Lời nói đầu 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM 3
1.1 Xuất khẩu lao động là gì? Tính tất yếu phải xuất khẩu lao động 3
1.1.1 Xuất khẩu lao động là gì? 3
1.1.2 Tính tất yếu phải xuất khẩu lao động Việt Nam sang thị trường thế giới 3
1.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM 4
1.2.1. Về mặt kinh tế 4
1.2.1.1. Lợi ích của người lao động 4
1.2.1.2 Lợi ích của quốc gia 5
1.2.1.3. Lợi ích của doanh nghiệp 6
1.2.2 Về mặt xã hội 6
1.2.3.Quan hệ quốc tế được tăng cường và mở rộng 7
1.3. Sơ lược về vấn đề xuất khẩu lao động của Việt Nam 8
1.3.1. Sơ lược về thị trường nhập khẩu lao động và nước xuất khẩu lao động 8
1.3.2 Những vấn đề đặt ra với Việt Nam 10
1.3.3.Thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam 12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM 13
2.1 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM 13
2.1.1. Thị trường truyền thống 14
2.1.1.1. Thị trường Đông Bắc Á 14
2.1.1.2. Thị trường Đông Nam Á 15
2.1.2. Thị trường cao cấp 16
2.1.2.1. Nhật Bản 16
2.1.2.2. Thị trường EU và Mỹ 17
2.1.3. Thị trường tiềm năng 17
2.1.3.1. Trung Đông và Bắc Phi 17
2.1.3.2. Các thị trường tiềm năng khác 19
2.2. NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM 22
2.3 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI XUẤT KHẢU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM 23
2.3.1. Những vấn đề đặt ra trong xuất khẩu lao động 23
2.3.1.1.Quản lý hoạt động xuất khẩu lao động 23
2.3.1.2. Cung ứng lao động và trình độ lao động 24
2.3.1.3. Mở rộng thị trường 25
2.3.1.4. Rủi ro trong xuất khẩu lao động 26
2.3.2. Nguyên nhân của những vấn đề đặt ra cho xuất khẩu lao động của Việt Nam 27
2.3.2.1. Về thông tin 27
2.3.2.2. Đào tạo, giáo dục định hướng 28
2.3.3.3. Về chế tài xử lý 29
2.3.3.4. Những vấn đề khác 30
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 32
3.1. Phương hướng xuất khẩu lao động của Việt Nam đến năm 2020 32
3.1.1. Mục tiêu xuất khẩu lao động 32
3.1.2. Phương hướng xuất khẩu lao động đến năm 2020 33
3.2. Giải pháp với xuất khẩu lao động của Việt Nam 34
3.2.1. Về phía Nhà nước 34
3.2.1.1. Phí dịch vụ: 35
3.2.1.2 Đổi mới chính sách về thị trường lao động: 35
3.2.1.3. Xây dựng quan hệ lao động lành mạnh: 36
3.2.1.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: 36
3.2.1.5.Công tác thực hiện nhiệm vụ và quản lý người lao động: 37
3.2.2. Về phía người lao động 37
3.2.3. Về phía doanh nghiệp xuất khẩu lao động 38
3.2.3.1. Tìm hiểu và mở rộng thị trường: 39
3.2.3.2. Công tác tuyển chọn, giáo dục và quản lý người lao động: 39
KẾT LUẬN 41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 42
45 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề xuất khẩu lao động của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp xúc, ký hợp đồng cung ứng lao động với trên 500 công ty môi giới của Đài Loan. Trong năm 2005, Đài Loan đã ngừng tiếp nhận lao động của Việt Nam làm việc trong lĩnh vực giúp việc gia đình do tình trạng lao động tự ý bỏ hợp đồng nên lao động đưa sang chủ yếu là lao động công nghiệp, xây dựng và thuyền viên đánh cá.
Hiện nay, thị trường này lao động Việt Nam đã xuất khẩu là 24 nghìn người.
b. Hàn Quốc
Chương trình lao động: Hàn Quốc đã thông qua Luật cấp phép cho lao động nước ngoài và bắt đàu nhận lao động từ thang 8/2004 song song với hệ thống tu nghiệp sinh có từ trước. Năm 2006, Việt Nam là một trong 6 quốc gia được Hàn Quốc lựa chọn tham gia chương trình đưa lao động sang làm việc theo luật cấp phép mới. Tổng số chỉ tiêu lao động phía Hàn Quốc phân bổ cho Việt Nam năm 2004 la 3.000 người chưa kể 2.690 lao động được phía Hàn Quốc cho sang lao động lần thứ 2. Năm 2005, Hàn Quốc đã chấp nhận cho 7.409 người sang lao động.
