Mục lục
Lời giới thiệu 1
Phần I : Mở đầu 2
Khái niệm về hình thái kinh tế-xã hội 2
Phần II : Nội dung 3
I. Học thuyết về hình thái kinh tế-xã hội. Nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử 3
1. Những cơ sở xuất phát để phân tích đời sống xã hội 3
2. Hình thái kinh tế-xã hội 5
2.1. Khái quát 5
2.2. Kết cấu và chức năng của các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế-xã hội 5
3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội 10
II. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Con đường phát triển tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Việt Nam hiện nay 12
1. Hình thái kinh tế-xã hội của C.Mac trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Viêt Nam hiện nay 12
2. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ 13
2.1. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội 13
2.2. Nhận thức về thời kỳ quá độ 15
2.3. Nước Viêt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội 16
3. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Việt Nam 17
3.1. Mục tiêu 17
3.2.Phương hướng 18
III. Vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam 19
1. Thành tựu trong việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội vào công cuộc đổi mới ở nước Việt Nam 20
2. Một số tồn tại chủ yếu và những vấn đề đặt ra khi bước vào giai đoạn phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá 23
3. Một số giải pháp cơ bản vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội để đẩy nhanh công cuộc đổi mới đất nước theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá 24
Phần III : Kết luận 27
Tài liệu tham khảo 29
31 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1261 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một xã hội cụ thể bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước là mầm mống của xã hội sau. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tính giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn ngay từ trong cơ sở hạ tầng.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, cơ sở hạ tầng tồn tại những quan hệ đối kháng thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính đối kháng và phản ánh tính đối kháng của cơ sở hạ tầng, biểu hiện sự xung đột, quan hệ tư tưởng và ở đấu tranh tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng xã hội có quyền lực mạnh nhất là nhà nước, công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới có khả năng thống trị được toàn bộ đời sống của xã hội. Giai cấp thống trị nào thống trị về mặt kinh tế và nắm giữ chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng cùng những thể chế của giai cấp đó cũng giữ địa vị thống trị. Nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng của toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và quyết định cả tính chất đặc trưng cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng xã hội.
Phạm trù hình thái kinh tế-xã hội là mô hình lý luận về xã hội và như mọi mô hình khác, nó bao quát tất cả tính đa dạng của các hiện tượng xã hội. Vì vậy, hiện thực xã hội và sơ đồ lý thyết về xã hội không đồng nhất với nhau. Trong thực tế, các sự kiện lịch sử mang tính chất không lặp lại, hết sức phong phú, các yếu tố tinh thần và vật chất, kinh tế và chính trị thường xuyên tác động qua lại, xâm phạm và chuyển hoá lẫn nhau. Hình thái kinh tế-xã hội chỉ phản ánh mặt bản chất, những mối liên hệ bên trong, tất yếu, lặp lại của các hiện tượng đó. Từ tính đa dạng cụ thể, lịch sử bỏ qua những chi tiết cá biệt, dựng lại cấu trúc ổn định và lôgic, phát triển của quá trình lịch sử. Trong bất kỳ giới tự nhiên hay trong xã hội nào đều không có và không thể có hiện tượng “thuần tuý”. Đó chính là điều mà phép biện chứng của C.Mac nêu lên. Hình thái kinh tế-xã hội đem lại những nguyên tắc, phương pháp luận để nghiên cứu xã hội, loại bỏ đi những cái bên ngoài, ngẫu nhiên, không đi vào cái chi tiết, cụ thể, vượt qua khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc xã hội học mô tả, đi sâu vạch ra cái bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện tượng, vạch ra cái lôgic bên trong của tính đa dạng của lịch sử.
3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều quá trình nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế-xã hội. Sự vận động thay thế nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế-xã hội trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan. Đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. C.Mac viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã quyết định một cách khách quan của quan hệ sản xuất và như vậy nó quyết định quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế-xã hội như một quá trình tự nhiên. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội thì quy luật về sự phù hợp về quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng đóng vai trò quyết định.
Một mặt của phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sử phát triển, tiến lên của xã hội, quy định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao.
