MỤC LỤC
Trang
LỜI TỰA
PHẦN MỞ ĐẦU 1
I/Tình hình kinh tế 2
II/ Xây dựng phương hướng và phương pháp giải quyết 3
NỘI DUNG 5
I/ Lý luận triết học khái niệm phủ định biện chứng 5
1. Khái niệm phủ định biện chứng 5
2. Những đặc trưng của phủ định biện chứng 5
II/ Vận dụng khái niệm phủ định biện chứng để phân tích quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam 6
1. Đó là tính tất yếu khách quan và điều kiện cho sự phát triển 6
2. Quá trình phủ định biện chứng tạo nên sự phát triển 8
KẾT LUẬN 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1808 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vận dụng khái niệm phủ định biện chứng để phân tích quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời tựa
Thế kỷ XX qua đi đã đánh dấu những bước phát triển vượt bậc của con người trong công cuộc xây dựng thế giới. Loài người dựa vào bàn tay, khối óc của mình đã khám phá và vận dụng các quy luật của thế giới tự nhiên để phát minh ra rất nhiều thành tựu khoa học dần làm thay đổi bộ mặt của thế giới từ thủa sơ khai đến phát triển như ngày nay. Trong xu hướng đó, Việt Nam chúng ta cũng không ngừng vận động, không ngừng biến đổi để đưa đất nước phát triển đi lên. Để làm được điều đó, nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới đất nước có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Một trong những cải cách có tính chiến lược nhằm phát triển đất nước đi lên CNXH là: đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với nhiều hìng thức sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Tăng trưởng kinh tế và công bẳng xã hội đã và đang tạo sự biến đổi sâu sắc về mặt nhận thức và lí luận thực tiễn ở nước ta. Việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng cho nền kinh tế đất nước phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong nước và xu thế của thời đại là điều hết sức cần thiết để nước ta từng bước đi lên là một nền kinh tế tiên tiến phát triển trên thế giơí. Bởi vậy, với trách nhiệm là một người sinh viên trong hàng ngũ những người chủ tương lai của đất nước em thâý: phải vận dụng lí luận về phủ định biện chứng (một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin ) vào việc phân tích quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước. Điều đó giúp trâu dồi thêm hiểu biết về nền kinh tế đất nước, và những phương hướng hoạt động của Đảng và nhà nước cùng những nguyên nhân thực trạng của nền kinh tế. Và trang bị đầy đủ cho chúng em những kiến thức thiết yếu để sẵn sàng tiếp nhận những nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó.
phần mở đầu
Đất nước ta đã trải qua một thời gian dài chiến tranh gian khổ ác liệt, đã tiêu hao bao nhiêu sức người sức của, nay lại bắt đầu ngay vào công cuộc xây dựng XHCN. Quá trình phát triển nền kinh tế nước ta có một xuất phát triện rất thấp, đi lên từ đói nghèo lạc hậu. Do đó không thể tránh khỏi những tư tưởng chủ quan nóng vội và những sai lầm khuyết điểm. Đó chính là thời kỳ nền kinh tế nước ta ở chế độ kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp.
Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức được những sai lầm trong đường lối chính sách trước kia. Vì vậy, đã vạch ra đường lối đổi mới toàn diện và triệt để mà trọng tâm là đổi mới nền kinh tế được vạch ra ở Đại hội VI, và được bổ xung , hoàn thiện ở Đại hội VII, VIII. Trong đó sự tồn tại và phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được xác định là chiến lược phát triển lâu dài trong công cuộc đổi mới nền kinh tế theo định hướng XHCN.
I. tình hình kinh tế
Từ sau giải phóng miền Nam, thống đất nước vào năm 1975 thì Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới: cả nước tập chung xây dựng CNXH. Cơ chế tập chung quan liêu bao cấp đã tồn tại không tạo dựng được động lực phát triển, mà còn làm suy yếu nền kinh tế nước ta như kìm hãm sản xuất, làm giảm năng xuất, chất lượng, hiệu quả gây ra nhiều trở ngại trong việc phân phối lưu thông và làm xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Kết quả là sự khủng hoảng kinh tế, chính trị trong suốt thời gian dài. Mặt khác, cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp còn có những điểm tồn tại như:
Thứ nhất : Nhà nước chỉ thừa nhận một thành phần kinh tế với hai loại hình sở hữu: toàn dân, tập thể. Các thành phần kinh tế khác bị hạn chế ở mức tối đa thậm chí triệt tiêu.