Chương trình tu nghiệp sinh: Ngoài 8 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh công nghiệp, 1 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh nông nghiệp và 2 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh xây dựng sang Hàn Quốc; năm 2005, đã giới thiệu và đưa 1 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh thủy sản và 1 doanh nghiệp đưa tu nghiệp sinh xây dựng. Tổng số tu nghiệp sinh đưa sang Hàn Quốc năm 2005 la 3.100 người.
Chính phủ Hàn Quốc hiện dừng thực hiện chương trình tiếp nhận lao động dưới hình thức tu nghiệp sinh công nghiệp. Vì vậy việc đưa lao động Việt Nam sang làm việc tại nước này chỉ được thực hiện theo chương trình tiếp nhận lao động nước ngoài do Bộ LĐ Hàn Quốc và Bộ LĐ,TB&XH Việt Nam phối hợp. Hiện nay có khoảng 46.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc, lao động làm việc tại Hàn Quốc đều có thu nhập rất cao, phổ biến ở mức 850-1100 USD/tháng.
Trong năm 2008, chúng ta đã đưa được 12.000 lao động mới và trên 6.000 lao động được tái tuyển dụng.
2.1.1.2. Thị trường Đông Nam Á
a. Malayxia
Xác định đây là thị trường trọng điểm trong chiến lược xuất khẩu lao động của nước ta. Năm 2003 chúng ta tiếp tục thí điểm đưa lao động sang làm việc tại Malayxia. Tuy nhiên, thị trường này cũng đòi hỏi khắt khe về tính tuân thủ pháp luật và hợp đồng lao động nên công tác tuyển chọn, đào tạo giáo dục định hướng cần phải được chú trọng. Năm 2003, chúng ta đã đưa được 40.500 lao động sang làm việc tại Malaysia, đưa tổng số lao động làm việc tại Malaysia lên trên 7 vạn người. Kết quả này hoàn thành vượt mức chỉ tiêu xuất khẩu lao động năm 2003 mà Bộ và chính phủ giao.
Năm 2004 do những biến động thị trường nên các doanh nghiệp của ta chỉ đưa được 14.567 lao động sang Malaysia.
Năm 2006, Việt Nam đã đưa được 70.000 lao động sang Malaysia làm việc.
Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới nên xuất khẩu lao động của Việt Nam năm nay cũng bị tác động. Đơn hàng mới tại nhiều thị trường giảm đáng kể. Các thị trường thu hút nhiều lao động thu nhập cao như Hàn Quốc, Malaysia, tốc độ tiếp nhận lao động Việt Nam nói riêng và lao động các nước nói chung là chậm hẳn. Số lao động Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Malaysia năm 2008 là 7.800
b. Lào
Năm 2004, Việt Nam đã đưa hơn 6.600 lao động sang thị trường này, chủ yếu làm trong lĩnh vực xây dựng. Năm 2005 tổng số lao động đi làm việc ở Lào là 6.733 người.
Lượng lao động Việt Nam đang làm việc ở Lào hiện nay khoảng gần 10.000 người.
2.1.2. Thị trường cao cấp
Đây là thị trường đòi hỏi lao động lành nghề, có trình độ cao, đáp ứng được các yêu cầu về khả năng tiếp cận và tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại. Thị trường này là cánh cửa hẹp cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của Việt Nam nhưng nếu thâm nhập được vào thị trường này thì hiệu quả thu được sẽ rất lớn.
2.1.2.1. Nhật Bản
Là thị trường chất lượng cao, tiềm năng lớn, nhưng trong những năm qua không phát triển được do lao động Việt Nam tự ý bỏ hợp đồng có tỉ lệ lớn.
Tu nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật Bản theo nhiều ngành nghề khác nhau, trong đó lĩnh vực dệt may, điện tử và xây dựng chiếm tỷ lệ khá lớn. Lao động Việt Nam làm việc 8h/ngày, nhưng cũng có lúc làm việc 12h/ngày, thời gian làm ciệc thêm được trả lương làm thêm giờ đầy đủ. Sau 3 năm ở Nhật Bản, lúc về các tu nghiệp sinh đều có tay nghề khá vững và có số tiền thu nhập từ 25.000 – 30.000 USD.
