Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, đặc biệt coi trọng đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở xã, phường, thị trấn thể hiện nhận thức mới của Đảng về đổi mới chính trị. Trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị, xác định và thực hiện đúng phương hướng đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy cao nhất vai trò của các tổ chức trong cả hệ thống và quyền làm chủ của nhân dân, khi công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu, Đảng ta chủ trương hướng mạnh về cơ sở, quan tâm củng cố cơ sở xã hội của chính trị, đề cao các sáng kiến sáng tạo từ cơ sở.
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 23357 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn vào quá trình đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều khó khăn.
Chính vì vậy, đại hội VI ( tháng 12-1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách công tác. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, phải nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc
Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Những quan điểm, đường lói do Đại hội VI vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước. Công cuộc đổi mới của Đảng ta từ sau Đại hội VI đến nay nước ta không nằm ngoài những quy luật phổ biến của phép biện chứng. Đảng ta đã vận dụng phép biện chứng vào nhận thức hiện thực xã hội, phân tích các mối liên hệ biện chứng của đời sống hiện thực, tìm ra các mâu thuẫn đó và tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình đổi mới đó.
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.
Việc Đảng ta tổng kết những bài học ở Đại hội VI, lần đầu tiên chỉ rõ sai lầm chủ quan, duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm sai, làm hỏng và phải sửa chữa trong các chính sách xây dựng kinh tế, phát triền văn hoá có ý nghĩa tự giải phóng và mở đường cho sự phát triển mới rất to lớn.
Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có một sự tương đồng về hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa như”Chính sách kinh tế mới của Lênin” (NEP). Với đổi mới, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã ngày được xác định rõ hơn. Nó thấm nhuần quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực tiễn và quan điểm phát triển.
2.2.1. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong đổi mới về kinh tế
2.2.1.1. Về các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế thị trường.
Đổi mới về mối quan hệ giữa củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất với phát triển lực lượng sản xuất - một trong những căn cứ quan trọng cho sự đổi mới tư duy về cấu trúc nền kinh tế (cấu trúc sở hữu và các thành phần kinh tế ).
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất của phương thức sản xuất, trong đó, mỗi mặt có vị trí và tác động không giống nhau. Lực lượng sản xuất là mặt động nhất, cách mạng nhất và giữ vị trí quyết định đối với quan hệ sản xuất. Mối quan sản xuất được thiết lập thích ứng với trạng thái, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ giữ vai trò mở đường tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất quyết định tính chất của quan hệ sản xuất, quyết định sự phát triển của quan hệ sản xuất, do đó, không thể nóng vội thiết lập quan hệ sản xuất mới khi chưa tạo ra được lực lượng sản xuất mới và cũng không thể tuỳ tiện xoá bỏ quan hệ sản xuất hiện có khi nó còn tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
Như vậy, từ chỗ chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất phải đi trước để mở đường, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, chúng ta đã nhận thức lại yêu cầu củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, để giải phóng sức sản xuất, đã khẳng định thước đo của đổi mới là thực tiễn: sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được nâng cao, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố. Đã khẳng định mục tiêu đúng đắn của đổi mới, hoàn thiện quan hệ sản xuất nhằm giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đồng thời tạo sự đồng thuận trong xã hội, tạo sự lực thu hút mọi nguồn lực trong xã hội đầu tư cho phát triển.
Về vấn đề sở hữu.
Trước đây, trong xây dựng quan hệ sản xuất chỉ chú trọng quan hệ sở hữu mà mấu chốt là cải biến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất thành các hình thức khác nhau của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa. Đổi mới yêu cầu phải chú trọng cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất mới bao gồm ba mặt: xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ coi các hình thức sở hữu tồn tại biệt lập trong từng thành phần kinh tế đến chỗ coi các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất vốn có bản chất riêng nhưng trong hoạt động sản xuất kinh doanh không ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình đa dạng, đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu.