Thứ hai : Nhà nước thực hiện chức năng quản lí nền kinh tế thông qua hệ thống mệnh lệnh hành chính không phù hợp với nguyên tắc dân chủ. Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm trước những quyết định của mình. Vì vậy dẫn đến các đơn vị kinh tế vừa không có quyền tự chủ trong kinh doanh, vừa bị ràng buộc về kết quả kinh doanh.
Thứ ba : Nhà nước thực hiện một cơ chế bao cấp tràn lan thông qua chế độ cung cấp và cấp phát ngân sách mà không có sự ràng buộc về mặt vật chất.
Thứ tư : Nhà nước không chú ý đầy đủ tới quan hệ hàng hoá tiền tệ và hiệu quả kinh tế. Không thấy rằng: tiền tệ là một công cụ năng động nhất trong quản lí kinh tế. Thậm chí nhà nước còn cho rằng đồng tiền là nguồn gốc của của bất công trong xã hội, mọi sản phẩm tiêu thụ theo kế hoạch bất kể thế nào.
Thêm vào đó cơ chế quản lí cũ gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm rất đơn giản về CNXH, mang nặng tính chất chủ quan duy ý chí.
Đứng trước tình hình đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có chủ trương chỉ đạo đổi mới toàn diện mà trọng tâm là đổi mới kinh tế.
II. xây dựng phương hướng và phương pháp giải quyết
Từ đại hội Đảng VI năm 1986, Đảng ta đã đánh giá chính xác và đúng đắn những tồn tại, đồng thời phân tích những sai lầm về sự chủ quan duy ý chí trong những năm thực hiện cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp. Từ đó Đảng ta đã khởi xướng sự nghiệp đổi mới toàn diện mà trọng tâm là đổi mới kinh tế “phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN”. Tiếp theo đó, tại đại hội VII và đại hội VIII thì nội dung này tiếp tục được khẳng định bổ xung.
Qua đó Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối đổi mới nên kinh tế, góp phần phát triển đất nước với những nhiệm vụ chủ yếu sau:
* Kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
* Phát triển lực lượng sản xuất gồm: người lao động tư liệu sản xuất và khoa học. Thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế để phát triển kĩ thuật công nghệ, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH. Hình thành cơ cấu kinh tế hợp lí hiệu quả.
* Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Với điều kiện nước ta suy cho cùng là tạo mọi điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế đều phát triển, từ đó phát huy tốt nhất vị trí vai trò của mỗi thành phần kinh tế đối với đất nước. Phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, đẩy mạnh cải cách môi trường thể chế nhằm thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
* Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại .Trong điều kiện quốc tế hoá nền kinh tế và phát triển của khoa học kĩ thuật, mở cửa thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát triển lợi thế kinh tế trong nước. Tăng cường tính độc lập tự chủ, phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi.
* Không ngừng nâng cao đời sống vật chất văn hoá tinh thần của nhân dân. Đây là nhiệm vụ phản ánh mục đích cuối cùng của sự phát triển kinh tế.
nội dung
I . lí luận triết học, khái niệm phủ định biện chứng
1. Khái niệm phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó đề cập tới hình thức tiến bộ hơn so với cái bị phủ định. Khi xem xét sự phát triển của một sự vật, vấn đề được đặt ra là: sự phát triển diễn ra theo chiều hướng nào?
Khi xem xét vấn đề theo quan điểm duy vật biên chứng, triết học Mác đã thấy rõ sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành thay đổi về chất; sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn đến giải quyết mâu thuẫn, sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời. Mỗi sự thay đổi đó làm thành mắt xích trong chuỗi phát triển của hiện thực và tư duy. Sự phủ định cái cũ tạo ra cái mới phát triển hơn, phù hợp hơn và tiên tiến hơn.Do vậy phủ định là một khâu tất yếu của bất kì sự phát triển nào nhằm tạo ra tiền đề , điều kiện và khả năng phát triển.
2. Những đặc trưng của phủ đinh biện chứng
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là:tính khách quan - điều kiện của sự phát triển về tính kế thừa - nhân tố liên hệ giữa cái mới và cái cũ.
Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu thuẫn của bản thân sự vật quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định của sự vật cũng không tuỳ thuộc vào ý muốn của con người, mỗi sự vật có phương thước phủ định riêng do đó mà có sự phát triển.
Phủ định biện chứng mang tính kế thừa vì phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu phá huỷ hoàn toàn cái bị phủ định, mà để dẫn tới sự ra đời cái mới thì quá trình đó phải bao hàm trong nó những nhân tố tích cực của cái bị phủ định. Với ý nghĩa như vậy phủ định đồng thời cũng là khẳng định. Giá trị kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra đời của cái mới. Một trong những hình thức quan trọng của cái được kế thừa trong đời sống xã hội là truyền thống, nó chứa đựng trong bản thân mình những năng lực tạo nên cái mới. Ngay cả với nhân tố tích cực của cái bị phủ định được giữ lại, nó vẫn được duy trì dưới dạng lọc bỏ.
Với những đặc điểm như vậy, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc phục cái cũ mà còn gắn liền với cái mới, cái khẳng định với cái quy định. Phủ định biện chứng trở thành khâu tất yếu của sự liên hệ và phát triển.
II. vận dụng lí luận về phủ định trong phân tích quá trình chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN
1. Đó là tính tất yếu khách quan và là điều kiện cho sự phát triển
1.1. Trong thời kì chiến tranh bảo vệ tổ quốc thì nền kinh tế bao cấp đã huy động được rất nhiều sức người, sức của và đã đóng góp rất lớn vào những chiến thắng của cách mạng đất nước. Nhưng trong điều kiện đất nước hoà bình thì nền kinh tế bao cấp không còn phù hợp, mặt khác còn là nhân tố hạn chế, kìm hãm, cản trở sự phát triển của đất nước.
Trong khi đó nền kinh tế thị trường là một kiểu hình xã hội trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá tiền tệ. Cơ chế thị trường là hình thái tự điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt uyển chuyển. Nó kích thích mạnh mẽ khả năng sáng tạo của con người, làm đổi mới kinh tế - công nghệ – quản lí và nhu cầu của người tiêu dùng.
Do vậy quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN là một sự cần thiết khách quan.
1.2. Một trong những đặc điểm quan trọng của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Cơ sở khách quan của sự tồn tại các thành phần kinh tế đó là:
Tư hữu lớn: nhà máy,hầm mỏ, đồn điền... của các chủ tư bản trong và ngoài nước. Đó là kinh tế tư bản.
Tư hữu nhỏ: những người nông dân cá thể, những người buôn bán nhỏ. Đó là sản xuất nhỏ cá thể.
Đối với tư hữu lớn- kinh tế tư bản tư nhân, chỉ có dùng phương pháp duy nhất là quốc hữu hoá. Nhưng theo chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: không nên quốc hữu hoá ngay một lúc mà phải tiến hàng từ từ theo giai đoan với hìng thức và phương pháp nào tuỳ điều kiện cụ thể. Cho nên những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa còn tồn tại như một tất yếu khách quan.
Đối với tư hữu nhỏ thì chỉ có thông qua con đường hợp tác hoá theo nguyên tắc mà V.I.Lênin vạch ra là: tự nguyện quản lí dân chủ cùng có lợi...đồng thời tuân theo các quy luật khách quan.
1.3. Sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia đặc điểm lịch sử, điều kiện khách quan, chủ quan nên tất yếu có sự không đồng đều về lực lượng sản xuầt giữa các ngành, các thành phần kinh tế. Điều đó đã quyết định quan hệ sản xuất, trước hết là hình thức quy mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau.
Chỉ có phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chúng ta mới có khả năng giải quyết được vấn đề việc làm. Nước ta có nguồn lao động dồi dào nhưng số người thất nghiệp còn nhiều tạo nên sức ép về kinh tế. Trong khi đó kinh tế quốc doanh hầu như không có khả năng thu hút lao động, đặc biệt là ngoại tệ mạnh. Khai thác và tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế là một trong những cách tốt nhất để tạo việc làm cho người lao động.