Hiện nay có khoảng hơn 10.000 tu nghiệp sinh và lao động Việt Nam đang làm việc và học nghề tại Nhật Bản. Lao động Việt Nam được các doang nghiệp Nhật Bản đánh giá cao về sự cần cù, chịu khó, ham học hỏi và tiếp thu nhanh cáckỹ năng làm việc và công nghệ mới. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn tình trang tu nghiệp sinh bỏ trốn ra ngoài làm việc gây ảnh hưởng xấu tới quan hệ hợp tac lao động giữa hai nước. Nếu khắc phục được tình trạng này thì lượng tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật Bản sẽ tăng trong thời gian tới.
Năm 2008, Việt Nam đã đưa thêm 5.800 tu nghiệp sinh và lao động sang làm việc tại Nhật Bản
2.1.2.2. Thị trường EU và Mỹ
Nhiều nước Châu Âu, Mỹ cũng đang trong tình trạng thiếu lao động có nhu cầu khá lớn về lao động nước ngoài.
Thế nhưng các nước trong khối EU chủ trương sử dụng lao động chất lượng cao nên khả năng tiếp cận những thị trường này của VN còn hạn chế. Hiện nay, để mở cửa thị trường tiềm năng này, VN đang nghiên cứu, tìm hiểu để ký kết hiệp định hợp tác lao động.
2.1.3. Thị trường tiềm năng
2.1.3.1. Trung Đông và Bắc Phi
a. Ả-Rập Xê-út
Ả-Rập Xê-út hiện có 7 triệu lao độn nước ngoài và mỗi năm cần thay thế, tuyển thêm từ 800-900 nghìn lao động. Triển vọng mở rộng hợp tác về thương mại và lao động là khả quan, dự kiến số lượng lao động của nước ta tại thị trường này sẽ lên tới hàng nghìn người trong thời gian tới.
Năm 2008, thị trường Ả-rập Xê-út tiếp nhận khoảng hơn 3.000 lao động và trở thành thị trường dành được sự quan tâm của nhiều lao động ở nông thôn. Đáng chú ý là thị trường Ả-rập Xê-út không quy định hạn ngạch tiếp nhận lao động nước ngoài như các quốc gia khác. Nhu cầu tiếp nhận lao động của quốc gia này rất lớn, đặc biệt là trong các lĩnh vực xây dựng và cơ khí chế tạo, chế biến dầu khí.
Tại thị trường này, người làm công việc giản đơn được trả lương từ 200-300 USD/tháng. Lao động có tay nghề vững được trả từ 500-600 USD. Chi phí sinh hoạt vào khoảng 100 USD/tháng. Điều kiện làm việc của người lao động nhìn chung là tốt. Pháp luật Ả-rập Xê-út quan tâm việc bảo vệ quyền lợi của lao động nước ngoài.
Ả-rập Xê-út đã tuyển mộ 50.000 công nhân Việt Nam trong năm 2006. Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam cũng cho biết là A"rập- Xê-út có thể đề nghị thuê mướn tới 100.000 nhân công Việt Nam trong ngành xây dựng, công nghiệp và phụ việc gia đình trong tời gian tới.
b. Irắc
Từ năm 1980-1990 tại I rắc có khoảng 20.000 lượt lao động Việt Nam làm việc tại đây. Sau đó do sự cám vận của Mỹ và chiến tranh I rắc thì số lao động làm việc tại đây giảm đi nhanh chóng. Hiện nay thị trường này vẫn đang là thị trường tiềm năng sẽ tiếp tục được khôi phục và khai thác trong thời gian tới.
c. Libya
Lao động xuất khẩu sang Libya bằng hai hình thức: hợp tác trực tiếp giữa bộ quốc phòng hai nước và hợp tác gián tiếp qua một số công ty của Hàn Quốc, Đức, Ba Lan, Hy Lạp.
Hiện nay có khoảng 1.400 lao động Việt Nam đang làm ciệc tai Libya (theo các hợp đồng riêng lẻ) trong các ngành xây dựng và công nhân quốc phòng, với thu nhập khoảng 300-400USD/người/tháng. Trong đó lao động thuộc Bộ Quốc phòng là chính và lao động của công ty SONA, VINACONEX, SONGDA đưa đi.
Trong chuyến khảo sát thị trường Libi mới đây của Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Nguyễn Lương Trào, phía Libi bày tỏ mong muốn sớm ký được hiệp định hợp tác tiếp nhận lao động Việt Nam, nhất là lao động thuộc ngành xây dựng và đánh bắt hải sản. Phía Việt Nam cũng đã gửi cho Libi dự thảo Hiệp định hợp tác lao động để phía bạn nghiên cứu, tìm hiểu.
