Chính sách kinh tế mới vừa bao hàm cái quá khứ vừa bao hàm cái tương lai. Cái quá khứ chính là thuế, nhà nước thu một phần lương thực của nông dân dưới hình thức thuế. Cái tương lai là tự do trao đổi, nghĩa là phần còn lại sau khi nộp thuế người nông dân được tự do mua bán trên thị trường. Cái tương lai quyết định cái quá khứ, có thể hiểu rằng tương lai là cho phục hồi kinh tế hàng hóa, phục hồi quan hệ hàng- tiền.
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1988 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng chính sách kinh tế mới ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền nông nghiệp nông dân.Đối với chế độ tô nhượng lại, càng đúng như thế”.
Luận điểm này được V.I.Lênin nhiều lần sử dụng trong các cuộc tranh luận với không ít đảng viên cộng sản có thái độ nghi ngờ hình thức tô nhượng, coi thường các xí nghiệp tô nhượng-nhứng người tỏ ý lo ngại thế lực tự phát đầu cơ trên thị trường sẽ có đIều kiện hoành hành, nền kinh tế đất nước bị phá hoại bởi chủ nghĩa tư bản và theo đó là sự phục hồi chủ nghĩa tư bản.V.I.Lênin cho rằng, việc thực hiện chế độ tô nhượng sẽ “gây ra những nguy cơ mới”, song nếu vì thế mà cho rằng không nên thực hiện chế độ tô nhượng thì “những người chủ chúng ta không thể điều khiển một nhà nước”. Thực hiện chế độ tô nhượng buộc chúng ta phải giải quyết “ những vấn đề cực kỳ khó khăn” nhưng điều đó không có gì đáng sợ bởi chúng ta có đủ khả năng “bắt chúng phải khuất phục và cải tạo chúng”. Rằng tô nhượng là “một hình thái chiến tranh mới”-chiến tranh kinh tế.”một cuộc chiến tranh mà trong đó ta cũng không được nhượng bộ một chút xíu nào”, nhưng đó là cuộc chiến tranh “ có lợi cho chúng ta về mọi mặt” và là “một bảo đảm gián tiếp cho hòa bình”, bởi sự tồn tại của xí nghiệp tô nhượng là “một lý do về kinh tế và chính trị để chống lại chiến tranh”.Hơn nữa, V.I.Lênin còn coi việc “chuyển từ chế độ tô nhượng lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang một hình thức đại sản xuât khác” và một khi thành công, nó sẽ đưa lại cho chúng ta những xí nghiệp lớn kiểu mẫu “ngang trình độ của chủ nghĩa tư bản tiên tiến hiện đại”.
Trong số các xí nghiệp tô nhượng, V.I.Lênin luôn dành sự đánh giá cao hơn cho kiểu xí nghiệp tô nhượng theo lối công ty liên doanh mà ở đó, nhà kinh doanh nước ngoài hợp tác với nhà nước xã hội chủ nghĩa “theo cổ phần”.Người coi việc sử dụng rộng rãI các công ty liên doanh sẽ có lợi hơn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc hậu.Hình thức nhà nước cho tư nhân thuê lại các xí nghiệp quốc doanh,hình thức thương nghiệp tư doanh và hình thức hợp tác xãcủa những người sản xuất nhỏ cũng được V.I.Lênin coi là những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước khi chúng phục tùng, phục vụ và chịu sự đIều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là thành phần kinh tế biểu hiện dưới dạng “thuần túy”, nhất là xí nghiệp tô nhượng, mà còn là sự hợp tác của Nhà nước xã hội chủ nghĩa với khu vực tư doanh trên cơ sở của chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất.
* Vận dụng lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta
Những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP, đặc biệt là về vấn đề sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước và vị trí vai trò của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần ở thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội không chỉ có ý nghĩa đối với nước Nga đầu những năm 20 của thế kỉ XX mà còn mang ý nghĩa quốc tế rộng lớn trong thời đại ngày nay.Những tư tưởng đó hiện vẫn là mẫu mực về một sách lược tình thế, đồng thời mang ý nghĩa của một đường lối chiến lược lâu dài đối với tất cả các nước trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền tiểu sản xuất, trong đó có nước ta.
