MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
PHẦN MỞ ĐẦU 2
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 2
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: 5
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 6
3.1. Phạm vi nghiên cứu: 6
3.2. Đối tượng nghiên cứu: 7
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 7
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: 7
6. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI: 7
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 8
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: 8
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: 8
7.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: 8
7.4. Phương pháp thống kê: 8
8. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN: 8
8.1. Về lí luận: 8
8.2. Về thực tiễn: 9
Chương 1. THƠ TRỮ TÌNH VÀ GIẢNG DẠY THƠ TRỮ TÌNH TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG 9
1.1. THƠ TRỮ TÌNH: 9
1.1.1. Thơ trữ tình: 9
1.1.2. Các thể loại thơ trữ tình: 11
1.1.3. Thơ trữ tình hiện đại trong nhà trường THPT: 11
1.2. VẤN ĐỀ GIẢNG DẠY THƠ TRỮ TÌNH TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG: 12
Chương 2. VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIỜ ĐỌC – HIỂU BÀI THƠ “TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG 13
2.1. KHÁI NIỆM VỀ CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC: 13
2.1.1. Vấn đáp (đàm thoại): 14
2.1.2. Đặt và giải quyết vấn đề: 14
2.1.3. Hoạt động nhóm: 14
2.1.4. Đóng vai: 15
2.1.5. Động não: 15
2.2.6. Đọc sáng tạo: 15
2.2. NHỮNG LƯU Ý KHI DẠY THƠ TRỮ TÌNH TRONG TRƯỜNG THPT: 15
2.3. VẬN DỤNG CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIỜ ĐỌC – HIỂU BÀI THƠ “TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG: 16
2.3.1. Khái quát về bài thơ “Tây tiến” của Quang Dũng: 16
2.3.2. Vận dụng các biện pháp dạy học tích cực trong giờ đọc – hiểu “Tây tiến” – Quang Dũng: 16
Chương 3. THỰC NGHIỆM 17
KẾT LUẬN 17
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10779 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vận dụng một số biện pháp dạy học tích cực vào giờ đọc – hiểu tác phẩm Tây tiến của Quang Dũng ở lớp 12 (ban cơ bản), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề cơ bản: vai trò chủ thể tích cực học sinh trong học tập.
Thực tiễn của hoạt động dạy học trong nhà trường thời gian qua cho thấy tác động lớn lao của việc thay đổi quan điểm giáo dục: Đó là bước chuyển biến từ lối dạy học cổ truyền lấy “thầy” làm trung tâm chi phối toàn bộ và tuyệt đối quá trình giáo dục, áp đặt, nhồi nhét những giá trị đạo đức và kiến thức, kĩ năng lên người học, sang việc lấy “trò” là trung tâm, là chủ thể. Bằng vai trò tích cực chủ động, người học tự nỗ lực tìm tòi khám phá tri thức, nắm kĩ năng với sự hướng dẫn của thầy. Đây chính là tinh thần cơ bản của giáo dục hiện đại, quan điểm giáo dục tích cực.
Với quá trình triển khai thay đổi chương trình và SGK Ngữ văn THPT, việc vận dụng quan điểm dạy học tích cực lấy học sinh là trung tâm nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể người học trong giờ học văn đã mang tới những triển vọng khả quan. Bước chuyển của tình hình dạy học văn theo quan điểm giáo dục tích cực đã tạo những thay đổi quan trọng về nhận thức và hành động tại các trường THPT. Thế hệ học sinh ngồi trên ghế nhà trường hôm nay có điều kiện tiếp nhận cách thức dạy học tiến tiến, từ đó các em có khả năng tích lũy hiểu biết và trau dồi thái độ, cảm xúc để hoàn thiện nhân cách theo mục tiêu đào tạo đã đề ra.
