Đề tài Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá ứng dụng trong Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam

Chỉ số là số tương đối (đơn vị là lần hoặc %) biểu hiện quan hệ so sánh hai mức độ của hiện tượng.

Đối tượng nghiên cứu của phương pháp chỉ số là các hiện tượng phức tạp, gồm các phần tử, đơn vị có đặc điểm, tính chất khác nhau mà người ta không thể cộng trực tiếp để so sánh.

Đặc điểm của phương pháp chỉ số:

+ Khi muốn so sánh các mức độ của hiện tượng kinh tế phức tạp, trước hết phải chuyển các đơn vị, phần tử, hiện tượng cá biệt có tính chất, đặc điểm khác nhau về một dạng đồng nhất có thể trực tiếp cộng chúng lại với nhau.

+ Khi có nhiều nhân tố cùng tham gia vào việc tính toán phải giả định chỉ có một nhân tố nào đó thay đổi còn các nhân tố khác thì không đổi (gọi là quyền số) nhằm loại trừ ảnh hưởng biến động của các nhân tố này tới kết quả so sánh.

 

doc37 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 931 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá ứng dụng trong Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
+ Xuất khẩu tạo ra nguồn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng của nhân dân. + Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. 2.2. Vai trò của nhập khẩu Bên cạnh xuất khẩu thì nhập khẩu cũng có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhập khẩu góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Do nông sản xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong sản phẩm xuất khẩu Việt Nam hiện nay đã thúc đẩy công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu. Mặt khác, việc nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị đã tạo điều kiện phát triển sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng và tư liệu sản xuất cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Việc nhập khẩu máy móc thiết bị đã góp phần đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất, nhờ đó trình độ sản xuất và năng suất lao động được nâng cao. Đồng thời với việc tiếp cận thị trường quốc tế đã nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Nhập khẩu nhằm bổ sung những hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những mặt hàng mà nó có lợi thế so sánh lớn hơn so với trong nước. Nhập khẩu thường có hai loại là nhập khẩu thay thế và nhập khẩu bổ sung. Chúng ta cần phải có một chiến lược đúng đắn trong nhập khẩu thì sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt là làm cân đối giữa công cụ lao động, đối tượng lao động và lao động. Như vậy, hoạt động xuất nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân bởi vì hoạt động xuất khẩu nâng cao thu nhập của nhân dân và hoạt động nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, góp phần mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. 3. Sự tác động tích cực của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam là một nước đang phát triển, hoạt động xuất nhập khẩu không những làm sứ mệnh đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với thế giới mà còn tác động tích cực đến nền kinh tế trong nước thể hiện ở một số khía cạnh sau: 3.1. Làm tăng nguồn ngoại tệ trong nước Xuất nhập khẩu hàng hoá, máy móc mang lại nguồn thu nhập ngoại tệ chủ yếu cho đất nước, góp phần quan trọng trong việc cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán, tăng lượng dự trữ ngoại hối, tăng khả năng nhập máy móc thiết bị và nhiên liệu để phát triển công nghiệp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, với một nền công nghiệp còn thấp thì các hoạt động nhập khẩu ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đối với nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu đã trở thành nguồn tích luỹ cơ bản cho giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. 3.2. Tăng thu nhập Nhờ có xuất nhập khẩu mà khả năng thu nhập của nền kinh tế quốc dân tăng lên, từ đó tạo ra nguồn thu để nhập các máy móc, thiết bị, khoa học công nghệ mới, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế và đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá. Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về các mặt hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tái sản xuất và tạo công ăn việc làm cho người lao động. 3.3. Tạo điều kiện để phát triển các ngành sản xuất Hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bổ sung kịp thời và làm giảm sự mất cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế ổn định và mạnh mẽ. Thông qua các hoạt động xuất nhập khẩu mà các ngành công nghiệp chế biến và sản xuất hàng hoá phát triển. Sự phát triển của các ngành này đã đáp ứng những kỹ thuật tiên tiến nhằm sản xuất hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật cao, chất lượng tốt, rút ngắn thời gian sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự cạnh tranh là tất yếu và nó đã dẫn đến sự thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh doanh. Vì vậy, muốn tồn tại và phát triển được, các doanh nghiệp cần phải hoạt động có hiệu quả nhằm thu lợi nhuận cao với chi phí ít nhất. Muốn vậy các doanh ngiệp cần phải áp dụng kịp thời những tiến bộ của khoa hạc công nghệ mới vào trong sản xuất cũng như kinh doanh, đồng thời phải có đội ngũ sáng tạo trong công việc. Đối với nước ta trong những năm gần đây, nhập khẩu còn có vai trò tích cực đến việc thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ra nước ngoài. 