Coi những tư tưởng đó của V.I.Lênin là một trong những cơ sở lý luận cho đường lối đổi mới ở nước ta hiện nay và từ thực tiễn sự nghiệp đổi mới, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, khi khẳng định “chúng ta phảI không ngừng thông qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận mà từng bước hình dung ngày càng sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ những mô hình cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,văn hóa…”, Đảng ta nhấn mạnh: “Phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của V.I.Lênin về chính sách “Kinh tế mới”, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợo với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc”. Tại Đại hội lần thứ VIII, khi một lần nữa khẳng định đường lối đổi mới mà chúng ta đã thực hiện qua 10 năm, Đảng ta chỉ rõ việc kiên định định hướng xã hộichủ nghĩa trong tiến trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay cần phải thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
Xuất phát từ quan niệm như vậy, Đảng ta đề ra chủ trương đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã; lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo, phát triển kinh tế hợp tác xã để tạo ra những đIều kiện thuận lợi cho chúng dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, phải tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư, làm ăn lâu dài; đồng thời mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. Để thực hiện tốt công việc này, cần “áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước”.
Kinh tế tư bản nhà nước với tư cách là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài, như Đảng ta đã khẳng định, “có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý…của các nhà tư bản vì lợi ích bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”. Để kinh tế tư bản nhà nước thực hiện được vai trò quan trọng đó, Đảng ta chủ trương áp dụng nhiều phương thức góp vốn kinh doanh giữa Nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước nhằm “ tạo thế,tạo lực” cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài; cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoàI; bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao động trong các xí nghiệp hợp tác, liên doanh.
Cụ thể hóa chủ trương đó, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII, một lần nữa, Đảng ta khẳng định, trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế cần được “khuyến khích phát triển”, và đề ra những biện pháp cụ thể để khuyến khích sự phát triển của nó trong khuôn khổ luật pháp, với sự điều tiết của Nhà nước nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với quan niệm nhất quán như vậy về việc phát triển kinh tế tư bản nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội lần thứ IX, khi tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có sự đánh giá đúng đắn, sát thực về vị trí và vai trò của thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Trên cơ sở đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định chủ trương “phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước” nhằm mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh và qua đó, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tăng hiệu quả phát triển kinh tế-xã hội, đưa đất nước ta nhanh chóng đạt tới trình độ của một nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Như vậy, có thể nó, trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc làm sáng tỏ quan niệm của V.I.Lênin về vấn đề sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ qua độ luôn luôn là vấn đề có ý nghĩa thời sự và cần thiết. Bởi nó đem lại cho chúng ta một cơ sở lý luận để tổng kết thực tiễn và định hướng đúng đắn việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm tiếp theo.
2/ Vấn đề nông dân và công nhân
Chính sách “kinh tế mới” bắt đầu từ nông dân, nông nghiệp, bởi khó khăn lớn nhất của một đất nứơc là lương thực cho toàn bộ xã hội và nguên liệu cho các ngành công nghiệp. Có thể thấy rằng Lênin đã bấm “đúng nút” để mở ra đường lối đúng đắn, từ đó làm cho toàn bộ nền kinh tế vận động đúng hướng.Giải quyết được khó khăn về kinh tế lương thực cho nông dân sẽ giải quyết được đời sống cho nông dân và cho công nghiệp.
Xuất phát từ nông dân không phải là từ bỏ chuyên chính vô sản, từ bỏ lập trường của giai cấp công nhân, dựa vào lập trường của giai cấp nông dân. Bởi vì trong điều kiện kinh tế suy tàn, xuất phát từ nông dân là con đường duy nhất đúng đắn.
Theo Lênin: “tình hình chính trị hồi đầu mùa Xuân năm 1921 đã đưa đến chỗ bắt buộc phải dùng những biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất, cấp thiết nhất để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ”.
Tại sao lại chính là của nông dân chứ không phải của công nhân?
Vì muốn cải thiện đời sống của công nhân thì phải có bánh mì và nhiên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta mà nói thì hiện nay “trở ngại” lớn nhất là ở đó.Thế mà chúng ta chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch lúa mì, tăng thêm dự trữ và vận tải nhiên liệu. Bằng cách cải thiện đời sống của nông dân,bằng cách nâng cao lực lượng sản xuât của họ. Phải bắt đầu từ nông dân. người nào không hiểu điều đó, người nào có ý coi đưa vấn đề nông dân lên hàng đầu như thể là một sự “từ bỏ” hoặc tương tự như sự từ bỏ chuyên chính vô sản, thì chẳng qua chỉ là vì người đó không chịu suy nghĩ kĩ càng vấn đề đó và bị lời nói trống rỗng chi phối…Vấn đề cấp thiết nhất hiện nay là dùng những biện pháp có thể phục hồi ngay những lực lượng sản xuất của kinh tế nông dân. Chỉ có bằng con đường ấy chúng ta mới có thể cải thiện được đời sống của công nhân,tăng cường được liên minh công-nông, củng cố được chuyên chính vô sản”.