1.2. Môn Ngữ văn với đặc thù vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật, là một môn học rất hấp dẫn, lý thú, bổ ích, có khả năng giúp học sinh phát triển toàn diện về trí tuệ, nhân cách, tâm hồn.
Tuy nhiên, có một thực tế dễ thấy là những vướng mắc, lúng túng trong quá trình đổi mới phương thức dạy học do sự níu kéo của thói quen cũ đã làm hạn chế một phần vai trò chủ thể tích cực của học sinh để biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo. Từ đó dẫn tới hiện tượng học sinh kém hào hứng học văn, chất lượng dạy học văn có phần giảm sút, các em học với tâm thế bị cưỡng ép, mang tính bắt buộc, đối phó. Tình hình trên đang thu hút sự chú ý của dư luận xã hội.
Vì vậy, việc đổi mới, cải tiến PPDH bộ môn có vai trò rất quan trọng, quyết định đối với việc tạo hứng thú cho học sinh trong học tập, nâng cao chất lượng dạy học. Chúng tôi cho rằng việc vận dụng các biện pháp dạy học tích cực vào dạy học Ngữ văn nói chung, thơ trữ tình nói riêng chính là một trong những giải pháp nhằm đổi mới PPDH đáp ứng yêu cầu trên.
1.3. Trong chương trình phổ thông, tác phẩm trữ tình là một kiểu loại văn bản chính. Có thể nói, đây là loại văn bản “khó đọc” nhất trong tất cả các kiểu loại văn bản bởi đặc trưng nắm bắt thế giới một cách đặc biệt, bởi kiểu cấu trúc hình tượng “phi logic”, đúng hơn là chỉ tuân theo logic của cảm xúc. Cũng không ít người cho rằng việc đọc và thưởng thức tác phẩm trữ tình nói chung, thơ trữ tình nói riêng là lĩnh vực của những gì thiêng liêng, huyền bí chỉ những cá nhân mang những phẩm chất “thiên phú” đặc biệt mới có thể bước chân vào. Không cực đoan như thế nhưng số đông đều cho rằng tác phẩm trữ tình “khó đọc”, “kén” người đọc hơn tác phẩm tự sự. Học sinh trong nhà trường cũng vậy. Thơ (nói rộng ra là tác phẩm trữ tình) đối với các em thì có vẻ ngắn hơn, dễ thuộc hơn tác phẩm tự sự nhưng cảm nhận, phân tích, lí giải, bình giá những vẻ đẹp của nó thì bội phần khó khăn thử thách.
Chương trình và SGK mới được xây dựng theo hướng tăng cường khả năng hoạt động của người học. Vì vậy, việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để dạy học Ngữ văn là một hình thức góp phần tạo điều kiện giúp HS phát huy vai trò chủ động, năng động sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của một công dân trong thời kì hội nhập khu vực và thế giới của đất nước.
1.4. Ở tỉnh Sóc Trăng, do hoàn cảnh và điều kiện thực tế ở một địa phương thuộc vùng xa, vùng sâu của Đồng bằng sông Cửu Long, việc đổi mới quan điểm dạy học văn nói riêng theo tinh thần phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của người học còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Bản thân chúng tôi cũng muốn tìm hiểu và góp phần vào việc cải thiện tình hình dạy học văn tại trường học ở địa bàn của mình.
Với các lí do trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Vận dụng một số biện pháp dạy học tích cực vào giờ đọc – hiểu tác phẩm “Tây tiến” của Quang Dũng ở lớp 12 (ban cơ bản)”. Trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học cho chính mình, sau nữa có thể góp một phần vào tháo gỡ những khó khăn, lúng túng của các bạn đồng nghiệp.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12 - 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 - 1999).
Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Việc vận dụng các biện pháp dạy học tích cực vào giảng dạy văn bản thơ trữ tình hiện đại trong nhà trường có một vai trò quan trọng trong nâng cao năng lực dạy và học văn trong giai đoạn hiện nay. Nó có tác dụng phát huy tối đa khả năng của học sinh trong việc tự chiếm lĩnh tri thức văn bản thơ trữ tình trên cơ sở gợi ý của giáo viên.
