Ngay từ Đại hội VI, khi phát động công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định trước hết phải đổi mới tư duy. Một trong những vướng mắc, hạn chế của công cuộc đổi mới 15 năm qua cũng là từ tư duy và quan điểm lý luận. Báo cáo chính trị tại Đại hội IX đã chỉ rõ: “Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được sự thông suốt ở các cấp, các ngành. Trong cán bộ, đảng viên có những cách hiểu và cách làm không thống nhất về những vấn đề như: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, chính sách về đất đai, kinh tế trang trại.Lưu ý hơn nữa là sự không hiểu biết một cách toàn vẹn và đầy đủ về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị,tư tưỏng trong xã hội”. Nhận thức là một quá trình, muốn nắm được bản chất của sự vật đòi hỏi phải nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn, tranh luận để dần tới lẽ phải.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1648 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng lý luận của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ậy rõ ràng đây cũng là một kiểu cho thuê nhưng đối tượng thuê theo Lênin nói là những tiểu tư bản.
e) Công ty hợp doanh.
Trong báo cáo tại đại hội IV quốc tế cộng sản Lênin đã nói về những thành tựu đã đạt được đó là thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Khi nói về lĩnh vực thương nghiệp chính quyền Xô viết đã tiến hành lập ra những công ty hợp doanh thành lập theo thể thức tiền vốn một phần của tư bản, tư nhân ngoài ra có thể có vốn đầu tư của tư bản nước ngoài và trong đó là một phần vốn của chính quyền Xô viết. Đó là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước mà ta có thể rút ra từ thực tiễn thực hành chế độ này.
Trước hết và chủ yếu là tình hình giai cấp nông dân từ chỗ đói kém một bộ phận lớn trong nông dân bất bình. Nông dân đã thoát khỏi nạn đói và đã nộp thuế lương thực. Từ những cuộc bạo động mang tính phổ biến năm 1921 nhân dân đã hài lòng với tình hình của họ. Công nghiệp nhẹ đang phát triển đời sống của công nhân được cải thiện, tình hình bất mãn của công nhân không còn nữa. Tuy công nghiệp nặng vẫn còn khó khăn nhưng đã có sự thay đổi nhất định. Lý do đó không phải là những khoản vay nợ lớn hàng trăm triệu USD. Chính sách Tô nhượng vẫn chưa có sinh lời trong công nghiệp nặng và không có hy vọng vay được ở các nước giàu vì các nước đế quốc này muốn bóp chết Nhà nước chủ nghĩa xã hội non trẻ. Chính nhờ vào chính sách kinh tế mới mà đã thu được một lượng vốn lớn. Điều quan trọng nữa là tiết kiệm từ mọi mặt kể cả những chi phí trong việc xây dựng trường học, cơ sở y tế..., để tập trung khôi phục công nghiệp nặng. Riêng về chính sách chủ nghĩa tư bản nhà nước, qua các tài liệu và sự đánh giá cho đến năm 1924 nhìn chung đã mang lại cho Nhà nước Xô viết những tác dụng tích cực khôi phục nền kinh tế bị suy sụp sau chiến tranh. Nhờ Tô nhượng với nước ngoài nhiều nghành công nghiệp quan trọng đã phát triển, nhiều kinh nghiệm tiên tiến với thiết bị kỹ thuật hiện đại của nền sản xuất lớn được đưa vào áp dụng cho quá trình sản xuất và đã mang lại hiệu quả cao cho toàn bộ nền sản xuất hay nói một cách khác là đem lại sự tăng trưởng trong nền kinh tế quốc dân. Cùng các Tô nhượng cũng như các công ty hợp doanh đã góp phần phát triển sản xuất, hàng hoá tăng thêm, tăng dự trữ ngoại tệ cho đất nước, mở rộng các quan hệ liên doanh liên kết trong các lĩnh vực đầu tư sản xuất, chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát triển ngoại thương với các nước tư bản phương tây. Thông qua các hoạt động của các công ty hợp doanh, những người cộng sản Nga có thể thưc sự học cách buôn bán. Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn hợp góp phần giúp Nhà nước
Xô viết duy trì sự hoạt động sản xuất bình thường tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động.