Vấn đề đặt ra là bằng phương pháp nào để cải thiện đời sống nông dân và phát triển nông nghiệp. Điều này đòi hỏi phải sửa đổi chính sách, thay chính sách “Cộng sản thời chiến” bằng chính sách “Kinh tế mới”.Lênin chủ trương xóa bỏ chính sách “cộng sản thời chiến”, nghĩa là xóa bỏ chính sách trưng thu lương thực thừa và thay vào đó là chính sách thuế lương thực.
* Chính sách thuế lương thực
Chính sách thuế lương thực quy định là người nông dân sau khi đã hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước, phần còn lại bao gồm cả khoản lương thực cần thiết cho nhu cầu tiêu dùng gia đình và phần lương thực thặng dư- nếu muốn họ có thể tự do mua bán trên thị trường. Chủ trương này đã làm cho nông dân thấy đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Người nông dân được tự do làm chủ trên mảnh ruộng của mình, được tự do sản xuât thu hái và tiêu thụ sản phẩm… Chính được quyền tự do đó mà người nông dân lo trước hết là phần nghĩa vụ – nộp thuế đã rồi mới quyết định phần còn lại.Việc tiêu thụ phần lương thực thừa dẫn đến một bước phát triểnmới trong quan hệ hàng hóa- tiền tệ. Mặt khác người nông dân là chỉ tiêu thụ phần lương thực thừa mà nhiều khi họ còn tiêu thụ ngay cả phần lương thực sử dụng cho nhu cầu thiết yếu của họ và gia đình.Chính cơ chế thoáng đó đã tạo ra sự chuyển đổi nhu cầu, kích thích phát triển tính phong phú và nhiều vẻ của nhu cầu, kích thích nền nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa
Như vậy, thực chất của NEP là thay trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực, chuyển sang phục hồi chủ nghĩa tư bản trên một mức độ và tự do trao đổi hàng hóa là “đòn xeo” của chính sách “kinh tế mới”.
“Xóa bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa có nghĩa là nông dân được tự do mua bán những nông sản thừa sau khi đã nộp thuế, mà thuế lương thực thì chỉ chiếm một phần nhỏ cac sản phẩm.Nông dân chiếm tuyệt đại bộ phận trong tổng số dân cư và trong toàn bộ nền kinh tế, vì vậy chủ nghĩa tư bản không thể không phát triển trên mảnh đất tự do mậu dịch đó
* Chính sách tự do trao đổi hàng hóa
Do thực hành chính sách tự do lưu thông lương thực và phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp nên nảy sinh xu hướng phát triển nhân tố tư bản tư nhân. Về vấn đề này, theo quan đIểm của Lênin thì đó là hợp quy luật. Bởi vì hễ có trao đổi thí sự phát triển kinh tế hàng hóa nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, một sự phát triển tư bản chủ nghĩa. Đó là một tất yếu không thể chối cãi được,một điều sơ đẳng của kinh tế chính trị.
Theo Lênin: “ Chính là nhờ có tự do buôn bán đến một mức nào đó (dẫu chỉ trong phạm vi địa phương) mà giai cấp tiểu tư sản và chủ nghĩa tư bản phục hồi. Đó là điều không thể chối cãi được. Nhắm mắt bỏ qua điều đó thì thật là lố bịch…Hễ có trao đổi thì sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, một sự phát triển tư bản chủ nghĩa; đó là một chân lý không thể chối cãi được, một chân lý sơ đẳng của kinh tế chính trị học, đã được kinh nghiệm hằng ngày và sự quan sát của ngay cả những người bình thường xác nhận”.
Theo Lênin: “ Việc trao đổi hàng hóa, tức là đòn xeo chủ yếu của chính sách kinh tế mới, được đặt lên hàng đầu. Không thiết lập việc trao đổi hàng hóa hay sản phẩm một cách có hệ thống giữa công nghiệp và nông nghiệp, thì không thể có được mối quan hệ đúng đắn giữa giai cấp vô sản và nông dân và không thể tạo ra được một hình thức liên minh kinh tế hoàn toàn vững chắc giữa hai giai cấp đó trong giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.
Chính sách kinh tế mới vừa bao hàm cái quá khứ vừa bao hàm cái tương lai. Cái quá khứ chính là thuế, nhà nước thu một phần lương thực của nông dân dưới hình thức thuế. Cái tương lai là tự do trao đổi, nghĩa là phần còn lại sau khi nộp thuế người nông dân được tự do mua bán trên thị trường. Cái tương lai quyết định cái quá khứ, có thể hiểu rằng tương lai là cho phục hồi kinh tế hàng hóa, phục hồi quan hệ hàng- tiền.