Sau khi các nước bỏ cấm vận với Lybia, các tập đoàn lớn của Châu Âu, Hàn Quốc và Hoa Kỳ đã tiến hành các hoạt động chuẩn bị thâm nhập thị trường Libya, khả năng sẽ tuyển nhiều lao động nước ngoài khi hoạt động kinh doanh và đầu tư triển khai được. Nếu hiệp định được ký kết sớm, sẽ tạo thuận lợi cho việc cung cấp lao động Việt Nam cho thị trường này.
c. Cô Oét
Lao động Việt Nam làm việc tại Cô Oét chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng. Việt Nam đã đấu thầu xây dựng các biệt thự cho quốc gia này từ năm 1996 đến nay là trên 2.000 biệt thự và sử dụng trên 2.500 lao động. Tuy nhiên, thời gian qua do các doanh nghiệp của ta thiếu thông tin về thị trường này nên việc xây dựng đơn giá thầu còn chưa hợp lý gây tổn thất và kỷ luật lao động của công nhân Việt Nam chưa cao.
Hiện tại, thị trường Cô Oét còn nhiều tiềm năng và đang để ngỏ, với kinh nghiệm và bài học rút ra, chúng ta cần đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động vào thị trường này.
Các thị trường tiềm năng khác
Để đạt được mục tiêu xuất khẩu lao động trong thời gian tới, ngoài việc duy trì các thị trường đã có như Đài Loan, Nhật Bản, Malaixia và Hàn Quốc, các doanh nghiệp đều có kế hoạch mở thêm nhiều địa chỉ xuất khẩu lao động mới, trong đó chú ý đến các thị trường có nhiều tiềm năng như Libi, Ả rập Xê Út, Pháp, Canađa, Anh, Mỹ, Hy LạpĐây là bước tấn công mới của lao động Việt Nam vào các thị trương có thu nhập cao. Vì thế nếu thành công sẽ đem lại hiệu quả rất lớn cho người lao động, doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng như cho đất nước.
Canađa
Canađa được coi là thị trường tiềm năng, ngoài điều kiện ăn ở và làm việc tốt, người lao động Việt Nam còn được học hỏi thêm về kinh nghiệm làm việc và kinh doanh để khi về nước có thể tự phát triển sản xuất hoặc kinh doanh.
Tại Canada, một số ngành nghề được Chính phủ nước này thông báo là đang thiếu trầm trọng lao động và sẽ có nhu cầu lớn về lao động nước ngoài trong nay mai là xây dựng, khai thác mỏ, nông nghiệp, giúp việc gia đình và làm việc trong các viện dưỡng lão. Riêng ngành xây dựng với tốc độ tăng trưởng cao sẽ là ngành thiếu nhiều lao động nhất. Chỉ ở một bang nhỏ như bang Bistic Columbia (BC) sẽ thiếu khoảng 60.000 lao động xây dựng. Với mức lương trung bình khoảng 3.200 đô-la/tháng, trừ khoảng 50% thu nhập cho chi phí sinh hoạt, bảo hiểm... người lao động sẽ còn ít nhất 1.500 đô-la/tháng.
Tuy nhiên, đây là cơ hội không dễ tận dụng với các doanh nghiệp. Bởi yêu cầu về trình độ của người lao động cũng khá khắt khe. Hầu như các nhà tuyển dụng Canada đều yêu cầu người lao động ngoại quốc phải có chứng chỉ nghề tương đương hoặc chứng chỉ nghề do chính hệ thống giáo dục của Canada cấp. Điều này không những là yêu cầu về trình độ tay nghề mà còn yêu cầu rất cao về trình độ ngoại ngữ của người lao động. Người lao động khi tham gia tuyển dụng phải trải qua kỳ thi sát hạch nghề nghiệp rất nghiêm túc. Với yêu cầu khá cao, rất khó để người lao động nước ta đáp ứng được yêu cầu này khi nguồn nhân lực có chất lượng trong nước cũng đang khan hiếm
Anh
Bước đầu đã có lao động Việt Nam làm việc ở các nước này, tuy số lượng chưa nhiều nhưng mức thu nhập của họ là tương đối cao. Chính phủ Anh đã từng cấp giấy phép cho lao động Việt Nam vào làm việc trong lĩnh vực khách sạn. Chương trình này đã chấm dứt vào tháng 6/2005 vì quá nhiều người ở lại quá hạn visa. Phần khác vì lự lượng lao động từ các nước thành viên Liên hiệp châu Âu như Latvia, Ba Lan, Lithuania, nhiều ngành nghề rơi vào tình trạng thừa nhân công. Việt Nam được biết vẫn nằm trong số 20 nước có nhiều người ở lại quá hạn visa hay nhập cảnh trái phép vào Anh nhất.