Mặt khác của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sản xuất phát triển của lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời đã được xoá bỏ và thay thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và dẫn đến hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn giai đoạn đầu. Như vậy, sự xuất hiện và phát triển của hình thái kinh tế được giải thích trước hết bằng sự tác động của các quy luật. Trong quá trình tiến triển của các hình thái kinh tế-xã hội, hình thái mới không xoá bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc của hệ thống cũ lại bảo tồn, kế thừa và đổi mới những yếu tố của nó, vừa đảm bảo tính liên tục vừa tạo ra bước phát triển. Do đó, nó tạo ra tình trạng chồng chất, đan xen những yếu tố của hình thái kinh tế-xã hội khác của nhiều thời kỳ lịch sử khác. Lênin đã chỉ rõ: “Trên thế giới không có và cũng không thể có thứ chủ nghĩa tư bản nào là thuần tuý cả vì chủ nghĩa tư bản luôn luôn có những yếu tố phong kiến, tiểu thị dân và cả những cái khác nữa”.
Tuy nhiên, vạch ra con đường tổng quát của sự phát triển lịch sử điều đó không có nghĩa là đã giải thích được rõ ràng sự phát triển xã hội trong mọi thời điểm lịch sử. Quá trình lịch sử cụ thể ở mỗi nước vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố làm cho tiến trình chung trong sự phát triển của xã hội loài người có những biểu hiện đa dạng phong phú ở những nước, dân tộc khác nhau. Không thể xem xét quá trình lịch sử như một con đường thẳng, nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là nền sản xuất đời sống hiện thực. Những nhân tố kinh tế không phải là nhân tố quyết định mà những nhân tố khác của kiến trúc thượng tầng đều có ảnh hưởng đến quá trình lịch sử. Vì vậy, để hiểu được lịch sử thì cần thiết phải tính đến các nhân tố cơ bản có tham gia trong sự tác động lẫn nhau của chúng. Tiến trình lịch sử của một dân tộc, của một quốc gia cụ thể thường xuyên bị các yếu tố khác ở bên trong và bên ngoài chi phối như hoàn cảnh địa lý, truyền thống văn hoá, tâm lý dân tộc, quan hệ giao lưu với các dân tộc khác. Tất cả các yếu tố đó đều có thể góp phần kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của một dân tộc nhất định. Tính trong chiến tranh hay hòa bình của một dân tộc cũng có thể làm gián đoạn, phá vỡ tiến trình phát triển tự nhiên hoặc tạo tiền đề phát triển lịch sử của một dân tộc.
II. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Con đường phát triển tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Việt Nam hiện nay
1. Hình thái kinh tế-xã hội của C.Mac trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Viêt Nam hiện nay
Nước Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là gạt bỏ tất cả những quan hệ sở hữu cá thể, tư nhân, chỉ còn lại chế độ công hữu và tập thể. Trái lại, tất cả những gì thuộc về sở hữu tư nhân góp phần vào sản xuất kinh doanh thì ta chấp nhận nó như một bộ phận tự nhiên của quá trình kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội, khuyến khích mọi hình thức kinh tế để phát triển sản xuất và nâng cao cuộc sống của nhân dân. Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò rất quan trọng. Những quan hệ này có thể góp phần củng cố quan hệ sản xuất, cũng có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu. Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa những năm qua, do không nhận thức đầy đủ vấn đề này, chúng ta đã mắc phải khuyết điểm là tuyệt đối hoá quan hệ sở hữu và coi nhẹ các quan hệ khác dẫn đến việc cải tạo quan hệ sản xuất không đồng bộ nên quan hệ sản xuất “mới” chỉ là hình thức.
Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mac-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mac-Lênin chính là ở tư tưởng giải phóng con người khỏi chế độ làm thuê, khỏi chế độ tư hữu dựa trên cơ sở người bóc lột người. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, đương nhiên chúng ta lấy chủ nghĩa Mac-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin vào hoàn cảnh nước Viêt Nam mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mac-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân ta. Tư tưởng đó đã trở thành một di sản tinh thần quý báu của Đảng, của nhân dân ta.
Trong quá trình xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản sẽ lãnh đạo, đảm bảo cho nhân dân trở thành người làm chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực, chủ động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hoá, phục vụ ngày càng tốt hơn cuộc sống của nhân dân.
Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị xã hội không tồn tại như một mục đích tự thân mà vì mục đích phục vụ con người để thực hiện bằng được lợi ích và quyền lực của nhân dân lao động.
2. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ
2.1. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội
“Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một ý tưởng mà hiện thực phải tuân theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực. Nó xoá bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại”. Dựa vào sự phát triển những mâu thuẫn của xã hội tư sản trong giai đoạn đầu phát triển của nó, dựa vào triển vọng của phong trào công nhân, C.Mac và F.Ăngen đã đưa ra dự doán về sự phát triển của xã hội loài người trong tương lai tất yếu phải tiến đến hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái ấy.