Trao đổi hàng hóa tạo điều kiện xác lập quan hệ mới giữa nông dân- công nhân, giữa nông dân và Nhà nước xô viết từ đó xác lập liên minh mới về kinh tế, bình đẳng giữa hai giai cấp trên quan hệ hàng- tiền. Trao đổi hàng hóa là một nhiệm vụ quan trọng nhất trong toàn bộ chính sách kinh tế. Tự do trao đổi đặt nền móng để xây dựng chế độ tiền tệ.
Ngoài những mặt tích cực, tự do trao đổi còn đem đến những hạn chế đòi hỏi nhà nước chuyên chính vô sản cần phải khắc phục. Tự do trao đổi tất yếu đi đến phục hồi chủ nghĩa tư bản, như thế thì có nên ngăn cấm hay không? Theo Lênin không thể ngăn cấm được, vì nếu ngăn cấm tự do trao đổi thì là điều tự sát. Ngoài ra, tự do trao đổi còn đưa tới buôn gian bán lận, đầu cơ, làm hàng giả… Để hạn chế những tiêu cực đó theo Lênin cần tăng cường vai trò nhà nước trong cơ chế thị trường.
* Vai trò của nhà nước
Vai trò của nhà nước là kiểm kê, kiểm soát nghiêm ngặt để chống lại gian thương, buôn lậu, đầu cơ, làm hàng giả.Trừng phạt kinh tế gấp ba, bốn lần ; bằng kiểm kê, kiểm soát mới hướng chủ nghĩa tư bản đi vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Lênin đã chỉ rõ: “ Phải duyệt lại và sửa đổi tất cả các luật lệ về đầu cơ, phải tuyên bố rằng mọi hành vi ăn cắp, mọi mưu toan, trực tiêp hoặc gián tiếp, công khai hoặc lén lút, lẩn tránh sự kiểm tra, sự giám sát, sự kiểm kê của nhà nước, đều bị trừng phạt ( và thực tế phải trừng trị một cách nghiêm khắc gấp ba lần so với trước đây). Chính có đặt vấn đề như vậy…thì chúng ta mới hướng được sự phát triển của chủ nghĩa tư bản- sự phát triển này là không thể tránh được trong một chừng mực nào đó và là cần thiết, đi vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước”.
Như vậy,thông qua thực tiễn của chính sách cộng sản thời chiến, Lênin thấy rằng từ nước Nga kinh tế kém phát triển với tuyệt đại đa số là tiểu nông thì không thể xóa bỏ được kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường.Người đã khẳng định sự tồn tại khách quan cảu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chỉ ra những mặt tich cực và hạn chế của cơ chế thị trường. Từ đó cần có vai trò tác động của nhà nước để phát huy mặt tích cực; khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Trước đây, khi nói đến NEP nhiều người chỉ coi đó là giải pháp tình thế giúp nước Nga thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội sau nội chiến chứ không thấy hết được ya nghĩa thực tiễn lớn lao của nó như một cương lĩnh về xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Do vậy sau khi Lênin mất,chính sách kinh tế mới đã bị lãng quên ngay trên chính quê hương đã sinh ra nó. Đến năm 1978 những tư tưởng của Lênin trong NEP, đặc biệt là tư tưởng về phát triển hàng hóa và cơ chế thị trường được tái hiện ở Trung Quốc và đến năm 1986 có thêm Việt Nam. Ngày nay, tư tưởng đó đã và đang được Đảng và Nhà nước hai nướcvận dụng một cách sáng tạo, ngày càng hoàn thiện đem đến những thành công cho nền kinh tế mỗi nước để từng bước vượt qua thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
* Vận dụng ở Việt Nam
Việt Nam đã, đang và sẽ tiến hành phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên để nhận thức và khaẻng định được điều này, Đảng ta phải trải qua quá trình tìm tòi, thể nghiệm lâu dài, đầy gian khổ và mang tính sáng tạo.
Trước Hội nghị TƯ 6 khóa IV của Đáng (9/1979) nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh được chi tiết hóa từ trên xuống. Có những quan niệm theo kiểu:
Coi hàng hóa –tiền tệ là tàn dư của chủ nghĩa tư bản, vì vậy càng xóa nhanh kinh tế hàng hóa bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, xem chủ nghĩa xã hội là đối lập với hàng hóa. Đồng thời không thấy rõ được vai trò lịch sử của kinh tế hàng hóa đối với tiến trình phat triển nhân loại nói chung và phát triển lực lượng sản xuất nói riêng. Không thừa nhận sự tồn tại, điều tiết của quy luật giá trị tức là không thừa nhận cơ chế thị trường; coi tính thị trường là thứ yếu, hỗ trợ cho kế hoạch, không thừa nhận thị trường tư liệu sản xuất; không được mua bán tự do trên thị trường….
Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cộng với những quan điểm cũ đã không tạo được động lực phát triển cho đất nước sau khi thống nhất mà ngược lại kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, hạn chế tính năng động tự chủ của các đơn vị kinh tế cơ sở, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội sâu sắc.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành TƯ Đảng lần thứ 6 khóa IV là mốc khởi đầu quan trọng của quá trình tìm tòi đổi mới- cải cách kinh tế ở Việt Nam. Tiếp sau đó Đại hội lần thứ VI của Đảng khẳng định chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần như quá trình tiếp tục cách mạng quan hệ sản xuất một cách phù hợp. Đến Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VI đã tiến thêm một bước trong việc nhất quán vận dụng và càng khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát: Thực hiện nhất quán phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội.
“Quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuât lớn ở nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn hiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa. Chúng ta đang quản lý có kế hoạch một nền kinh tế sản xuất hàng hóa với những đặc diểm của thời kỳ quá độ. Việc sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hóa- tiền tệ trong kế hoach hóa nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa -tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới về quản lý kinh tế mà chúng ta đang xây dựng”.
Việc sử dụng quan hệ hàng hóa-tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả, các tổ chức và đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng, tức là phải hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Muốn kế hoạch hóa quá trình tái sản xuất hàng hóa, phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật đang tác động lên nền kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy luật kinh tế cơ bản cùng với các quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội ngày càng phát huy vai trò chủ đạo, được vận dụng trong một thể thống nhất với các quy luật giá trị, quan hệ cung cầu…
* Các thành phần kinh tế
Đại hội VI chỉ rõ nước ta có năm thành phần kinh tế : kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ phận gia đình gắn liền với thành phần đó; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước;kinh tế tự nhiên, tự cấp ,tự túc.Đó chính là sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta về các thành phần kinh tế trong NEP của Lênin và sự nhận thức về quá độ từ một nước kinh tế kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội cần phải “bắc cầu trung gian”, nghĩa là phải thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Sự trở lại những tư tưởng cơ bản của Lênin trong chính sách kinh tế mới, đặc biệt là tư tưởng về phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, có thể xem như bước trưởng thành, bước đổi mới nhận thức của Đảng ta. Đó là bước trưởng thành vượt qua nhận thức cũ mang tính ấu trĩ, tả khuynh, chủ quan, duy ý chí với hàng loạt những sự cường đIửu, kỳ thị, phiến diện và công thức đơn giản. Từ đó đưa nền kinh tế nước ta đI vào đúng quỹ đạo, đúng quy luật, khách quan để tăng cường và phát triển.
Dựa vào căn cứ thực tiễn và sự phát triển lý luận, Đại hội VII của Đảng đã xác định phương hướng: Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
“Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướn xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Trong cơ chế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nghuyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả; Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và đIều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, đảm bảo sự hàI hòa giũa phát triển kinh tế và phát triển xã hội”.
Đồng thời “từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn và tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường sức lao dộng…phát triển các hình thức thu hút vốn và đảm bảo chu chuyển vốn nhanh. Xây dựng thí đIểm thị trường chứng khoán khi có điều kiện.”
Từ thực tiễn 10 năm đổi mới(1986-1996), Đại hội VIII khẳng định: “Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần không thể tách rời việc xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự qunả lý của nhà nước theo định hướn XHCN. Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa”
Bên cạnh việc xử lý tốt mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường( thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch), cần tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường bao gồm: phát triển mạn thị trường hàng hóa và dịch vụ; tổ chức quản lý và hướng dẫn tốt việc thuê mướn và sử dụng lao động; quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản; xây dựng thị trường vốn từng bước hình thành thị trường chứng khoán.
Đại hội VIII chỉ ra nước ta có năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác mà nòng cốt là kinh tế hợp tác xã;kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá thể, tiểu chủ;kinh tế tư bản tư nhân. Đảng ta tiếp tục khẳng định và phát triển tư tưởng của Lênin về các thành phần khinh tế trong chính sách kinh tế mới vào thực tiễn Việt Nam.
* Nhận thức về cơ chế quản lý hàng hóa mới
Đảng ta đã khẳng định một số nhận thức về cơ chế quản lý mới như sau:
-Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng.
-Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta, thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản xuất và lưu thông, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới.
-Thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh.
Tiếp tục vận dụng và phát triển tư tưởng của Lênin trong NEP, Đại hội IX đã khái quát mô hình nền kinh tế nước ta: “ Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dàI chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21145.doc