi điều kiện và tăng nguồn lực cho sự phát triển, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặt vấn đề xóa đói giảm nghèo thành công việc thường xuyên, liên tục. Bốn là, xóa đói giảm nghèo là công việc của toàn xã hội. Cần khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, xóa đói giảm nghèo không dừng lại ở việc thực hiện chính sách xã hội, không phải việc riêng của ngành lao động - xã hội hay một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả mọi cán bộ đảng, chính quyền đều phải quan tâm cùng giải quyết, thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ và phải có sự tham gia của toàn thể cộng đồng. 7. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XI Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tổ chức tại Hà Nội từ 12-19/1/2011. Trong phát biểu mở đầu Đại hội, đồng chí Trương Tấn Sang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư nêu rõ, Đại hội lần này sẽ thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Quyết định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng; Bàn phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015; Kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa X; Bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và bầu Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa XI. Mục tiêu về vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội. Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5- 2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. Xoá nhà ở đơn sơ, tỉ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng nhà ở tính trên một người dân.(CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI 2011-2020) Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số. ( CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011). Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các vùng kinh tế, lãnh thổ trọng điểm tạo động lực cho nền kinh tế. Tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. (Báo cáo chính trị) Ý kiến Ông ĐỒNG SĨ NGUYÊN (nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên phó thủ tướng): Làm giàu cho dân nghèo Đại hội XI sẽ tiếp tục con đường đổi mới. Tôi mong rằng việc thảo luận và thông qua các văn kiện tại đại hội sẽ nhấn mạnh, làm nổi bật nội dung “dân giàu”. Lâu nay chúng ta thường nói “dân giàu, nước mạnh”, nhưng lần này phải tạo đột phá về cải thiện đời sống người dân. Nói một cách cụ thể, tôi mong đại hội tập trung trí tuệ để đề ra được một chương trình tầm cỡ quốc gia “làm giàu cho dân nghèo”, nhất là nông dân, công nhân và trí thức ở thành thị cũng như nông thôn. Đây phải là một chương trình có tầm nhìn dài hạn cỡ 20-30 năm, nghĩa là chúng ta mở một cuộc trường chinh mới, không những xóa đói nghèo mà còn tiến lên từng bước làm giàu cho người dân ở nhiều mức khác nhau, sao cho khi kết thúc chương trình thì người dân có mức sống trung lưu trở lên. 8. Một số chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta: 8.1. Chính sách 134: Chương trình 134 tên gọi khác là chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn mà Chính phủ Việt Nam áp dụng từ năm 2004 nhằm mục đích cùng với việc thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, Nhà nước trực tiếp hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo để có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, sớm thoát nghèo. Đối với sản xuất: Mức giao đất sản xuất tối thiểu một hộ là 0,5ha đất nương, rẫy hoặc 0,25 ha đất ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15 ha đất ruộng lúa nước 2 vụ. Căn cứ quỹ đất cụ thể của từng địa phương, khả năng lao động và số nhân khẩu của từng hộ và khả năng của ngân sách địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thể xem xét, quyết định giao đất sản xuất cho hộ đồng bào với mức cao hơn. Việc hỗ trợ đất sản xuất và đất ở đối với hộ đồng bào dân tộc Khơme nghèo do đặc thù của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nhà nước sẽ có chính sách riêng. Về nhà ở: Đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo tại chỗ (kể cả đồng bào dân tộc Khơme) hiện chưa có nhà ở hoặc nhà ở quá tạm bợ và đã hư hỏng, dột nát thì thực hiện phương châm: Nhân dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ và cộng đồng giúp đỡ. a. Ngân sách Trung ương hỗ trợ với mức 5 triệu đồng/hộ để làm nhà ở. Căn cứ tình hình và khả năng ngân sách, các địa phương hỗ trợ thêm và huy động sự giúp đỡ của cộng đồng. b. Đối với các địa phương có rừng, có huy hoạch, kế hoạch khai thác gỗ theo quy định để hỗ trợ đồng bào làm nhà ở. Mức gỗ hỗ trợ cụ thể cho mỗi hộ làm nhà ở do Ủy ban cấp tỉnh quyết định. Nghiêm cấm việc lợi dụng khai thác gỗ hỗ trợ làm nhà ở để chặt phá rừng. 3. Về hỗ trợ giải quyết nước sinh hoạt: a. Đối với các hộ đồng bào dân tộc ở phân tán vùng cao, núi đá, khu vực khó khăn về nguồn nước sinh hoạt ngân sách Trung ương hỗ trợ 0,5 tấn xi măng/hộ để xây dựng bể chứa nước mưa hoặc hỗ trợ 300.000 đồng /hộ để đào giếng hoặc tạo nguồn nước sinh hoạt. b. Đối với công trình cấp nước sinh hoạt tập trung: Ngân sách Trung ương hỗ trợ 100% cho các thôn, bản có từ 50% số hộ là đồng bào dân tộc thiểu số trở lên; hỗ trợ 50% đối với các thôn, bản có từ 20% đến dưới 50% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Các địa phương khi xây dựng các công trình cấp thoát nước sinh hoạt tập trung cho các đồng bào phải bảo đảm tính bền vững và hiệu quả. Kết quả thực hiện chính sách 134: Theo dự