Lênin cũng chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của C.Mac như là một cái gì đó xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”. Cũng như các hình thái kinh tế-xã hội khác, hình thái kinh tế-xã hội cộng sản trải qua giai đoạn phát triển từ thấp đến cao, trong đó có hai giai đoạn cơ bản là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là hai giai đoạn kế tiếp nhau trong cùng một hình thái kinh tế-xã hội. Sự khác nhau cơ bản của hai giai đoạn này là ở trình độ phát triển kinh tế, xã hội và trước hết là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. C.Mac coi hai giai đoạn đó là những nấc thang trưởng thành về kinh tế của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bao gồm: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này thường xuyên được củng cố, hoàn thiện, đảm bảo luôn luôn thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Thứ nhất, phát triển nền sản xuất xã hội với tốc độ cao, ngày càng hiện đại nhằm tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo thoả mãn ngày càng đầy đủ những nhu cầu vật chất và văn hoá cho nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân.
- Thứ hai, đảm bảo cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động, sáng tạo và được hưởng thù lao theo nguyên tắc: “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”.
- Thứ ba, khối liên minh công-nông-trí thức ngày càng được củng cố, tăng cường, quyền bình đẳng nam nữ được thực hiện, người già được xã hội quan tâm chăm sóc, tương lai của tuổi trẻ được bảo đảm.
- Thứ tư, nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố, hoàn thiện, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy.
- Thứ năm, bảo đảm sự phát triển toàn diện của con người làm cho mọi người ngày càng phát huy được đầy đủ tính tích cực của mình trong công cuộc xây dựng xã hội mới, lối sống mới.
- Thứ sáu, hệ tư tưởng Mac-Lênin giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của toàn xã hội; đời sống văn hoá tinh thần trong xã hội ngày càng phong phú, lành mạnh.
- Thứ bảy, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước, kiên quyết ủng hộ nhân dân các nước trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Những đặc trưng cơ bản nói trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội. Mặc dù trong những năm qua, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào nhưng bản chất thời đại không hề thay đổi. Loài người vốn ở trong quá trình quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Con đường mà nhân loại đang đi chính là con đường thắng lợi của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử đã chứng minh rằng không phải bất kỳ nước nào cũng phải tuần tự trải qua các hình thái kinh tế-xã hội đã từng có trong lịch sử. Việc bỏ qua một hình thái kinh tế-xã hội nào đó là do những yếu tố bên trong quyết định, song đồng thời còn tuỳ thuộc ở sự tác động của từng nhân tố bên ngoài. Nước Viêt Nam cũng đã có những tiền đề và điều kiện cho phép chúng ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu làm cho đất nước ngày càng phồn vinh.
2.2. Nhận thức về thời kỳ quá độ
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là những nhân tố của xã hội mới và xã hội cũ đan xen lẫn nhau, đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, văn hoá, tư tưởng, v.v...Cái biện chứng nhất của thời kỳ quá độ là sự quá độ về chính trị mà ở đó nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố và ngày càng hoàn thiện.
- Về kinh tế: Đây là nền kinh tế nhiều thành phần. Bên cạnh những thành phần kinh tế của xã hội chủ nghĩa còn có những thành phần kinh tế khác, trong đó có cả thành phần kinh tế tư bản.
- Về mặt xã hội: Trong thời kỳ này vẫn còn có sự khác biệt cơ bản giữa thành thị và nông thôn, giữa các miền của đất nước, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
- Về văn hoá, tư tưởng: Bên cạnh nền văn hoá mới và hệ tư tưởng mới, còn tồn tại rõ tàn tích của nền văn hoá cũ, hệ tư tưởng cũ, lạc hậu (thậm chí còn phản động), lối sống cũ, v.v...
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh quyết liệt về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội giữa một bên là giai cấp công nhân, với giai cấp nông dân và với các tầng lớp nhân dân lao động khác đã giành được chính quyền, nhà nước, ra sức phát động đưa đất nước quá độ lên xã hội chủ nghĩa với một bên là các giai cấp bóc lột, các thế lực phản động mới bị lật đổ nhưng chưa hoàn toàn bị xoá bỏ và vẫn còn nuôi hi vọng quay lại cái “thiên đường” đã mất.