Vấn đề vận dụng các biện pháp dạy học tích cực trong nhà trường nói chung, bộ môn Ngữ văn nói riêng được nói đến khá nhiều. Tiêu biểu có các tài liệu, giáo trình về giáo dục học, Lí luận dạy học:
- Mảng sách dịch của nước ngoài (chủ yếu từ Liên Xô cũ): Giáo dục học của Babanxki; Lí luận dạy học của Exipop, Lecne, Scatkin; Giáo trình Phương pháp luận dạy văn học do Z. Ia rez chủ biên.
Gần đây, nhờ mở rộng giao lưu, một số công trình nghiên cứu của các nhà giáo dục các nước Phương Tây được giới thiệu (Ruxso, Dewey, Skinner…)
- Tài liệu biên soạn trong nước có: Các giáo trình giáo dục học và tâm lí học (Tủ sách Đại học sư phạm); Giáo trình Phương pháp dạy học văn (do Phan Trọng Luận chủ biên); Tiếp cận văn học (Nguyễn Trọng Hoàn); Lý luận và phê bình văn học (Trần Đình Sử); Nguyễn Viết Chữ thì có những quyển: Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường ; Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể. Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lý, Hoàng Như Mai, biên soạn quyển: Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể, …
Ngoài ra, chúng ta không thể bỏ qua một nguồn tài liệu tham khảo quý báu đó là các sáng kiến kinh nghiệm về dạy học văn theo hướng vận dụng các biện pháp tích cực được đúc kết từ phong trào thi đua “dạy tốt học tốt” trong nhà trường thời gian qua.
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
3.1. Phạm vi nghiên cứu:
Dựa trên những kiến thức giáo dục học, tâm lí học và lí luận dạy học, đề tài xác định vấn đề vận dụng các biện pháp dạy học tích cực trong giờ đọc – hiểu thơ trữ tình ở trường THPT. Vấn đề áp dụng các biện pháp dạy học tích cực vào dạy học tác phẩm trữ tình xét theo góc độ tác động, kích thích, hướng dẫn của giáo viên để giúp học sinh vượt qua những trở ngại khó khăn nhằm đảm bảo vai trò chủ thể của người học trong quá trình hiểu biết, cảm thụ tác phẩm trữ tình.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài hướng tới đối tượng nghiên cứu như sau:
Vấn đề vận dụng một số biện pháp dạy học tích cực trong giờ đọc - hiểu văn bản - tác phẩm thơ trữ tình.
Vận dụng một số biện pháp dạy học nhằm hướng tới việc tích cực hoạt động học tập của học sinh trong giờ đọc - hiểu văn bản - tác phẩm “Tây tiến” của Quang Dũng (lớp 12).
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Đề tài nghiên cứu hướng vào mục đích tìm tòi và khẳng định vai trò, tác dụng của việc phát huy tối đa hiệu quả của các biện pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy thơ trữ tình hiện đại trong trường phổ thông. Từ đó, người dạy có điều kiện triển khai hướng dạy học tích cực vào việc nâng cao chất lượng dạy học văn ở nhà trường tại đia phương.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu những kiến thức lý luận về các biện pháp dạy học tích cực và việc vận dụng các biện pháp đó trong giờ đọc - hiểu văn bản tác phẩm.
Tìm hiểu tình hình thực hiện dạy học văn trên cơ sở áp dụng các biện pháp tích cực tại một số trường THPT thuộc địa bàn huyện Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng.
Lựa chọn một số biện pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tối đa hiệu quả giảng dạy trong giờ đọc - hiểu văn bản tác phẩm thơ trữ tình hiện đại.
6. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI:
Đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu vận dụng các biện pháp dạy học tích cực nhằm vào việc phát huy tối đa khả năng dạy và học thơ trữ tình hiện đại trong trường phổ thông, cụ thể qua giờ đọc - hiểu văn bản - tác phẩm “Tây tiến” của Quang Dũng.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Các tài liệu về thơ trữ tình hiện đại, tài liệu về phương pháp giáo dục học, các tài liệu về chương trình, sách giáo khoa, việc đổi mới phương pháp dạy học trong những năm gần đây, … được chúng tôi tập trung nghiên cứu, làm tiền đề cho việc thực hiện đề tài và quá trình dạy học thơ trữ tình hiện đại.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Tham gia dự giờ, quan sát, tìm hiểu nắm bắt tình hình dạy học thơ trữ tình ở trường phổ thông, bao gồm các hoạt động như dạy học, chất lượng dạy học, các biện pháp dạy học, từ đó rút ra những nhận định về thực trạng cũng như phương hướng phát triển dạy học thơ trữ tình ở trường THPT hiện nay.
7.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Định hướng triển khai thiết kế mô hình dạy học tác phẩm thơ trữ tình bằng các biện pháp dạy học tích cực phù hợp.
Tổ chức dạy thực nghiệm tại trường THPT.
Tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả của học sinh bằng phiếu khảo sát, bài kiểm tra cả trước, trong và sau quá trình học tập.
7.4. Phương pháp thống kê:
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các biện pháp thống kê, so sánh, đối chiếu,… để đi đến những kết luận cần thiết cho luận văn.
8. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN:
8.1. Về lí luận:
Tìm hiểu những lí luận khoa học về các biện pháp dạy học tích cực trong dạy học môn Ngữ văn nói chung, thơ trữ tình hiện đại nói riêng tại trường THPT. Tìm tòi những biện pháp thích hợp nhằm đạt hiệu quả tối ưu khi vận dụng vào văn bản - tác phẩm Tây tiến của Quang Dũng.
8.2. Về thực tiễn:
Góp phần khắc phục thiếu sót, nhược điểm thường gặp trong dạy học là chưa chú ý đúng mức hoặc còn lúng túng trong việc áp dụng các biện pháp dạy học văn bản thơ trữ tình hiện đại. Thúc đẩy tối đa khả năng tích cực chủ động của học sinh trong giờ đọc – hiểu thơ trữ tình, tránh lối dạy thụ động một chiều theo kiều giảng giải - ghi nhớ, đọc - chép còn ảnh hưởng khá nặng tại trường THPT, đặc biệt ở vùng nông thôn.
Chương 1
THƠ TRỮ TÌNH VÀ GIẢNG DẠY THƠ TRỮ TÌNH
TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. THƠ TRỮ TÌNH:
1.1.1. Thơ trữ tình:
a. Đặc trưng của tác phẩm trữ tình:
Theo Trần Thanh Đạm trong quyển Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể thì trữ tình là “sự bộc lộ trực tiếp tư tưởng, cảm xúc, nhiệt tình, tâm tư, những trạng thái mạnh mẽ, xao động, phong phú của tâm hồn và trí tuệ con người. Mọi hình ảnh cuộc sống đều bộc lộ qua cảm quan và ngôn ngữ cá nhân của tác giả hoặc của nhân vật mà tác giả nhân danh để phát biểu, của cái ngôi thứ nhất”. Nội dung của tác phẩm trữ tình là biểu hiện tư tưởng, tình cảm “làm sống dậy cái thế giới chủ thể của hiện thực khách quan, giúp ta đi sâu vào thế giới của những suy tư tâm trạng, nỗi niềm…”(Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lí luận văn học, tập 2).
Cũng theo Trần Thanh Đạm trong quyển Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể thì “Trung tâm của tác phẩm trữ tình là hình tượng- tâm tư”. “Sự rung động, truyền cảm của tác phẩm trữ tình chủ yếu dựa vào lời nói tràn đầy cảm xúc suy nghĩ của nhà thơ, nhà văn, những lời nói thốt ra “tự đáy lòng”.