Quan niệm về sở hữu cũng có những đổi mới rất căn bản, từ chỗ chỉ nhìn nhận đối tượng sở hữu về mặt hiện vật, tiến đến chú trọng đối tượng sở hữu về mặt giá trị và sở hữu trí tuệ; có sự phân định và ngày càng làm rõ quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, đặt cơ sở quan trọng cho việc phân định trong mối quan hệ giữa quyền chủ sở hữu và quyền tài sản tại doanh nghiệp nhà nước.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ VII (1994) nhận thức về khả năng và sự cần thiết tách bạch quan hệ quản lý kinh doanh từ chủ thể sở hữu là Nhà nước đã được phát triển thêm một bước không chỉ trong quan hệ đất đai mà còn mở rộng ra các tài sản khác mà Nhà nước quản lý, từ đó đã phân biệt rõ sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Phát triển sở hữu nhà nước để bảo đảm vai trò điều tiết kinh tế - xã hội có hiệu quả cao, chuyển một bộ phận tài sản do nhà nước quản lý cho các chủ thể khác sử dụng với mục đích kinh doanh dưới các hình thức: giao quyền sử dụng lâu dài (đất đai, rừng..), cho thuê, tô nhượng (hầm mỏ), liên doanh; góp cổ phần…
Đại hội IX đã xác định ba hình thức sở hữu tồn tại căn bản trong nền kinh tế nhà nước, bao gồm sở hữu toàn dân; sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể. Nhà nước chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và nước ngoài. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
* Về các thành phần kinh tế
Đại hội lần thứ VI của Đảng trên cơ sở vận dụng quan điểm của Lênin về chính sách kinh tế mới, về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xôviết và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong chế độ dân chủ mới có năm loại hình kinh tế khác nhau và xuất phát từ thực tiễn 10 năm tìm tòi, thử nghiệm ở nước ta. Đảng đã xác định nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần. Các thành phần đó là:
Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán, kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ng dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiẻu số ở Tây Nguyên và các vùng cao khác.
Trong các thành phần kinh tế ấy, kinh tế xã hội chủ nghĩa với khu vực quốc doanh làm nòng cốt phải giành được vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc dân, cụ thể là chiếm tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thông. Thể hiện tính ưu việt và chi phối được các thành phần kinh tế khác.
Đổi mới lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước để củng cố và tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế. Phân biệt sở hữu nhà nước với hình thức doanh nghiệp nhà nước. Tài sản và vốn thuộc sở hữu nhà nước được sử dụng dưới nhiều hình thức để bảo đảm hiệu quả kinh tế đồng thời tăng cường khả năng kiểm soát trực tiếp của nhà nước. Tập trung xây dựng doanh nghiệp nhà nước ở những ngành, lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng. Trong nhiều lĩnh vực, thực hiện chủ trương giảm bớt những doanh nghiệp nhà nước không cần giữ hình thức quốc doanh, đồng thời cho phép các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác tham gia. Tăng cường hệ thống thương nghiệp nhà nước, khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, đồng thời coi trọng phát triển ngành dịch vụ.
2.2.2. Về việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
2.2.2.1 Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việc đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lí luận rất sáng tạo của Đảng ta. Từ đại hội VI, chúng ta đã dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp , chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Cương lĩnh 1991 khẳng định “ Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà Nước”. Đại hội IX đư ra khái niệm” kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” xem đó là mô hình tổng quát trong suốt thời kì qua độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội; trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ gồm lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy rõ ràng là không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối của các nhân tố định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế kinh tế thị trường ở nước ta vừa có những đặc trưng chung, phổ biến của mọi nền kinh tế thị trường, vừa có những đặc trưng mang tính đặc thù - định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo tinh thần của các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ lần thứ VI đến lần thứ X định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường thể hiện ở các nội dung sau đây: Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, đồng thời khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng và giúp đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát khỏi nghèo, từng bước khá giả hơn; phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng với nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội; phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thành công sự phát triển rút ngắn, bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, kinh tế thị trường... mới không bị chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-1991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Năm 2008 là năm kỷ lục thu hút FDI của Việt Nam (đạt trên 60 tỷ USD). Năm 2009, dù kinh tế thế giới đang suy thoái và khủng hoảng tài chính nhưng đến nay cam kết đầu tư nước ngoài đã đạt 18 tỷ USD, dự kiến có thể đạt 20 tỷ USD. Mặc dù kinh tế thế giới suy thoái nhưng Việt Nam vẫn là một trong những nước đạt tăng trưởng dương (khoảng 5,2% năm 2009). Kết quả này cũng nhờ vào chính sách mở cửa, thu hút đầu tư, tăng trưởng xuất khẩu. Năm 2009, chúng ta không bị rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế nặng nề như một số nước.
Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ 289 USD (năm 1995) lên 1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng bước vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang vươn lên nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước chung của quốc tế và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến 3.385 USD).
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế .
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa, tích vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. Từ một quốc gia bị phong tỏa, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, Việt Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
2.2.3.. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong đổi mới về chính trị.
2.2.3.1. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản
Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt nhất và cũng là khó nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc phục cả hai khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế: hoặc là Đảng bao biện, làm thay, hoặc là buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải làm rõ, nhận thức đúng đắn vấn đề Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện có chính quyền, dân chủ hóa và thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và trực tiếp, nhưng Đảng không làm thay Nhà nước, không được sử dụng quyền lực Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà nước ban hành luật pháp, nhưng Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; Đảng giữ vai trò lãnh đạo chính trị không có nghĩa là chỉ đạo chung chung, chỉ dừng ở việc đề ra cương lĩnh, đường lối chung, không thể không quyết định những chủ trương , chính sách lớn liên quan quan đến sự phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị chúng, đến quốc phòng, an ninh và quan hệ đối ngoại của quốc gia, đến công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị, đến đời sống chung của các tầng lớp nhân dân…
Xét về phương diện hiệu quả lãnh đạo chính trị, có thể nói rằng, tư duy lý luận của Đảng ta trong những năm qua về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng tạo ra bước đột phá quan trọng vào những khâu khó nhất, nhạy cảm nhất mà nhiều năm trước chưa tháo gỡ được. Vì vậy, đó là một bước tiến, một cống hiến quan trọng vào sự phát triển lý luận về Đảng cầm quyền, trong đó có sự quán triệt và bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện có chính quyền.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thì đổi mới không phải là từ bỏ việc thực hiện chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ quyền lãnh đạo duy nhất. đổi mới chỉ là thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đảng lần X lần đầu tiên lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, lần đầu tiên cho phép Đảng viên tự ứng cử vào Ban Chấp hành Trung ươg Đảng.
2.2.3.2.Đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở.
Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, đặc biệt coi trọng đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở xã, phường, thị trấn thể hiện nhận thức mới của Đảng về đổi mới chính trị. Trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị, xác định và thực hiện đúng phương hướng đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy cao nhất vai trò của các tổ chức trong cả hệ thống và quyền làm chủ của nhân dân, khi công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu, Đảng ta chủ trương hướng mạnh về cơ sở, quan tâm củng cố cơ sở xã hội của chính trị, đề cao các sáng kiến sáng tạo từ cơ sở.
Trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với cấu trúc của hệ thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân, đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, kinh doanh, dịch vụ xã hội... Tuy không trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước nhưng trong điều kiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên, các tổ chức này có tác động ngày càng to lớn đến đời sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đảng, Nhà nước không quản lý trực tiếp đối với các tổ chức này nhưng có mối liên hệ mật thiết với các tổ chức đó. Đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước có được xây dựng và thực thi tốt hay không, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các thành viên tổ chức hiệp hội, không thể không tính đến vai trò và sự tác động tích cực của các tổ chức xã hội. Hoạt động tư vấn, giám định và phản biện xã hội đối với đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải được coi là hoạt động cơ bản và thể hiện sinh động nhất vai trò mới, rất tích cực của các tổ chức hiệp hội kinh tế - xã hội. Do vậy, cơ chế chính trị - pháp lý để vận hành mối liên hệ giữa hệ thống chính trị và hệ thống xã hội như đã nêu cũng được xác định là thành tố cơ bản trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay.
Tất cả các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở phải thật sự gần dân, tin dân, trọng dân, nghe dân; Cán bộ, đảng viên ở cơ sở nêu gương toàn diện trước dân, lời nói đi đôi với việc làm, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm để dân tin, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân; Các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở phối hợp hoạt động chặt chẽ, đồng bộ, phát động được các phong trào cách mạng tích cực đổi mới, như vậy thì sẽ khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng con người, đất đai, ngành nghề, ý chí chính trị và truyền thống văn hóa và hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở là thiết thực thực hiện nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, đó là cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, là đem lời dạy của Hồ Chí Minh: đem chính trị vào giữa dân, cơ sở là nơi Đảng và chính quyền sống trong lòng dân, là cầu nối giữa Đảng, chính phủ với dân.