Những kết quả ấy có ý nghĩa tích cực với nước Nga Xô viết, nó góp phần không nhỏ đối với nền kinh tế nước Nga sau chiến tranh. Nhờ chính sách kinh tế mới mà chính quyền Xô viết đã giữ được chính quyền vững chắc trong nông nghiệp, công nghiệp cũng như thương nghiệp đang hồi sinh và phát triển, đó là những thắng lợi của chính quyền Xô viết.
II. VAI TRò CủA CHủ NGHĩA TƯ BảN NHà NƯớc trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Vào những năm 1918 - 1920, Nhà nước Xô viết buộc phải thực hiện chính sách “Cộng sản thời chiến”. Theo Lênin đó là chính sách duy nhất có thể thực hiện được trong hoàn cảnh chiến tranh và kinh tế đổ nát. Tuy nhiên theo Lênin đó là chính sách tạm thời không thể là một chính sách phù hợp với nhiệm vụ kinh tế của giai cấp vô sản, vì vậy mùa xuân năm 1921 Lênin đề ra chính sách kinh tế mới và chính sách kinh tế mới này cho phép phát triển và hướng kinh tế tư bản vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước là rất lớn nó là chiếc cầu nối vững chắc cho một nước có nền kinh tế lạc hậu xuyên qua chủ nghĩa tư bản tiến nên con đường xã hội chủ nghĩa. Đồng thời nó là nhân tố để phát triển lực lượng sản xuất làm cho nền kinh tế cũ thích ứng với nền kinh tế mới, làm phương tiện nền móng vững chắc để bước nên xã hội chủ nghĩa.
1. Thực chất của chủ nghĩa tư bản Nhà nước là gì?
Cho đến nay người ta thường hiểu được chủ nghĩa tư bản nhà nước chỉ là một hình thức kinh tế, một thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức này đã đưa đến một kết luận là không gọi chủ nghĩa tư bản nhà nước mà chỉ gọi là hình thức kinh tế tư bản nhà nước, thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Nhận thức này không sai những chưa đủ trong thực tiễn nước Nga lúc đó qua sự phân tích của Lênin chúng ta có thể có một nhận thức không hoàn toàn như thế. Qua thực tế nước Nga Xô viết không có ý định duy trì quan hệ kinh tế với tư bản tư nhân cũng như tư bản nước ngoài, ý định tìm cách thích ứng với những quan hệ xã hội tồn tại ấy, mặc dù đó là một khả năng khách quan. Chỉ sau khi sức mạnh của chính quyền công nông đè bẹp sự phản kháng chống đối của giai cấp tư sản bên trong được tư bản quốc tế ủng hộ với việc “nắm bắt tất cả các đòn bẩy chỉ huy”, “nắm ruộng đất”, “ruộng đất thuộc về Nhà nước” chỉ khi ấy mới tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước mới là hiện thực.
ở nước ta chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thành phần, là một mô hình kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Song chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ có ý nghĩa quan trọng ấy mà còn có ý nghĩa rộng hơn, như theo Lênin đã nói hình thức kinh tế ấy gắn liền với “Nguồn gốc chính sách kinh tế mới”.
Có cách hiểu chủ nghĩa tư bản nhà nước với tính cách là phương pháp cải tạo hoà bình giai cấp tư sản. Cách hiểu này là phổ biến đối với các nước dân chủ nhân dân trước đây. Cách hiểu không sai nhưng chưa làm rõ hết nội dung của chủ nghĩa tư bản nhà nước.Vì vậy có thể dẫn đến sự xoá bỏ nhanh chống chủ nghĩa tư bản Nhà nước khiến cho bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội rơi vào tình trạng bế tắc.Chính vì chủ nghĩa tư bản nhà nước chủ yếu như là phương pháp cải tạo hoà bình cho nên khi quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa kết thúc thì chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng kết thúc. Trong nhận thức đúng về chủ nghĩa tư bản nhà nước chỉ có thể rút ra từ sự tồn tại của nó trong một thời gian dài. Sai lầm căn bản của quan niệm cũng là nguồn gốc quan niệm không đúng về chủ nghĩa xã hội.