2.3. Nước Viêt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đảng ta chỉ rõ: “Nước Viêt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vẫn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp”. Lực lượng sản xuất rất thấp quy định tính tất yếu kinh tế-xã hội của xã hội ta chưa đầy đủ, chưa chín muồi trong sự phát triển tự nhiên, nội tại của nó. Tồn đọng nhiều tàn dư quan hệ tư tưởng, ý thức xã hội, tâm lý do xã hội thực dân, phong kiến cũ để lại. Đây là những khó khăn, trở ngại lớn trong bước chuyển tiếp lịch sử từ một xã hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại, phù hợp với những chuẩn mực và giá trị của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ xã hội.
Điều cần chú ý là có thể bỏ qua chế độ tư bản quá độ lên xã hội chủ nghĩa nhưng không thể bỏ qua việc chuẩn bị những tiêu đề cần thiết, nhất là tiêu đề kinh tế cho sự quá độ ấy. Nói cách khác, có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng phải tiến hành sao cho sự bỏ qua này không hề vi phạm đến tính lịch sử tự nhiên của sự phát triển. Do đó, cần có sự phát triển nhất định, coi nhân tố tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ là một yêu cầu khách quan.
Đáng tiếc trong nhiều năm qua, chúng ta đã áp dụng một cách máy móc, có những quan điểm sai lầm về chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã bỏ qua tất cả những gì thuộc về chủ nghĩa tư bản. Điều này vi phạm nghiêm trọng về lý luận sự phát triển của Mác. Chúng ta đã phủ nhận chủ nghĩa tư bản một cách sạch trơn, không tiếp thu những yếu tố tích cực của nó vào sự phát triển của đất nước. Chúng ta vì nôn nóng muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội trong thời gian ngắn nên đã tiến hành cải tạo ồ ạt nhằm xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa bằng bất cứ giá nào.
Đứng trước thực tế từ đầu những năm 80 trở lại đây, khủng hoảng kinh tế-xã hội nảy sinh và ngày càng trở nên trầm trọng. Để thực hiện tốt công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định rằng phải kiên trì nghiên cứu và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin mà trước hết là hình thái kinh tế-xã hội vào việc đề ra các chủ trương, chính sách, các giải pháp xây dựng đất nước. Việc đề ra những giải pháp đúng đắn vào điều kiện cụ thể của nước ta là một vấn đề hết sức khó khăn.
3. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Việt Nam
3.1. Mục tiêu
Nước Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội gặp nhiều khó khăn như kinh tế còn lạc hậu, những tàn dư của chế độ cũ còn nhiều, trải qua mấy chục năm chiến tranh, cái quá độ lại còn nặng nề, chủ nghĩa xã hội thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, các thế lực thù địch luôn luôn tìm cách bao vây phá hoại sự nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn lớn đó, chúng ta cũng có những thuận lợi như: Chính quyền nhà nước ngày càng được củng cố; đất nước đi vào giai đoạn hoà bình xã hội; nhân dân có lòng yêu nước truyền thống, cần cù, sáng tạo trong lao động; một số cơ sở vật chất kỹ thuật xây dựng hiện đại đang phát huy hiệu quả của nó; cuộc cách mạng Khoa học Công nghệ cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới là một thời cơ đẩy mạnh sự phát triển của đất nước.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là: “Xây dựng xã hội, về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng, chính trị và tư tưởng văn hoá phù hợp là cho đất nước Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”.
Trong giai đoạn hiện nay, sau khi kết thúc chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, chúng ta bắt đầu bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá với mục tiêu tổng quát là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước Việt Nam trở thành nước công nghiệp.