Nhân vật trữ tình là “hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy tư, cảm xúc, tâm trạng trong tác phẩm”; “cụ thể trong giọng điệu, cảm xúc, trong cách cảm, cách nghĩ” …”(Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lí luận văn học, tập 2). Nhân vật trữ tình là hiện thân của tác giả còn trữ tình là lời tự thuật của tác giả nhưng không đồng nhất với tác giả.
“Thường thường tác phẩm trữ tình hay viết bằng thơ, tức là thứ ngôn ngữ tràn đầy âm thanh, nhịp điệu ngưng đọng cảm xúc, suy nghĩ, kết tinh hiện thực cuộc sống, có sức xuyên thấm mạnh mẽ vào lòng người đọc”. “Tác phẩm trữ tình viết bằng văn xuôi thì thường cũng là thứ văn xuôi giàu chất thơ”. “ Trữ tình là sự bộc lộ trực tiếp mọi trạng thái phong phú, tinh vi, sâu sắc trong đời sống tâm tư, cảm xúc của con người nảy sinh từ sự tiếp xúc, va chạm với cuộc sống- chính là linh hồn của thơ ca” (Trần Thanh Đạm, Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể).
b. Đặc trưng của thơ trữ tình:
Thơ cũng mang đặc trưng chung của văn học: tính hình tượng trong ngôn ngữ. Nhưng ngôn ngữ thơ là “một kiểu cấu tạo đặc biệt của ngôn ngữ văn học”, đó là “ngôn ngữ đã được cách điệu hóa cũng như bước chân trong vũ điệu so với bước đi thường” (Trần Thanh Đạm, Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể), ngôn ngữ đã được “chưng cất” từ ngôn ngữ đời sống. Nó “tận dụng và phát huy cao độ cả ruột lẫn vỏ của ngôn ngữ và mục đích nghệ thuật” (Trần Thanh Đạm, Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể).Ngôn ngữ thơ trữ tình là ngôn ngữ “bão hòa cảm xúc”, “tập trung sức nặng của tình cảm” (Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lí luận văn học, tập 2).
Do cấu tạo đặc biệt của ngôn ngữ thơ nên thơ có những đặc trưng riêng. “Thơ có thể nói được những điều hết sức lắng đọng kết tinh mà nhiều khi văn xuôi không nói được”, “lời thơ chặt chẽ mà ý thơ mênh mông(Trần Thanh Đạm, Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể). “Thơ có khả năng bao quát sâu rộng…”(Sóng Hồng). “Thơ là sự sống tập trung cao độ, là cái lõi của cuộc sống. Phải đào, phải xới, phải chắt, phải lọc mới ra thơ được…Sự sống phải ủ thành men và bốc lên trong tâm hồn thi sĩ”( Chuyển dẫn từ [Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lý, Hoàng Như Mai, Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể], Lưu Trọng Lư, Các nhà thơ nói về thơ, tạp chí Văn nghệ tháng 5/1961).
Đặc trưng thứ hai của thơ là: Sự hòa hợp, nhịp nhàng (nhịp điệu của lời thơ), thơ vừa có “hình”, vừa có “nhạc”. “Cấu tạo đặc biệt của ngôn ngữ thơ thể hiện ở hệ thống thi pháp của mỗi nền thơ dân tộc nhất định” (Trần Thanh Đạm, Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể). Ngôn ngữ Việt có đặc tính âm thanh được tạo nên bởi các âm tiết tách rời nhau (ngôn ngữ đơn lập) và hệ thống thanh điệu gồm sáu thanh rất giàu chất thơ, chất nhạc. Ngôn ngữ thơ có nhịp điệu riêng của nó, “như nhịp đập của trái tim khi xúc động”, “thế giới nội tâm của nhà thơ…biểu hiện bằng cả âm thanh nhịp điệu của từ ngữ ấy. Tính nhịp điệu là nét đặc thù rất cơ bản của tác phẩm trữ tình” (Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lí luận văn học, tập 2). “Người ta ngâm thơ gần như hát và các bà mẹ du con mà hát, chí ra là họ ngâm thơ” (Chuyển dẫn từ [Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lý, Hoàng Như Mai, Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể], Chế Lan Viên, Những ý nghĩ của một người làm thơ về nền thơ Việt Nam, Tạp chí Văn nghệ số tháng 5/1961).