Quá trình thực thi chủ nghĩa tư bản nhà nước là quá trình xã hội sản xuất, trong thực tế “Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là cái gì có tính chất tập trung, được tính toán kiểm soát và đựơc xã hội hoá...”. Như Lênin nói phương pháp cải tạo hoà bình mới chỉ là một phần tổng toàn bộ chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Theo cách hiểu này trước đây còn có cách giải thích là mang một nội dung lợi dụng chủ nghĩa tư bản về vốn, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, mối quan hệ kinh tế với bên ngoài. Đúng là chính sách chủ nghĩa tư bản nhà nước là lợi dụng nhưng không phải cái đó mà là lợi dụng quan hệ xã hội tư bản chủ nghĩa. Lênin viết “Chủ nghĩa tư bản Nhà nước không chỉ là vấn đề tiền mà là quan hệ xã hội”.
** Để làm rõ vấn đề này cần phải nêu nên một số quan điểm rất cơ bản của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước mà nhiều người chưa quan tâm đầy đủ:
Xã hội cộng sản chỉ có thể xuất hiện một cách tự nhiên khi những tiền đề vật chất và tiền đề xã hội chưa được chuẩn bị một cách đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội mà giữa nó với chủ nghĩa xã hội không có một chiếc cầu nối trung gian. Theo Lênin thì chủ nghĩa tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp tích cực của nhà nước vào hoạt động của các xí nghiệp tư bản. Nếu Nhà nước tư sản thì chủ nghĩa tư bản Nhà nước phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Nếu Nhà nước vô sản thì chủ nghĩa tư bản Nhà nước phục vụ cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì thế chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản- nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước, làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội “Làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất”. Cũng từ luận điểm của Lênin và luận điểm ấy giúp ta nắm được chiều sâu lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước, không chỉ dừng lại ở phạm vi một chính sách cụ thể như những chính sách cụ thể khác.
Từ luận điểm đó, ta nhận thấy rằng nói đến chính sách kinh tế mới là nói tới một hệ thống quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, về cương lĩnh xây dựng chủ nghiã xã hội chứ không phải chỉ là một kế hoạch cụ thể.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước, mô hình kinh tế, cương lĩnh quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với quan điểm ấy mục tiêu đặt ra cho thời kỳ quá độ là công cuộc xây dựng kinh tế là “Việc đặt nền móng kinh tế cho toà nhà mới, toà nhà xã hội chủ nghĩa để thay thế cho toà nhà cũ toà nhà tư bản chủ nghĩa và cái toà nhà tư bản chủ nghĩa ấy đã bị phá hủy một nửa”. Nếu không muốn thất bại vì sai lầm thì không thể tổ chức kiểu cộng sản chủ nghĩa. Việc Nhà nước có tổ chức sản xuất và phân phối phải thông qua việc trao đổi hàng hoá sản xuất hàng hoá và ngày nay được gọi là kinh tế thị trường. Từ đó có thể hiểu rõ thêm luận điểm “Bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản”, “Tiến thẳng nên chủ nghĩa xã hội” của các nước kinh tế chậm phát triển trong điều kiện lịch sử nhất định.
Cho nên để quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tiểu nông thì phải tiến tới xã hội hoá trong thực tế bằng sự phát triển cực thịnh của nền kinh tế thị trường. Nhưng vì thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chính quyền dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân phải đồng thời thực hiện ba sự chuyển hoá: Từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá, từ nền kinh tế hàng hoá sang nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, từ những nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và tiểu tư bản thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy từ trong chính sách tự do trao đổi mà có sự liên hợp mọi nền sản xuất nhỏ lại, có sự hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản nhiều hơn trước, có sự xuất hiện nhũng cơ sở kinh doanh tư bản chủ nghĩa mới nảy sinh trong lòng chuyên chính vô sản. Các thành phần này cùng tồn tại và phát triển là một sự tất yếu khách quan trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ. Theo Lênin nền kinh tế nhiều thành phần thì về kết cấu và nội dung là đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ không chỉ với một nước tiểu nông mà nói chung đối với mọi nước khi chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở vào trình độ sản xuất xã hội hoá cao độ. Trong nền kinh tế nhiều thành phần tuỳ theo điều kiện xuất phát của từng nước mà tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế không giống nhau. Nhưng về thực chất thì chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu tư nhân tiểu tư bản, tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu xã hội chủ nghĩa.