Thị trường lao động ở Anh vẫn còn nhiều nhu cầu, nhất là với việc làm tay chân, nên trong tương lai có thể xuất khẩu được lao đông sang thị trường này nếu chính phủ Anh cho phép. Mặt khác, nếu nước ta có những biện pháp điều chỉnh phù hợp thì đây sẽ là một cơ hội lớn trong việc xuất khẩu lao động sang thị trường có thu nhập cao này.
Mỹ
Những thị trường như Mỹ, Canada được coi là thị trường cao nhất kể cả về thu nhập và điều kiện nhập cảnh. Trình độ kiến thức, kỹ năng nghề không phải chỉ căn cứ vào bằng cấp, chứng chỉ của các cơ sở đào tạo trong nước mà phải được xác định thông qua tuyển lựa, kiểm tra, đánh giá của phía đối tác nước ngoài, quan trọng hơn, nó phải được thể hiện trong năng lực làm việc thực sự của người lao động có đáp ứng được đòi hỏi của công nghệ sản xuất, độ phức tạp của công việc mà họ đảm nhiệm ở nước ngoài. Đã có nhiều lao động Việt Nam được coi là có nghề xây, trát và họ cũng đã làm việc đó trên công trường. Nhưng khi người nước ngoài tuyển chọn thì không đạt yêu cầu vì họ chưa thực hiện được những thao tác rất cơ bản của nghề, họ không được đào tạo cơ bản. Muốn có một tấm visa vào những thị trường đòi hỏi chất lượng cao, có trình độ chuyên môn, người lao động phải có kỹ năng nghề cao, kinh nghiệm làm việc thực tế và phải đạt trình độ tiếng Anh 4.5 điểm IELTS trở lên
Nghề y tá, điều dưỡng rất được Mỹ ưa chuộng, mức lương khoảng 20-30 USD/giờ. Tuy nhiên, hiện Việt Nam chưa đủ khả năng đào tạo y tá điều dưỡng theo yêu cầu của Mỹ, vì vậy sẽ cần một thời gian dài nữa Việt Nam mới có thể đưa được y tác điều dưỡng sang thị trường này.
NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Thực hiện chỉ thị số 41 – CT/TW ngày 22/9/1998 của Bộ Chính trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia và chỉ đạo của Chính phủ, chỉ tính riêng từ năm 1999 đến nay:
Số lượng người lao động: cả nước đã có trên 300.000 người đi làm việc ở nước ngoài, nâng tổng số người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài trong thời điểm hiện nay lên trên 400.000 người. Thu nhập của người lao động bình quân những năm gần đây khoảng 1,5 tỷ USD/năm. Chất lượng nguồn lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài từng bước được cải thiện, đội ngũ doanh nghiệp được hình thành trong đó có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Về số lượng doanh nghiệp: Xuất phát từ chủ trương của Nhà nước trong việc siết chặt doanh nghiệp xuất khẩu lao động, chỉ để lại những doanh nghiệp đủ mạnh, đủ khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Xu hướng doanh nghiệp xuất khẩu lao động đua nhau đầu tư xây dựng trường nghề bắt đầu khaỏng 2 năm nay.
Hiện cả nước có hơn 20 trong tổng số 141 doanh nghiệp đã sở hữu những cơ ngơi trường nghề bề thế, tập trung ở các tỉnh ven Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng khó tính của đối tác nước ngoài các doanh nghiệp đã chủ động nguồn lao động có kỹ thuật thông qua việc xây dựng các trường nghề. Đối tác thường sang thăm dò năng lực của doanh nghiệp cung ứng lao động trước khi ký hợp đồng. Doanh nghiệp nào cũng muốn thể hiện năng lực của mình và thuyết phục nhất là phải chứng minh cho họ thấy cơ ngơi trường nghề bề thế, quy trình đào tạo học viên thật bài bản, chất lượng.