1.1.2. Các thể loại thơ trữ tình:
Gồm có trữ tình dân gian và trữ tình tác giả.
Trữ tình dân gian: Trữ tình dân gian nhằm chỉ những tác phẩm văn học dân gian được sáng tác theo phương thức trữ tình, trong đó ca dao là bộ phận chủ yếu.
Trữ tình tác giả: Chủ yếu nghiên cứu thơ trung đại, cận hiện đại. Thơ là bộ phận tương đối lớn của văn học viết, tức là văn học có tác giả, nó chịu sự chi phối của hoàn cảnh cảm hứng, bối cảnh thời đại và phong cách riêng của nhà thơ. Mỗi thể thơ lại có những đặc trưng riêng. Bao gồm: thơ Đường luật Trung đại, thơ mới và thơ Cách mạng.
1.1.3. Thơ trữ tình hiện đại trong nhà trường THPT:
Chương trình Ngữ văn hiện hành trong trường THPT, sự phân bổ số lượng tác phẩm thơ trữ tình hiện đại với một lượng vừa phải, chủ yếu tập trung trong SGK Ngữ văn 11, tập 2 và SGK Ngữ văn 12, tập 1.
Với một số lượng không phải là nhiều nên đa số những tác giả được chọn đưa thơ vào SGK đều là những tên tuổi tiểu biểu trong thơ đàn Việt Nam.
1.2. VẤN ĐỀ GIẢNG DẠY THƠ TRỮ TÌNH TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG:
Văn bản văn chương là sự hư cấu. Bằng một bài thơ, tác giả trình bày một bức tranh về thế giới bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Thế giới đó thường có thể có hoặc không có trong thực tế, cho nên, thơ trữ tình là thế giới khách quan được chủ quan hoá và được cá thể hoá. Như vậy, nguồn gốc và điểm tựa của trữ tình là ở chủ thể và chủ thể là người duy nhất mang nội dung.
Cái đặc biệt của một bài thơ trữ tình là luôn có một người nói bên trong về quan hệ của họ với thế giới (thiên nhiên, xã hội, gia đình, bạn bè, có khi đề cập cả tới những vấn đề lớn lao), về mối quan hệ của họ với con người (hi vọng, thất vọng, nỗi buồn, tình bạn, tình yêu, sự trung thành hoặc phản bội...). Chẳng hạn các nhà thơ tìm hiểu: Con người là gì? Tôi là ai? Tôi muốn gì và muốn như thế nào ?...
Trong thơ trữ tình, tình cảm có vai trò hết sức quan trọng. Tình cảm trong thơ gắn trực tiếp với chủ thể sáng tạo nhưng không phải là một yếu tố đơn độc, tự nó nảy sinh và phát triển. Thực ra đó chính là quá trình tích tụ những cảm xúc, những suy nghĩ của nhà thơ do cuộc sống tác động và tạo nên. Không có cuộc sống, không có thơ.
Vì thơ thường ngắn hơn các thể loại khác (tự sự, kịch) nên các tác giả có thể thể hiện cảm xúc về con người, cuộc sống, thiên nhiên... tập trung hơn thông qua hình tượng thơ, đặc biệt thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, qua dòng thơ, qua vần điệu, tiết tấu... Nhiều khi, cảm xúc vượt ra ngoài cái vỏ chật hẹp của ngôn từ, cho nên thơ thường lời ít, ý khôn cùng .