Mặt khác chỉ có thể phát triển nền sản xuất hàng hoá dựa trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế tạo ra sự liên kết và tính đan xen giữa chúng. Trên cơ sở đó xác lập một quan hệ sản xuất thích hợp. Đây là nhân tố góp phần quyết định xoá bỏ nền kinh tế tự cung tự cấp, mở đường cho phương thức sản xuất kinh doanh lấy năng xuất, chất lượng, hiệu quả làm mục tiêu.
Tóm lại : Qua những điều kiện trên, chuyển đổi nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Sự chuyển đổi này không phải nhu cầu xuất phát từ bên ngoài, không phải theo xu hướng chung, theo thị hiếu khu vực và thế giới hoặc là sự học đòi nước ngoài mà tất cả đều được xuất phát từ chính nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước, từ những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Trong nền kinh tế của nước ta lực lượng sản xuất còn lạc hậu, muốn cải tạo và nâng cao trình độ lực lượng sản xuất phải có quan hệ sản xuất phù hợp. Vì vậy, quá trình đó mang tính tất yếu khánh quan cần phải hướng tới của nước ta và chính nền kinh tế đã tự phủ định nó khi đất nước đang trải qua một thời kỳ mới. Thời kỳ đó không phù hợp với chế độ tập trung quan liêu bao cấp và hiện nay thì mục đích và hành động của con người không còn giống như trước.
2. Quá trình phủ định biện chứng là quá trình tạo nên sự phát triển.
2.1.Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy cần phải đổi mới toàn diện cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta đã được Đảng và Nhà nước khẳng định: "tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước " (Văn kiện đại hội Đảng VII. NXB sự thật, tr23).
Sự chuyển đổi đó được xem như là một quá trình phủ định biện chứng, nó tạo ra những tiền đề điều kiện đẩy nhanh phát triển kinh tế. Từ thực tiễn hơn 10 năm đổi mới Đại hội Đảng VII đã khẳng định rằng cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN.
Tuy nhiên từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường không phải là một quá trình phủ định hoàn toàn, những nhân tố của kinh tế bao cấp cần thiết cho kinh tế thị trường được kế thừa và phát huy với điều kiện mới. Nhiều công trình lớn đã tồn tại của nền kinh tế bao cấp nay được phát huy và rút kinh nghiệm để phát triển và ra những bước đi, giải pháp thích hợp nhằm triển khai có hiệu quả hơn. Đặc biệt nhân tố kế hoạch hoá và định hướng XHCN được nhà nước rất chú trọng kế thừa.
Kế hoạch hoá là quá trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật khách quan, trước hết là quy luật kinh tế trong đó có các quy luật của thị trường để xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Từ một nền kinh tế hầu như không tăng trưởng trước nhứng năm 1986, đã đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế và ổn định, đặc biệt trong 5 năm(1991-1995) lần đầu tiên hoàn thành vượt kế hoạch 5 năm. Tính chung 5 năm. GDP tăng trưởng hàng năm 3,9%. Nhịp độ tăng trưởng GDP: 1991: 6% 1992: 8,1% 1993: 8,6% 1994: 8,8% 1995: 8,5% cũng trong 5 năm (1991-1995) nông nghiệp tăng 4,5%, công nghiệp tăng 13,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20%. Từ 1991, sản xuất không chỉ đáp ứng được tiêu dùng mà còn dành một phần để tích luỹ:
1991: 10,1% 1992: 13,8% 1993: 14,9% 1994: 17%
Trước năm 1986, thu nhập quốc dân sản xuất tới đáp ứng 80% thu nhập quốc dân sử dụng, không có tích luỹ, phần thâm hụt 20%.
Kìm chế và đẩy lùi được nạn siêu lạm phát. Trong năm 1986-1988 lạm phát tăng với ba con số giảm xuống còn hai con số trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao:
Chỉ tiêu/năm 1986 1987 1988 1993 1994 1995
Tăng trưởng 4 3,9 5,1 8,1 8,8 9,5
Lạm phát 774,7 223,1 393,8 5,2 14,4 12,7
Hiện nay đồng tiền Việt Nam tăng giá và ổn định. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng cơ bản trong GDP tăng 22,6% (1990) lên 30,3% (1995), tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 42,5%, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 40,6% (1990) xuống còn 36,2% (1994).