Nguồn lao động: Chất lượng nguồn lao động được cải thiện đáng kể so với trước. Bên cạnh những thế mạnh về khả năng tiếp thu công nghệ nhanh, cần cù, chịu khó, ngày càng có nhiều lao động được đào tạo ngoại ngữ, tay nghề, tìm hiểu pháp luật trước khi đưa ra nước ngoài làm việc.
Bình quân hàng năm giai đoạn 2004-2009 đã có khoảng trên 1 triệu lao động đã được đào tạo bổ sung vào nhân lực cả nước. Đây là nguồn lao động dồi dào, là thế mạnh của nước ta trong việc đưa lao động sang các thị trường truyền thống. Mặt khác, nhà nước đang đầu tư nâng cấp hệ thống các trường đào tạo nghề lên ngang tầm khu vực và thế giới.
Thị trường lao động ngoài nước: Bên cạnh việc phát triển những thị trường truyền thống đã có, thời gian qua Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã và đang tấn công vào những thị trường mới hấp dẫn. Nhằm xúc tiến việc mở thêm thị trường lao động, mới đây Bộ LĐTB-XH, Cục Quản lý lao động ngoài nước đã đi khảo sát, đàm phán việc ký kết, đưa lao động Việt Nam sang thị trường Libya; cũng đã ký thỏa thuận về hợp tác lao động với chính quyền vùng Sisilia (Italia). Các thị trường như Brunei, Singapore và một số nước khu vực Trung Đông như Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE), Qatar, Saudi Arabia, Oman, Baharain được mở ra. Triển khai thí điểm đưa lao động sang một số thị trường có thu nhập cao như Úc, Hoa Kỳ, Canada, Phần Lan, Italia và đồng thời đã đưa được lao động sang Liên bang Nga và các nước SNG cũ, Bungari, Slovakia...
2.3 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI XUẤT KHẢU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM
2.3.1. Những vấn đề đặt ra trong xuất khẩu lao động
2.3.1.1.Quản lý hoạt động xuất khẩu lao động
* Hệ thống pháp luật hiện tại về xuất khẩu lao động chưa đủ và chưa chặt chẽ đề sàng lọc bớt các doanh nghiệp yếu: Bởi vậy đã có nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng hoặc cho những đơn vị khác thuê lại giấy phép của mình để đưa lao động sang nước ngoài làm việc. Tình trạng trên làm nảy sinh những vấn đề đáng tiếc như cạnh tranh không lành mạnh trong tuyển nguồn, doanh nghiệp dịch vụ thu tiền đặt cọ quá cao của người lao động trong hoạt động xuất khẩu lao động thời gian qua. Không ít doanh nghiệp không có chiến lược hoạt động bài bản, tuyển dụng lao động và đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài theo kiểu chộp giật, đánh quả.
Các tổ chức xuất khẩu lao động hầu hết có quy mô nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp (trong số 140 đơn vị, chỉ có 12,8% mang tính chuyên nghiệp), bình quân hàng năm đưa đi không quá 200 lao động/đơn vị, nên không đủ khả năng xây dựng cơ sở đào tạo và tiếp cận thị trường.
* Số lượng lao động vi phạm pháp luật nhiều: Về công tác quản lý lao động, theo thống kê, đến nay có khoảng 400.000 lao động Việt Nam ở nước ngoài, tỷ lệ bỏ hợp đồng ra ngoài cư trú, làm ăn bất hợp pháp luôn ở mức cao hơn nhiều so với các nước xuất khẩu lao động trong khu vực: ở Nhật Bản là 30-40%, ở Hàn Quốc 25-30%, ở Đài Loan 9%. Trong khi đó, như ở Nhật Bản, lao động Trung Quốc thuộc diện này chỉ 1,02%, Indonesia: 5,58%, Philipines, Thái Lan cũng chỉ ở mức trên dưới 1%. Nhiều trường hợp vì bất đồng ngôn ngữ, vì chủ sử dụng lao động đối xử ngược đãi, trả lương không đúng với hợp đồng nhưng không có cơ quan nào đứng ra bênh vực bảo vệ nên họ đành tìm cách liên lạc với người thân và bỏ trốn.
2.3.1.2. Cung ứng lao động và trình độ lao động
Lao động Việt Nam đang mất dần thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Lao động nước ta đi xuất khẩu đa phần là không có tay nghề hoặc tay nghề thấp, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao, chủ yếu là lao động phổ thông, chưa có nhận thức đúng về quan hệ chủ - thợ trong cơ chế thị trường. Phần lớn chưa có trình độ ngoại nhữ cần thiết để giao tiếp với chủ sử dụng lao động trong làm việc.