Vì những vấn đề trên, khi dạy thơ, ta có thể tạo điều kiện cho học sinh phát hiện đời sống. Nó động viên học sinh phải suy nghĩ, trăn trở để tìm kiếm ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như nét đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà thơ. Việc học thơ còn giúp cho các em nhận thức được các phạm trù thẩm mĩ như: Cái đẹp, cái cao thượng, cái hài hoà, cái xót thương...
Chính vì thế, để dạy học thơ trữ tình còn phải sử dụng những phương pháp và biện pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể.
Tuy nhiên, thực tế giảng dạy tại nhà trường phổ thông hiện nay cho thấy, giáo viên dạy học tác phẩm văn chương phần lớn chỉ quan tâm đến thể loại, không quan tâm hoặc chưa quan tâm đúng mức tính chất của loại thể trong thể. Ngay cả sách tham khảo và những tài liệu hướng dẫn cũng chưa chú ý đến loại thể trong quá trình phân tích tác phẩm văn học, đặc biệt là vấn đề chất của loại trong thể. Hệ quả tất yếu của những nguyên nhân trên dẫn đến việc nhiều tác phẩm thơ trữ tình hiện đại chưa được khai thác “đúng” và “trúng”.
Do vậy, chúng tôi hi vọng, với bài nghiên cứu này chúng tôi có thể góp phần nhỏ vào việc tìm ra cách dạy học thơ trữ tình nói riêng, dạy học văn nói chung, một môn học vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật trong nhà trường.
Chương 2
VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIỜ ĐỌC – HIỂU BÀI THƠ “TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG
2.1. KHÁI NIỆM VỀ CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC:
Đề cập về đôi nét tình hình xác định PPDH nói chung hiện nay. Trong thực tiễn dạy học, còn có hiện tượng chưa thống nhất hoặc lẫn lộn về sử dụng các khái niệm phương pháp, biện pháp dạy học.
Tuy nhiên, quan niệm về xây dựng vận dụng cách thức dạy học quen dùng lâu nay thường thấy PPDH là khái niệm bao trùm, được sử dụng rộng rãi và thường xuyên trong giờ học. Còn biện pháp là cấp độ cụ thể nằm trong PPDH. Ngoài những khái niệm quen dùng đó, hiện nay người ta còn nói tới HTDH, KTDH.
Biện pháp dạy học là gì? Từ “biện pháp” có nghĩa là “cách làm, cách thức tiến hành giải quyết một vấn đề cụ thể” (Đại từ điển tiếng Việt tr. 161). Suy ra, có thể hiểu biện pháp dạy học là cách làm, cách thức giải quyết một vấn đề hay tình huống cụ thể trong dạy học.
Bởi thế, N.I Kudriashep quan niệm: “Phương pháp dạy học phần lớn được thực hiện thông qua các biện pháp dạy học cụ thể mà giáo viên sử dụng. Biện pháp dạy học là các chi tiết của phương pháp, là các yếu tố, các bộ phận cấu thành hoặc các bước cụ thể trong công việc nhận thức nảy sinh ra khi vận dụng một phương pháp nhất định” (Z. Ia Rez (chủ biên): Phương pháp luận dạy Văn học, tr. 37).
Hiểu như thế thì BPDH trong giờ văn là hết sức đa dạng phong phú, vì mỗi PPDH đều có những “yếu tố, bộ phận” cấu thành có tác dụng cụ thể hóa làm cho PPDH linh hoạt hiệu quả hơn.
Do đó, có thể nói, trong giờ đọc - hiểu văn bản - tác phẩm có những PPDH được sử dụng thì đồng thời có những BPDH đi kèm. Điều then chốt là giáo viên phải biết lựa chọn BP nào thích hợp với PPDH đã sử dụng theo mục đích yêu cầu dạy học và thời gian ở trên lớp.