2.2.4. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong đổi mới văn hoá – xã hội
2.2.4.1. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Đảng ta khẳng định nền văn hoá nước ta là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và từng bước làm rõ các nội hàm của các khái niệm “tiên tiến”, “đậm đà bản sắc dân tộc”. “Tiên tiến” là yêu nước tiến bộ, mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Nền văn hoá Việt Nam đang xây dựng là một nền văn hoá thống nhất mà đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng. Một số nét mới trong chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước hình thành. Các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa - cả vật thể và phi vật thể - được giữ gìn, tôn tạo. Việc phân phối các sản phẩm văn hoá đã nhanh và đều khắp hơn. Hệ thống các sản phẩm văn hoá góp phần trực tiếp vào sự phát triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá thực sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; văn hoá, con người và cuộc sống Việt Nam được bạn bè hiểu biết rõ hơn. Dân trí được nâng lên, cùng với văn hoá phát triển đã góp phần khơi dậy tính chủ động sáng tạo của nhân dân và nâng cao tính đồng thuận xã hội, tạo ra bầu không khí dân chủ, niềm tin của nhân dân được nâng lên không ngừng.
2.2.4.2. Xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, bên cạnh việc tập trung vào xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, đạo đức và lối sống mới. Đảng ta rất coi trọng việc phát triển một xã hội dân công bằng , dân chủ, văn minh. Đảng ta xác định rõ các nhiệm vụ và giải pháp có tính chất toàn diện và tổng thể chiến lược phát triển xã hội, từ công tác kế hoạch hoá dân số, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện công bằng xã hội, đảm bảo an toàn xã hội, xây dựng lối sống văn hoá, khôi phục trật tự kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chăm lo đáp ứng các nhu cầu về giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân, xây dựng chính sách bảo trợ xã hội…đến thực hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc. Phải bằng một hệ thống chính sách xã hội toàn diện, sâu sát và cụ thể mới tạo điều kiện để xây dựng một xã hội công bằng dân chủ và văn minh.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được bảo đảm đầy đủ. Hiện nay, hơn 20 triệu tín đồ thuộc các tôn giáo được tự do thực hiện các hoạt động tôn giáo. Quyền của đồng bào các dân tộc thiểu số không những được pháp luật bảo vệ mà còn được Nhà nước chăm sóc, giúp đỡ thông qua các chương trình phát triển kinh tế-xã hội cho các vùng khó khăn, thông qua chính sách xã hội, văn hóa như hệ thống trường dân tộc nội trú, như công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ đồng bào các dân tộc. Đặc biệt là di sản văn hóa và ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số đã và đang được phục hồi, phát triển.
2.2.4.3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách có hiệu quả. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liền. Các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế , cho mọi tần lớp dân cư. Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Công tác giải quyết việc làm xóa đói giảm nghèo đạt kết quả tốt: Tự 2000 đến 2005 tạo việc làm cho 7,5 lao động, tỉ lệ hộ đói nghèo giảm từ 30% (1992) – 7%( 2005).
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển về quiy mô, đa dạng hoa về loại hình từ mầm non, đại học, cao đẳng. Năm 2000 cả nước đã xoa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Năm 2004, 20 tỉnh thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.
2.3.Ý nghĩa thực tiễn của qúa trình đổi mới.
Đảng cộng sản Việt Nam, trước sau như một, vẫn khẳng định mục tiêu chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam . Nhưng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại Hội VII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xây dựng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp... Quán triệt nguyên tắc khách quan, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân.
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan và tính năng động chủ quan. Vì thế phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học bởi tri thức khoa học có được hay không là nhờ ở lòng ham hiểu biết, trí thông minh, ý chí ngược lại nếu tri thức khoa học phát huy được tác dụng trong thực tiễn thì nó lại trở thành động lực tăng thêm tri thức, nhận thức. Sự kết hợp xuất phát từ thực tế khách quan và phát huy nỗ lực chủ quan không những đem lại hiệu quả cao trong sự phát triển nhận thức mà còn giúp cho lý luận không bao giờ xa rời thực tiễn cuộc sống.
Nắm bắt và vận dụng được có hiệu quả các quy luật tất yếu khách quan để hoạt động và đem nó vào thực tiễn để kiểm nghiệm là một phương tâm chủ đạo trong công cuộc đổi mới hiện nay. Chỉ có dám nghĩ, dám làm kết hợp với tri thứ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn vào quá trình đổi mới ở Việt Nam.doc