Từ lý luận về chủ nghĩa tư bản Nhà nước của Lênin sẽ xuất hiện một chế độ sở hữu mang tính chất phổ biến ở thời kỳ quá độ là: Chế độ sở hữu hôn hợp với rất nhiều hình thức trong đó Nhà nước phải trực tiếp khống chế những cơ sở kinh tế nào đó của mọi loại hình sở hữu.
Mô hình kinh tế quá độ theo tinh thần chính sách kinh tế mới hoặc theo chủ nghĩa tư bản Nhà nước chứa đựng những quan điểm về mục tiêu, con đường, phương pháp, phương thức để đạt tới mục tiêu kinh tế của thời kỳ quá độ lâu dài, hoà bình, hợp tác và đấu tranh về những chiếc cầu vững chắc, về mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội về sự ứng biến một cách mềm dẻo không nên quá vội vàng, quá nóng vội và thẳng tuột như trước kia.
2. Điều kiện cần có để có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Một là: Không nên e ngại mà tạo điều kiện cần thiết, như về khôn khổ khung pháp luật và các quy định về tín dụng, về kết cấu hạ tầng cơ sở, để mà thúc đẩy thành phần kinh tế tư nhân phát triển và hơn nữa cần chủ động tạo điều kiện môi trường hoạt động sản xuất, kinh doanh lành mạnh, mặt khác phải bằng mọi cách, mọi hình thức nhằm thu hút vốn đầu tư của các nhà tư bản nước ngoài.
Hai là: Để sự phát triển đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản không làm thay đổi bản chất chế độ xã hội, không đi ra ngoài quỹ đạo của sự định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cần được củng cố vững chắc, làm sao mà thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước cần nắm vững mọi đỉnh cao của nền kinh tế. Kinh tế quốc doanh cần được cải thiện để thực sự nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nắm chắc các công cụ quản lý vĩ mô-Đặc biệt là các chính sách kinh tế, các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ mà hiện nay cần được khẩn trương cải cách để điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là: Hướng sự phát triển của kinh tế tư bản theo con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới các hình thức thích hợp, thông qua kiểm kê, kiểm soát và điều tiết của Nhà nước bằng các công cụ quản lý vĩ mô và bằng lực lượng kinh tế trong tay Nhà nước-“Kinh tế quốc doanh “.