Có thể kể tới những biện pháp dạy học văn thường được vận dụng:
2.1.1. Vấn đáp (đàm thoại):
Vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.
2.1.2. Đặt và giải quyết vấn đề:
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo.
2.1.3. Hoạt động nhóm:
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 2, 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
2.1.4. Đóng vai:
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.
2.1.5. Động não:
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
Trong quá trình dạy học, giáo viên có thể linh hoạt sử dụng những biện pháp dạy học khác (ngoài những những biện pháp đã nêu trên) phù hợp với yêu cầu bài học.
2.2.6. Đọc sáng tạo:
Đọc sáng tạo là không phải tự đưa ra một lối đọc riêng, tự sáng tạo ra kiểu đọc văn bản đặc thù của mình. Đọc sáng tạo trước hết là rèn luyện kĩ năng phát âm, luyện giọng, thể hiện năng lực diễn tả tái hiện các tình tiết, đặc điểm của nhân vật,…
Đọc sáng tạo diễn ra dưới hình thức lắng nghe giọng đọc của người khác, nắm ưu, khuyết điểm, sau đó đưa ra giọng đọc phù hợp với thể loại tác phẩm.
2.2. NHỮNG LƯU Ý KHI DẠY THƠ TRỮ TÌNH TRONG TRƯỜNG THPT:
Trong nhà trường, dạy học thơ rất khó, cho nên khi phân tích thơ cần chú ý giúp học sinh khai thác những điểm sau:
Phân tích tiêu đề bài thơ và giọng điệu chủ đạo của tác phẩm: Tiêu đề một tác phẩm thường chứa đựng những thông tin quan trọng đối với người đọc về ý nghĩa của toàn bộ tác phẩm.
Đọc và quan sát bước đầu để nắm chắc bài thơ: Qua việc đọc , phải xác định giọng điệu chủ đạo của bài thơ.
Xác định chủ đề bài thơ: Chủ đề lưu giữ tư tưởng chủ đạo của bài thơ mà nhà thơ đã khái quát hoá một vấn đề xã hội hoặc đời sống đặc biệt. Chủ đề xác định cách xây dựng và cách thể hiện bài thơ. Do vậy hiểu được chủ đề là bước quan trọng đầu tiên để có thể phân tích được bài thơ.
Xác định hình tượng thơ và âm điệu chủ đạo: Một bài thơ luôn luôn là sự thống nhất giữa hình tượng, âm điệu và ý nghĩa. Ba lĩnh vực này được đặt ở những phần khác nhau. Những phần đó có tác động qua lại chặt chẽ.
Nghiên cứu các cấp độ hình tượng của bài thơ: Phân tích chủ thể trữ tình và tình huống thơ, phân tích hình tượng trữ tình, phân tích các cung bậc của giọng điệu thơ.
Với việc giáo viên vận dụng một cách hợp lý các biện pháp dạy học cùng với việc xác định các yêu cầu như trên, chúng tôi tin rằng việc dạy và học thơ trữ tình nói riêng, môn văn nói chung trong trường THPT ngày một khởi sắc hơn.
2.3. VẬN DỤNG CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIỜ ĐỌC – HIỂU BÀI THƠ “TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG:
2.3.1. Khái quát về bài thơ “Tây tiến” của Quang Dũng:
- Vận động của nền văn học nước nhà giai đoạn 1930 -1975.
- Hoàn cảnh ra đời bài thơ.
- Vị trí của “Tây tiến” trong cấu trúc chương trình Ngữ văn THPT.
2.3.2. Vận dụng các biện pháp dạy học tích cực trong giờ đọc – hiểu “Tây tiến” – Quang Dũng:
a. Những cơ sở khoa học của việc vận dụng các biện pháp dạy học phù hợp vào trong giờ đọc – hiểu “Tây tiến
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn.doc