Do không có tay nghề hoặc tay nghề thấp, lao động Việt Nam chủ yếu được bố trí làm việc trong các nhóm ngành nghề không đòi hỏi nhiều về trình độ chuyên môn và tay nghề, điều kiện về sinh an toàn lao động, thu nhập không cao. Số lao động xuất khẩu làm các công việc cần đến trình độ tri thức cao như chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp còn tương đối ít. Lao động Việt Nam đang chịu sự cạnh tranh gay gắt với lao động các nước đã đi trước và đã có chỗ đứng, có uy tín trên thị trường.
Theo thống kê, từ năm 1998 đến năm 2005, trong số 400.000 lao động Việt Nam sang làm việc tại trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, chỉ có khoảng 27% lao động có nghề, còn lại là lao động phổ thông và không nghề. Đáng chú ý là chất lượng lao động đang có xu hướng tỷ lệ nghịch với số lao động. Năm 2003, chỉ có 16% trong tổng số 78.000 lao động xuất khẩu được đánh giá là có tay nghề.
2.3.1.3. Mở rộng thị trường
Phần lớn nước ta mới xuất khẩu lao động đi các thị trường có thu nhập thấp, công việc đơn giản, môi trường làm việc năng nhọc, độc hại, kém hấp dẫn. Những thị trường cần nhiều lao động có ngoại ngữ, chuyên môn kỹ thuật cao lại chưa đáp ứng.
Ở những thị trường có thu nhập cao đang trong tình trạng thiếu lao động và có nhu cầu khá lớn về lao động nước ngoài, thì lao động Việt nam chiếm rất ít. Do thị trường này đòi hỏi chất lượng cao, nên khả năng tiếp cận của người lao động nước ta còn hạn chế. Ví dụ như thị trường Nhật Bản: do tình trạng tu nghiệp sinh Việt Nam ở Nhật Bản bỏ hợp đồng rất cao (tỷ lệ đó có lúc lên tới 35%) gây khó khăn trong quan hệ lao động Việt Nam – Nhật Bản. Năm 2008, cả nước giải quyết việc làm cho 1,35 triệu lao động, trong đó thông qua các chương trình kinh tế xã hội là 1,1 triệu, xuất khẩu lao động 85.000. 4 thị trường xuất khẩu lao động trọng điểm của Việt Nam là: Đài Loan (33.000), Hàn Quốc (16.000), Malaysia (7.800) và Nhật Bản (5.800).
Nếu so sánh với Philipin thì Philipin có số người trong độ tuổi lao động như Việt Nam, nhưng hiện nay nước này đã có khoảng 8 triệu lao động làm việc ở hơn 56 nước, đông nhất là Mỹ, Ả - Rập Xê-út, Canada, Nhật Bản, Malaysia Trong khi đó nước ta mới đưa lao động đi làm việc ở trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ.
2.3.1.4. Rủi ro trong xuất khẩu lao động
* Rủi ro doanh nghiệp gặp phải:
Về phía môi giới: Có rất nhiều doanh nghiệp không ký được hợp đồng cung ứng lao động trực tiếp với chủ sử dụng lao động nước ngoài, phần lớn đều phải qua các đại lý, các công ty hoặc cá nhân trung gian môi giới nhiều người trong số này không phải đối tác thật. Nhiều doanh nghiệp mới do thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn không có điều kiện ra nước ngoài để tìm hiểu tại chỗ, nhờ các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài thẩm định cụ thể các điều kiện của đối tác. Hợp đồng ký ở trong nước tốn kém về thời gian, chi phí tiếp khách, đàm phán, đào tạo lao động nhưng cuối cùng không đưa lao động đi được chỉ vì không gặp đối tác thật.
Lao động bỏ trốn làm doanh nghiệp mất uy tín với đối tác và bị đình chỉ hoạt động xuất khẩu lao động, vừa mất đi khoản phí dịch vụ được thu theo quy định của nhà nước.