kiến ban đầu, chính sách sẽ được triển khai trong 2 năm (2004- 2006). Đây là một chính sách lớn, với 4 nội dung chủ yếu là hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn. Hết giai đoạn I, Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho tiếp tục chương trình trong 2 năm nữa (2006 – 2008). Nhưng bước sang năm 2008- năm cuối cùng thực hiện chính sách, những kết quả đạt được vẫn dừng lại ở các con số rất khiêm tốn. Việc hỗ trợ đất sản xuất triển khai chậm và đạt kết quả rất thấp (30% kế hoạch). Việc hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và các công trình nước tập trung cũng chỉ đạt khoảng 50% kế hoạch. Riêng tỷ lệ hỗ trợ nhà ở đạt mức khá cao (98%). Tuy nhiên, theo Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi, cần phải xem lại tính thực chất của con số này, bởi thực tế, ở nhiều nơi, bà con các dân tộc thiểu số vẫn chưa có nhà ở. Và có những ngôi nhà chỉ được đầu tư ở mức thấp, dẫn đến tình trạng quay vòng, nhà xây xong nhưng chỉ một thời gian sau đã phải xây lại. Giải quyết nhu cầu nhà ở đã khó, nhu cầu về đất sản xuất lại càng khó hơn. Ngay ở những địa phương dồi dào về tài nguyên đất như Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, vẫn còn hàng nghìn hộ thiếu đất sản xuất. Đó là những thực trạng được nhìn nhận qua các cuộc giám sát của Hội đồng Dân tộc và Ủy ban của Quốc hội. Không những thế, số liệu báo cáo về mức hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt của các bộ, ngành cũng chưa khớp nhau, dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất, thậm chí mỗi bộ, ngành nêu ra những nguyên nhân và giải pháp riêng. Một trong những nguyên nhân căn bản của tình trạng này là do nhiều địa phương chưa thực hiện tốt việc lồng ghép các chương trình trên địa bàn, chưa thực hiện đúng nguyên tắc vàng của việc thực hiện chính sách là Nhà nước hỗ trợ, cộng đồng giúp đỡ, nhân dân tự làm mà chỉ sử dụng duy nhất nguồn vốn được nhà nước phân bổ. Nói cho công bằng, các địa phương có muốn cũng khó mà thực hiện được. Theo Chính sách 134, các địa phương phải bổ sung ít nhất là 20% nguồn vốn đối ứng để thực hiện, nhưng những địa phương được hỗ trợ đều là những vùng thuộc diện đặc biệt khó khăn, việc cân đối nguồn vốn nhiều khi vượt quá khả năng của họ. Lồng ghép các  chương trình mục tiêu như thế nào để tránh chồng chéo vừa đạt hiệu quả chung, vừa đạt mục tiêu riêng là một khó khăn lớn với các địa phương nếu không có sự chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời từ phía Trung ương. Đơn cử, riêng giải quyết vấn đề nước sạch đã có tới mấy chương trình khác nhau của Bộ NN và PTNT, Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên- Môi trường và của Chính sách 134. Hiện nay, có 3 nhóm chính sách lớn đang được thực hiện đối với vùng đồng bào dân tộc, nhưng trong số đó lại được chia thành rất nhiều chính sách nhỏ khác nhau và mỗi chính sách lại có một mục tiêu, phương thức thực hiện riêng. Thế nên mới có chuyện ở cùng một xã lại xây dựng tới 2 trạm y tế, vì 2 trạm y tế này của  2 chương trình khác nhau. Hay việc huy động nguồn lực của cộng đồng thì cộng đồng là ai, chuyển đổi sản xuất ở những vùng thiếu đất sản xuất sang các ngành nghề phi nông nghiệp là trách nhiệm của ai cần được chỉ rõ để làm căn cứ thực hiện. 8.2. Chính sách 135 Chương trình 135 là chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998. Chương trình được biết đến rộng rãi dưới tên gọi Chương trình 135 do Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt thực hiện chương trình này có số hiệu văn bản là 135/1998/QĐ-TTg. Theo kế hoạch ban đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai đoạn; giai đoạn 1 từ năm ngân sách 1998 đến năm 2000 và giai đoạn 2 từ năm 2001 đến năm 2005. Tuy nhiên, đến năm 2006, Nhà nước Việt Nam quyết định kéo dài chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai đoạn I. Tiếp theo là giai đoạn II (2006-2010). Mục tiêu của chương trình 135 giai đoạn I Mục tiêu tổng quát: tạo sự chuyển biến nhanh về sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường; cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn một cách bền vững, giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong cả nước. Phấn đấu đến năm 2010, trên địa bàn cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30% theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ. Mục tiêu cụ thể: - Về phát triển sản xuất: nâng cao kỹ năng và xây dựng tập quán sản xuất mới cho đồng bào các dân tộc, tạo sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững. - Phấn đấu trên 70% số hộ đạt được mức thu nhập bình quân đầu người trên 3,5 triệu đồng/năm vào năm 2010. - Về phát triển cơ sở hạ tầng: các xã có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu phù hợp quy hoạch dân cư và quy hoạch sản xuất bảo đảm phục vụ có hiệu quả nâng cao đời sống và phát triển sản xuất tăng thu nhập. Các chỉ tiêu cụ thể: phấn đấu trên 80% xã có đường giao thông cho xe cơ giới (từ xe máy trở lên) từ trung tâm xã đến tất cả thôn, bản; trên 80% xã có công trình thủy lợi nhỏ đảm bảo năng lực phục vụ sản xuất cho trên 85% diện tích đất trồng lúa nước; 100% xã có đủ trường, lớp học kiên cố, có lớp bán trú ơ nơi cần thiết; 80% số thôn, bản có điện ở cụm dân cư, giải quyết và đáp ứng yêu cầu cơ bả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới và nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay.doc
Tài liệu liên quan