3. Kết quả thực hiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở thời Lênin.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước do Nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết đã mang lại một kết quả vô cùng to lớn đối với một nước bị chiến tranh tàn phá, hậu quả của chính sách cống sản thời chiến, rồi những tư tưởng giáo điều về chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế đã từng bước được khôi phục và đang bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội-“Xây dựng nền móng vững chắc cho chủ nghĩa xã hội”
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhà nước đẩy nhanh sự phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ vào việc tăng nhanh lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mà ổn định xã hội, thoát ra khỏi khủng hoảng, thoát ra khỏi tình cảnh giảm xút tín nghiệm của nông dân đối với chính quyền Xô viết, khắc phục tình trạng trộm cắp của công, nạn đầu cơ nhỏ nan tràn. Nói về tầm quan trọng của vấn đè này Lênin chỉ ra rằng chính quyền vô sảncó giúp đỡ cho sự phát triển đó được không hay là nhóm người của chủ nghĩa tư bản chinh phục được tầng lớp tiểu nông, đó là điều sẽ quyết định kết cục của sự đâú tranh giữa hai hình thái kinh tế xã hội, hai chế độ xã hội đối lập nhau: chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Bằng sự du nhập chủ nghĩa tư bản bên ngoài mà tăng nhanh lực lướng sản xuất, tăng lên ngay hoặc trong một thời gian ngắn, ở trong nước có những xí nghiệp , hầm mỏ, khu rừng nhưng thiếu máy móc , lương thực , phương tiện vận tải do vậy mà thể khai thác được và vì thế từ đây thành phần tiểu tư hữu tăng nên về mọi mặt. Kinh tế nông dân ở vùng đó bị suy yếu, các lựclượng sản xuất trong nông nghiệp bị lung lay. “Du nhập” được chủ nghĩa tư bản và hướng nó vào con đường của nghĩa tư bản Nhà nước thì sẽ cải thiện được nhanh tình trạng sản xuất, từ đây đời sốngcủa công nhân và nông dân cải thiện một cách đáng kể. Từ đó ta thấy rõ rằng chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ để liên kết mọi nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống lại tính tự phát tiểu tư bản và tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, nhờ có chủ nghĩa tư bản Nhà nước mà có thể chiến thắng được tình trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, hiện tượng lỏng lẻo, những tập quán, những thói quen, địa vị kinh tế của giai cấp ấy là quan trọng nhất. Bởi vì sự vô chính phủ là mối nguy hại lớn nhất, đáng sợ nhất nên ta khắc phục được tình trạng này thì tất cả các con chủ bài đều nằm trong tay công nhân và nó sẽ bảo đảm cho xã hội chủ nghĩa được củng cố.
Chính vì với ý nghĩa thực tiễn củ nghĩa tư bản Nhà nước như vậy mà Lênin nói “Đó là điều có lợi cần thiết”, “Đáng mong đợi” trong điều kiện chuyên chính vô sản.
Vận dụng lý luận của v.i. lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước ở việt nam.
i. sự cần thiết và khả năng vận dụng kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta.
Khác với những cuộc cách mạng trước đây trong lịch sử, cách mạng xã hội chủ nghĩa giành được chính quyền mới chỉ là bước đầu. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cần sử dụng chính quyền để tiến hành cải tạo toàn bộ hình thái kinh tế xã hội cũ, xây dựng hình thái kinh tế xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Chính phủ các nước căn cứ vào nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng vào những điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội và chính trị của mình để có những hình thức và phương pháp thích hợp. Lênin nói: “Không phải các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội một cách hoàn toàn giống nhau, mà mỗi dân tộc đều có đặc điểm của riêng mình, dựa vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại hình thức này hay loại hình thức khác của chuyên chính vố sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, các mặt đời sống xã hội”.
Lênin đã nói rất nhiều về những việc làm của mình chỉ là những “Kinh nghiệm của nước Nga”, cho nên những người nước ngoài “Không thể nào bằng lòng với việc treo nó vào một góc nhà , như một bức tường thành để cầu nguyện”. Chúng ta nghiên cứu di sản của Người theo tinh thần đó và chỉ coi đó là điểm xuất phát để nghiên cứu. Với tinh thần nghiên cứu như thế chúng ta rút ra được nhiều điều cơ bản nhất thuộc về bản chất của chủ nghĩa tư bản Nhà nước, nhưng từ những nhận xét rút ra đối chiếu diễn biến của thế giới nói chung và tình hình nước ta nói riêng càng thấy rõ giá trị của thời đại và thực tiễn của lý luận về chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
1.Tính cấp thiết của chủ nghĩa tư bản Nhà nươc ở nước ta.