3.2.Phương hướng
Thứ nhất, chúng ta phải coi trọng vai trò và bản chất của nhà nước, thể hiện đầy đủ quyền và nguyện vọng của nhân dân; xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng và do Đảng cộng sản lãnh đạo; phải thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm tới lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Thứ hai, thực hiện những biến đổi có tính công nghiệp hoá trên cả ba lĩnh vực: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng; trong đó phát triển lực lượng sản xuất là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu tạo tiền đề kinh tế vững chắc cho sự ra đời của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra dồn dập, mạnh mẽ đòi hỏi chúng ta phải có quan niệm mới về công nghệ hoá, không phải là ưu tiên xây dựng cơ sở vật chất với những ngành công nghiệp truyền thống theo con đường công nghiệp hoá cổ điển mà là lựa chọn những ngành công nghiệp thích hợp, xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống thông tin tạo tiềm năng nhanh chóng ứng dụng công nghệ mới. Bên cạnh đó, phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng xuất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ ba, để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phải từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Chế độ công hữu phải là kết quả hợp quy luật của quá trình xã hội hoá thực sự chứ không thể tạo ra bằng biện pháp hành chính, cưỡng ép. Chuyển từ quan hệ hiện vật sang quan hệ hàng hoá - tiền tệ trở lại đúng quy luật phát triển tự nhiên của kinh tế: thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Thứ tư, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá; phát huy nhân tố con người, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực để xây dựng một xã hội văn minh; giải phóng cá nhân để giải phóng xã hội; kết hợp sức mạnh cá nhân với sức mạnh cộng đồng là động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, việc luôn đổi mới, kiện toàn bộ máy nhà nước là việc làm không kém phần quan trọng. Trong đó, nhiệm vụ của chúng ta là:
- Chống quan liêu, chuyên quyền, độc đoán trong bộ máy nhà nước.
- Phân biệt rõ chức năng, quyền hạn của các cấp, các ngành.
- Đưa ra một hệ thống pháp luật chặt chẽ, đồng bộ và có tính khả thi cao.
- Có chính sách và quy mô đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ có năng lực, phù hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước.
III. Vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, ngay từ Luận cương năm 1930, Đảng ta đã chỉ ra rằng cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn cơ bản: hoàn thành cách mạng tư sản dân quyền và tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Qua các thời kỳ đấu tranh với những chuyển biến cách mạng quan trọng, Đảng ta luôn khẳng định con đường cách mạng đã vạch ra. Việc xác định con đường phát triển đất nước là một sự nhận thức và vận dụng sáng tạo lý luận hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Việc chọn con đường phát triển của dân tộc không phải do ý muốn chủ quan, duy ý chí của Đảng mà con đường đó được xác định trên cơ sở phân tích toàn diện, khoa học, cả về lý luận và thực tiễn, cả tình hình trong nước lẫn quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là dựa trên sự phân tích sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị, về “khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản” và điều kiện thực tế của Việt Nam. Trên cơ sở đó, Đảng ta cho rằng con đường định hướng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của nước Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Trong quá trình vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội thời gian qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng còn có một số tồn tại nhất định. Do đó, chúng ta cần phải phân tích sáng tỏ những thành tựu và tồn tại đó, lấy đó làm cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả công cuộc phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1. Thành tựu trong việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội vào công cuộc đổi mới ở nước Việt Nam
Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nước Việt Nam còn phổ biến là sản xuất nhỏ, chưa có đại công nghiệp cơ khí, lực lượng sản xuất vừa thấp vừa không đồng đều, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị thiếu sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị chưa phù hợp với quy luật phát triển của nền sản xuất xã hội. Trước thực tế đó, Đảng ta tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá đất nước nhằm đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất và xác lập quan hệ sản xuất mới, xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam. Những thành tựu đã đạt được trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội để đổi mới đất nước được thể hiện trên một số mặt sau:
Thứ nhất, chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định về phát triển lực lượng sản xuất. Công cụ sản xuất không ngừng được đổi mới từ thấp đến cao, nguồn lao động được tạo ra dồi dào, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật tăng ngày càng nhanh cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu kinh tế đang được chuyển dịch từ đơn giản, lạc hậu, trì trệ, kém hiệu quả sang cơ cấu có nhiều ngành, nhiều thành phần kinh tế và ngày càng phát triển theo hướng tiên tiến, hiện đại. Một số ngành, công trình, sản phẩm đảm bảo cho sự phát triển chung của nền kinh tế như điện, dầu khí, xi măng, viễn thông, v.v...đã được chú trọng đầu tư và năng lực sản xuất tăng nhanh qua từng năm. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã từng bước được xây dựng và đang từng bước được tăng cường.
Thứ hai, chúng ta đã đạt được những kết quả nhất định trong việc giải quyết các mối quan hệ của quan hệ sản xuất. Do nhận thức được vai trò quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đối với quan hệ tổ chức quản lý và phân phối trong quá trình phát triển của xã hội, chúng ta đã và đang quan tâm giải quyết đúng đắn về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Với việc chủ trương phát triển đa thành phần kinh tế để giải phóng năng lực sản xuất xã hội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9003.doc