Cũng vì lao động bỏ trốn mà tâm trạng doanh nghiệp luôn ở trong trạng thái không yên, chiến lược xuất khẩu lao động luôn tiềm ẩn rủi ro. Trong khi đó, vì lợi ích nhỏ mà người lao động đã quên những gì cam kết với doanh nghiệp, những gì đã được học gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng mất thị trường lao động. Khi lao động ra nước ngoài làm việc, doanh nghiệp phải mở lớp đào tạo (luật pháp nước sở tại, ngoại ngữ, định hướng), trong đó chú tâm đào tạo định hướng; có nghĩa là khuyên răn người lao động không nên bỏ trốn (vì làm thế sẽ gây thiệt hại kinh tế, ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp và chiến lược xuất khẩu lao động nói chung). Khi lao đọng bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp thì doanh nghiệp và cơ quan quản lý đến nước sở tại nghe họ phản ánh, rồi sau đó tìm cách đưa lao động bỏ trốn về nước, tránh để gây thêm rắc rối. Còn người lao động bị đưa về nước đã không bị xử lý hoặc chịu bất kỳ trách nhiệm nào về việc mình gây ra mà thậm chí còn đổ lỗi cho doanh nhgiệp, tiếp tục gây ra các vụ kiện.
* Rủi ro người lao động gặp phải:
Do các doanh nghiệp xuất khẩu lao động xử lý thiếu chuyên nghiệp làm kéo dài thời gian chờ đợi cho người lao động. trong khi đó trước khi đi người lao động phải bỏ ra rất nhiều chi phí cho việc học ngoại ngữ, giáo dục định hướng Ví dụ: việc 18 doanh nghiệp xuất khẩu lao động bị phia Đài Loan từ chối vừa qua, vì chưa đăng ký với Ủy ban lao động Đài Loan về việc xin cấp giấy phép mới. Mặc dù 21/3/2006, Cục Quản lý lao động ngoài nước đã có công văn 255 gửi các doanh nghiệp XKLD sang Đài Loan (Theo quy định của Đài Loan, các công ty môi giới lao động nước ngoài phải đăng ký và được Ủy ban Lao động Đài Loan cấp giấy phép mới thời gian 2 năm) và đề nghị các doanh nghiệp Việt Nam liên hệ với Phòng thị trường lao động của Cục để lấy mẫu đăng ký. Thế nhưng, các doanh nhiệp vẫn chậm trễ và đã xảy ra hậu quả trên dẫn đến việc làm nhỡ các chuyến bay của người lao động, họ lại phải chờ đợi trong thời gian dài có thể lên đến 2 năm.
Thực tế cho thấy vấn đề rủi ro trong xuất khẩu lao động ngày càng bộc lộ rõ. Vì thế ngoài việc nâng cao chất lượng lao động thì vấn đề nâng cao kỷ luật lao động và trách nhiệm của người lao động cũng là vấn đề cần được đặt lên hàng đầu.
2.3.2. Nguyên nhân của những vấn đề đặt ra cho xuất khẩu lao động của Việt Nam
2.3.2.1. Về thông tin
Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của nước ta không có nhiều thông tin, chủ yếu vẫn phải dựa vào trung gian, môi giới và phải trả phí môi giới khá cao, khiến thu nhập của người lao động bị ảnh hưởng. Nhiều doanh nghiệp làm ăn không trung thực đưa ra thông tin sai lệch về điều kiện làm việc khi tuyển dụng, công việc nặng nhọc, pháp luật nước sở tại nghiêm khắc, lao động bị trục xuất khiến người lao động mất lòng tin, cho đây là thị trường khó khăn, khắc nghiệt.
Nhận thức về xuất khẩu lao động của một số cấp ủy Đảng, chính quyền ở các địa phương còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng địa phương chưa sâu rộng, thông tin thị trường, tư vấn pháp luật và nghề nghiệp còn hạn chế; giải quyết thủ tục hồ sơ cho người đi xuất khẩu lao động còn chậm.
2.3.2.2. Đào tạo, giáo dục định hướng
Sau 15 năm doanh nghiệp được phép xuất khẩu lao động, đến nay, nguồn nhân lực có tay nghề rất hạn chế, ngay cả lao động phổ thông cũng khó tìm. Các công ty phải lùng sục tận miền núi, đến nơi xa xôi nhất. Việc lấy lao động từ các trường nghề sẵn có hoặc liên kết với các trường để đào tạo cũng không dễ. Nhiều học sinh rất muốn đi, nhưng khi nói đến khoản lên phí phải trả thì e ngại. Hơn nữa, làm theo cách này, doanh nghiệp bị động, có thể bỏ lỡ nhiều đơn hàng giá trị. Rất nhiều doanh nghiệp muốn có trường dạy nghề riêng, nhưng không dễ xin được đất và quan trọng nhất là không
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6107.doc