Nhìn chung bộ mặt của đất nước thay đổi hẳn, đúng như nhận xét của H Hotơn (Giáo sư viện phát triển quốc tế học Havớt) "Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc, .. đã thực hiện những bước chuyển chứng từ lớn nhanh hơn cả Trung Quốc, có hiệu quả hơn cả Nga và Đông Âu cùng thời điểm" (Cải cách kinh tế ở Việt Nam , tr33).
2.2. Giải pháp đảm bảo phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên XHCN mà thực chất là thời kỳ nhà nước và nhân dân tự đảm đương nhiệm vụ lịch sử phát triển lực lượng sản xuất, tự tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất và những quan hệ xã hội làm cơ sở hiện thực cho XHCN. Như xu hướng khách quan chưa để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN mà còn có đòi hỏi các nhân tố chủ quan, đó là:
Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam , Đảng xác định mục tiêu chính trị cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cương lĩnh đường lối chiến lược phát triển , bằng những chính sách trong đối nội và đối ngoại. Xây dựng nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh quản lý kinh tế có hiệu quả.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần khơi dậy tiềm năng sáng tạo của cả cộng đồng dân tộc. Đặc biệt đối với nước ta có nhiều ngành nghề cổ truyền bị cơ chế cũ làm mai một nay lại có điều kiện phát huy.
Những giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN :
Một là: Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế trong giai đoạn hiện nay mà Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra là: Thành phần kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá thể tiểu chủ và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Hai là: Mở rộng phân công lao động, phát triển nền kinh tế vùng, lãnh thổ, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường.
Ba là: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Bốn là: Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, triệt để xoá bỏ cơ chế hành chính bao cấp, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả.
Năm là: Xây dựng và kiện toàn hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Sáu là: Thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại có lợi cho phát triển hàng hoá, phát huy nội lực, giữ vững độc lập dân tộc chủ quyền quốc gia.
Kết luận
Qua những nghiên cứu và phân tích đó, ta thấy rằng: Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương và quyết định chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường có định hướng XHCN là một quyết định hết sức đúng đắn. Cơ chế quản lý kinh tế mới đã khơi dậy tiềm năng sản xuất, năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh. Đồng thời tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước không chỉ đủ ăn mà còn là nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới. Nhịp độ tăng bình quân tổng sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu của lực lượng sản xuất trong nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định. Hiện nay để vượt qua khó khăn, nhằm thực hiện tốt những mục tiêu do Đảng và Nhà nước đề ra, chúng ta phải kiên quyết đổi mới theo định hướng XHCN. Tiếp tục đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn, tận dụng thời cơ thuận lợi và kiên trì nhất quán chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần để giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, tạo những tiền đề vật chất và động lực tinh thần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nước ta là một quá trình phủ định biện chứng, xoá bỏ cái cũ để tạo ra cái mới phát triển hơn, tiến bộ hơn, đồng thời cũng kế thừa một cách chọn lọc những nhân tố cơ bản, tốt đẹp, những kinh nghiệm và những thành tựu quý báu của xã hội cũ. Đó là một quá trình phủ định để tạo ra sự phát triển. Tránh những quan điểm sai lầm cực đoan: không kiên quyết từ bỏ cái cũ lỗi thời, hay phủ nhận hoàn toàn mọi thành tựu đã đạt được của cơ chế quản lí cũ. Cần phải hiểu được như vậy thì đổi mới sẽ cho đất nước Việt Nam ngày càng lớn mạnh, phát triển trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, sánh vai cùng các cường quốc hàng đầu thế giới.
danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Triết học Mác-Lênin
NXB chính trị quốc gia.
Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác-Lênin
NXB Giáo dục.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII.
Tạp chí Cộng Sản.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
Tạp chí Triết học.
Một số tạp chí khác.
mục lục
Trang
lời tựa
phần mở đầu
1
2
I/Tình hình kinh tế
2
II/ Xây dựng phương hướng và phương pháp giải quyết
3
nội dung
5
I/ Lý luận triết học khái niệm phủ định biện chứng
5
1. Khái niệm phủ định biện chứng
5
2. Những đặc trưng của phủ định biện chứng
5
II/ Vận dụng khái niệm phủ định biện chứng để phân tích quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam
6
1. Đó là tính tất yếu khách quan và điều kiện cho sự phát triển
6
2. Quá trình phủ định biện chứng tạo nên sự phát triển
8
kết luận
12
danh mục tài liệu tham khảo
13
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35267.doc