Luận điểm quan trọng nhất làm cơ sở cho nghiên cứu là việc chuyển sang chủ nghĩa xã hội thì cần phải có một loạt các bước quá độ. Kết luận này được rút ra từ nước Nga lạc hậu mà Lênin gọi là nước tiểu nông hồi ấy vì thế lời khuyên của Lênin đối với các nước xuất phát từ quan niệm này cần thấy rõ những nét đặc thù của hoàn cảnh nước mình từ đó rút ra kết luận phải có một sách lược riêng phù hợp với điều kiện khác nhau của nước mình. Nội dung sách lược ấy phải tỏ ra mềm dẻo,thận trọng nhượng bộ hơn đối với giai cấp tiểu tư sản, đối với trí thức và đặc biệt hơn là đối với giai cấp nông dân. ở đây, trước tiên ta phải biết lợi dụng các nước tư bản phương tây vế mọi mặt của lĩnh vực kinh tế, bằng cách này hay cách khác phải lợi dụng họ hơn nữa và thật nhanh chóng bằng cách thực hiện chính sách Tô nhượng và trao đổi hàng hoá với họ, phải làm việc một cách rộng rãi, kiên quyết, khéo léo và thận trọng ở đây có thể cần thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội chậm hơn, thận trọng hơn, có hệ thống hơn.
Từ những chính sách đó đối với đất nước là một trong những nước tiểu nông. Việc những nước này, họ bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến tới chủ nghĩa xã hội là hết sức khó khăn và gian khổ. Vì trong bối cảnh chính quyền nước ta còn yếu, sống trong vòng vây của kẻ thù - chủ nghĩa tư bản thế giới với sự chống đối điên cuồng của các thế lực thù địch mà tư bản quốc tế đang là một lực lượng mạnh lắm trong tay toàn bộ kỹ thuật, công nghệ, phương tiện vận tải...tiên tiến và hiện đại hàng đầu. Từ đó, ta thấy một điều rõ ràng là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ khá lâu dài, nhất là đối với nước ta một nước có nền kinh tế yếu kém với 70% dân số hoạt động trong nông nghiệp, vì vậy ta xây dựng và ứng dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở thời kỳ quá độ là điều lên có.
Luận điểm thứ nhất chúng ta lùi về chủ nghĩa tư bản Nhà nước là vì chúng ta không thể trực tiếp chuyển lên chủ nghĩa cộng sản được, không thể tấn công trược diện được vì làm như vậy sẽ gây bất bình trong nhân dân. Lênin, và chính sách kinh tế mới của Người với một nội dung đầy đủ và toàn vẹn về một chính sách kinh tế của thời kỳ quá độ mà bất kỳ một nước nào tiến lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ đều cần. Sách lược này đã được áp dụng vào nước Nga Xô viết lúc bấy giờ, và sách lược ấy trong một thời gian ngắn đã đem lại thành công rực rỡ cho đât nước này, đất nước đi tiên phong. Giờ đây sách lược ấy mới được những người cộng sản Việt Nam áp dụng.
Luận điểm thứ hai do chúng ta quan niệm về xã hội chủ nghĩa phần nào cho nó là đơn giản, đặc biệt là trình độ công nghệ, kỹ thuật hồi đó ở nước ta còn thấp kém, do vậy mà chúng ta không thể nào xây dựng cho chủ nghĩa xã hội một nền móng kinh tế kỹ thuật vững chắc được. Lênin cho rằng không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại thì không thể nói ta có thể xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa một cách toàn vẹn và vững mạnh được. Từ luận điểm đó mà thời kỳ quá độ vẫn còn dài do vậy mà chủ nghĩa tư bản Nhà nước lại càng cần thiết hơn nhất là đối với nước ta.
Nhưng từ sự phân tích trên cho chúng ta thấy rằng không thể phủ nhận con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội không thể nào khác ngoài con đường phát triển kinh tế hàng hoá, du nạp, du nhập tư bản chủ nghĩa và hướng nố vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước còn việc thực hiện nó như thế nào thì để thực tiễn chứng tỏ.
Khả năng sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước ta khi đề xuất và thực hành chính sách của chủ nghĩa Nhà nước Lênin đã chỉ rõ chủ nghĩa tư bản Nhà nước là “Phục tùng sự điều tiết của Nhà nước” như các vấn đề: Giám sát, kiểm tra, quy định các hình thức, trật tự...Việc thành công hay thất bại của việc thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước chính là sự điều tiết của Nhà nước.
Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là một chính sách mềm dẻo ra đời trong điều kiện “Cần có sự mềm dẻo tối đa “ và bộ máy Nhà nước vững mạnh. Bộ máy vững mạnh là bộ máy có khả năng thích ứng với mọi sự biến đổi, biết nghiên cứu một cách chính xác phạm vi của hiện tượng và tìm ra biện pháp thích hợp để điều tiết. Vởy sức mạnh của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với việc thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản Nhà nước là sức mạnh của Nhà nước pháp quyền và hợp pháp. Đó là một Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau phát triển và hoạt động có định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của Nhà nước còn được biểu hiện tên khía cạnh: Dùng bàn tay của người khac cùng với mình xây dựng chủ nghĩa cộnh sản.
Ngay từ Đại hội VI, khi phát động công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định trước hết phải đổi mới tư duy. Một trong những vướng mắc, hạn chế của công cuộc đổi mới 15 năm qua cũng là từ tư duy và quan điểm lý luận. Báo cáo chính trị tại Đại hội IX đã chỉ rõ: “Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được sự thông suốt ở các cấp, các ngành. Trong cán bộ, đảng viên có những cách hiểu và cách làm không thống nhất về những vấn đề như: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, chính sách về đất đai, kinh tế trang trại...Lưu ý hơn nữa là sự không hiểu biết một cách toàn vẹn và đầy đủ về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị,tư tưỏng trong xã hội”. Nhận thức là một quá trình, muốn nắm được bản chất của sự vật đòi hỏi phải nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn, tranh luận để dần tới lẽ phải.
Thông qua luận điểm trên ta kết luận khả năng sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước ta là hoàn toàn hợp lý và sẽ thành công rực rỡ, bởi vì nước ta có nền chính trị ổn định, có bộ máy hành chính tổ chức hoạt động khá hệ thống, có hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, tuy còn nhiều cái chưa được chặt trẽ là do chúng ta thiếu thực tế trong điều kiện ấy chúng ta hoàn chỉnh một loạt luật đầu tư, luật liên doanh liên kết...Xây dựng về kêt cấu kinh tế hạ tầng, thông tin dịch vụ, đã tạo ra sức hút khá lớn với những nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
Bên cạnh đó chúng ta còn tạo ra thị trường có tính cạnh tranh lành mạnh tạo động lực cho các nhà đầu tư, cải tiến kỹ thuật, nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm. Đồng thời Nhà nước có nhiều cách đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra động lực thúc đẩy nhân dân bỏ vốn đầu tư sản xuất hăng hái tích cực làm giàu ích nước lợi nhà. Sự phát triển ấy tạo ra sức hút về tiền vốn và kỹ thuật từ bên ngoài.
Ngoài ra nước ta là nước nằm trong khu vực phát triển năng động nhất của thế giới với một lực lượng lao động khá dồi dào, giá nhân công rẻ. Nhà nước có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư từ trong nước và ngoài nước. Nhà nước xây dựng một loạt các đặc khu kinh tế mới bằng hình thức những khu chế xuất, khu công nghệ cao, đây là thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
II. những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản nhà nước đang được vận dụng ở nước ta.
Trên cở sở chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã được xác định về nội dung. Cần tìm ra những hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước có thể lựa chọn để vận dụng vào nước ta. Việc lựa chọn cần quán triệt các quan điểm nh sau:
Thứ nhất: Phải thông qua thực trạng vận dụng các hình thức trong thời gian qua, thứ nhất là thời kỳ đổi mới nền kinh tế ở nước ta gắn liền với điều kiện mới của thời đại để tìm ra các hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước có thể vận dụng thích hợp với điều kiện ở nước ta.
Thứ hai: Việc vận dụng phát triển và mở rộng các hình thức chủ nghĩa t bản Nhà nước phải đảm bảo nền kinh tế tăng trởng bền vững, phải gắn tăng trởng với giữ gìn độc lập chủ quyền và bản sắc dân tộc, gắn liền phát triển với phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trờng sinh thái. Đả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35257.doc