3.4. Giải quyết việc làm Có thể nói việc làm là một vấn đề rất nan giải ngay cả thời gian trước đây và hiện giờ. Từ khi hoạt động xuất nhập khẩu ra đời và phát triển, nó đã làm nhẹ đi gánh nặng cho Nhà nước cũng như Chính phủ và các nhà chức trách. Nhờ có hoạt động xuất nhập khẩu mà hàng chục vạn người có công ăn việc làm, không những thế mà còn có thu nhập cao hơn các ngành khác. 4. Thực trạng xuất nhập khẩu của nước ta Ngành ngoại thương nước ta từ năm 1979 trở về trước được tổ chức theo cơ chế tập trung quan hệ ngoại thương của nước ta chủ yếu là với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa trước đây. Nhà nước chịu trách nhiệm ký kết các nghị định thư với các nước và giao chỉ tiêu kế hoạch xuất nhập khẩu cho các đơn vị chuyên doanh trên cơ sở những nghị định thư đó. Trên cơ sở đó các đơn vị ký hợp đồng ngoại và giao hàng cho các nước. Mọi hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đều thông qua các đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương (gọi là các Tổng công ty ngoại thương Trung ương) thuộc quản lý Bộ Ngoại thương. Các Bộ, Ngành khác và các địa phương có nhiệm vụ sản xuất, khai thác, thu mua rồi giao hàng cho các đơn vị kinh doanh của Bộ ngoại thương xuất khẩu, nhập khẩu theo kế hoạch Nhà nước. Từ năm 1980 đến nay, Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách mới nhằm khuyến khích, mở rộng và tăng hiệu quả của hoạt động ngoại thương, Nhà nước trao quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho các Bộ, Ngành sản xuất, thực hiện chủ trương khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ của mỗi Bộ, Ngành. Đồng thời để phát huy tiềm năng của các địa phương, Nhà nước cũng cho phép nhiều địa phương có đủ những điều kiện do Nhà nước quy định, được phép trực tiếp xuất, nhập khẩu với nước ngoài. Với chủ trương thay đổi chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, số đơn vị kinh doanh ngoại thương tăng lên nhanh chóng. Năm 1979, số đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương là 11 đơn vị, không có đơn vị kinh doanh nào thuộc địa phương. Năm 1985, đã có 23 đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương và 15 đơn vị kinh doanh ngoại thương địa phương. Năm 1990, tổng số các đơn vị được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp thường xuyên và từng chuyến là 270 đơn vị trong đó 170 đơn vị TW và 163 đơn vị địa phương. Năm 1991, số đơn vị xuất khẩu trực tiếp là trên 400 đơn vị, đến nay là hơn 7000 đơn vị. Sự phát triển của hoạt động ngoại thương không chỉ thể hiện ở sự gia tăng mạnh mẽ số lượng các đơn vị xuất nhập khẩu mà kim ngạch xuất nhập khẩu qua mỗi năm đều tăng đáng kể, nhất là trong những năm gần đây. Năm 1976, tổng mức lưu chuyển ngoại thương của cả nước chỉ đạt 1,2 tỷ USD, năm 1985 là 2,6 tỷ USD, năm 1990 là 5,1 tỷ USD, năm 1995 là 13,6 tỷ USD và năm 2000 đạt trên 30 tỷ USD, ssơ bộ năm 2001 là 31.1 tỷ USD. Số nước có quan hệ thương mại với Việt nam cũng tăng lên nhanh chóng, năm 1985 nước ta có quan hệ ngoại thương với 67 nước, năm 1990 là 57 nước, đến nay con số này đã là trên 160 nước. Hoạt động xuất nhập khẩu đã đóng góp phần quan trọng trong những thành tựu kinh tế xã hội của đất nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, tăng trưởng kinh tế hàng năm trên 8%, lạm phát giảm từ 3 con số vào cuối những năm 80 xuống còn 2 con số vào đầu những năm 90 và còn một con số từ năm 1996 đến nay. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Kết quả của hoạt động của ngoại thương được tạo ra và gắn liền với hệ thống thống kê xuất nhập khẩu. Mặt khác, những đặc điểm của hệ thống thống kê xuất nhập khẩu cũng chịu ảnh hưởng nhiều chính sách, cơ chế điều hành, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương. 5. Vai trò của thống kê xuất nhập khẩu Thống kê xuất nhập khẩu đảm bảo cung cấp những số liệu cần thiết cho lãnh đạo và các cơ quan quản lý, dùng làm cơ sở để định ra các quyết định đúng đắn và xây dựng kế hoạch cho công tác xuất nhập khẩu. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động thống kê xuất nhập khẩu là kiểm tra mức độ hoàn thành trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, kế hoạch nhập khẩu và phân phối trên cơ sở các chỉ tiêu đã được giao. Qua các số liệu thống kê về xuất nhập khẩu hàng hoá của tháng, quý, năm của các đơn vị hoạt động xuất nhập khẩu. Tổng Cục Thống kê sẽ lập nên các Bảng thống kê tổng hợp tình hình xuất nhập khẩu. Số liệu của xuất nhập khẩu nói lên mối quan hệ của nước ta với các nước khác, quá trình tham gia vào sự phân công và hợp tác kinh tế quốc tế. Số liệu của thống kê xuất nhập khẩu còn giúp Ban lãnh đạo đề ra các chính sách để làm cho nền kinh tế phát triển một cách toàn diện, ổn định... Thống kê xuất nhập khẩu là một chỉ tiêu thống kê kinh tế quan trọng trong đáp ứng nhu cầu sử dụng. Cùng với các thống kê kinh tế cơ bản khác, thống kê xuất nhập khẩu góp phần tính toán các chỉ tiêu của hệ thống tài khoản quốc gia, cán cân thanh toán quốc tế, tạo ra bức tranh của nền kinh tế đất nước, đồng thời thể hiện mối giao lưu kinh tế của nước ta. Số liệu thống kê xuất nhập khẩu có thể được thu từ nhiều nguồn: + Báo cáo định kỳ của các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp. + Tờ khai Hải quan về xuất nhập khẩu. + Các cuộc điều tra doanh nghiệp bổ sung thống kê về thuế giá trị gia tăng, thống kê về trao đổi tiền tệ (qua hệ thống ngân hàng). II. hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình xuất nhập khẩu 1.Quy mô xuất nhập khẩu hàng hoá Đây là chỉ tiêu biểu hiện quy mô hàng hoá trao đổi. Quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa là chỉ tiêu thời kỳ và là chỉ tiêu tuyệt đối có thể tính theo đơn vị hiện vật ( lượng hàng hoá xuất nhập khẩu ) hoặc theo đơn vị giá trị ( mức xuất nhập khẩu hàng hóa ). 1.1. Lượng hàng hoá xuất – nhập khẩu ( q ): Chỉ tiêu này biểu hiện khối lượng, số lượng hàng hóa được trao đổi và chỉ được xác định cho từng loại hàng hóa. Khi tính chỉ tiêu quy mô xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung, lượng lưu chuyển hàng hóa nói riêng, cần lưu ý một số chỉ tiêu đặc thù sau: + Lượng hàng hóa mua vào ( qM ): lượng hàng hóa nhập khẩu + Lượng hàng hóa bán ra ( qB ): lượng hàng hóa xuất khẩu 1.2. Mức xuất - nhập khẩu hàng hóa ( Q = pq ): chỉ tiêu này biểu hiện giá trị hàng hoá được trao đổi, mua bán, có thể tính theo giá hiện hành, giá so sánh hay giá cố định, có thể được xác định cho từng loại hàng hóa cũng như nhiều loại hàng hóa khác nhau. Mức xuất - nhập khẩu hàng hóa theo giá hiện hành cho phép nghiên cứu các mối liên hệ kinh tế thực tế. Mức xuất – nhập khẩu hàng hóa theo giá so sánh hay giá cố định cho phép phân tích biến động mức xuất – nhập khẩu hàng hóa. Quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa có thể xét là quy mô xuất nhập khẩu nói chung hoặc riêng rẽ cho xuất và nhập. Hoạt động xuất và nhập lại có thể nghiên cứu chi tiết hơn: xuất từng mặt hàng, xuất chung ( tổng xuất ra ), nhập từng mặt hàng, nhập chung ( tổng nhập vào ). Người ta cũng cần và có thể tính các chỉ tiêu xuất nhập khẩu hàng hóa theo địa điểm, đất nước trao xuất nhập khẩu hàng hóa. Để xác định chính xác quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa cần làm sáng tỏ vấn đề thời điểm được tính là xuất hoặc nhập. Cần thống nhất cách giải quyết trong trường hợp thu tiền trước, trả hàng dần hoặc trao hàng trước trả tiền dần ( trả góp ). 2. Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa là chỉ tiêu thời kỳ và là chỉ tiêu tuyệt đối (), tương đối () Cấu thành và kết cấu xuất nhập khẩu hàng hóa có thể xét theo nhiều tiêu thức khác nhau. Theo mối tiêu thức, chỉ tiêu tính được phản ánh một đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu và có tác dụng riêng. Có thể nghiên cứu cấu thành và kết cấu xuất nhập khẩu hàng hóa theo những tiêu thức chủ yếu sau đây: 2.1. Theo nguồn hàng Chỉ tiêu này được tính cho hàng hóa nhập khẩu: + Xét toàn bộ nền kinh tế quốc dân + Xét cho từng doanh nghiệp Nghiên cứu cấu thành và kết cấu xuất nhập khẩu hàng hóa theo nguồn hàng cho phép nghiên cứu thị trường đầu vào của các đơn vị hoạt động kinh doanh thương mại. 2.2. Theo nhóm hàng, loại hàng, ngành hàng Chỉ tiêu này được tính cho cả hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa xuất khẩu, có thể được tính cho phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như từng doanh nghiệp. Theo tiêu thức này, có thể chia toàn bộ hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu thành các nhóm nông sản và công nghệ phẩm, lương thực thực phẩm và phi lương thực thực phẩm Nó cho phép phản ánh đặc điểm hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu, phân tích biến động các chỉ tiêu giá bình quân, tốc độ chu chuyển hàng hóa bình quân, tỷ suất chi phí lưu thông bình quân và tỷ suất lợi nhuận bình quân 2.3. Theo kỹ thuật bảo quản Cấu thành và kết cấu xuất nhập khẩu hàng hóa theo kỹ thuật bảo quản được tính chủ yếu cho hàng hóa nhập khẩu, trên phạm vi từng doanh nghiệp. Theo tiêu thực này toàn bộ hàng hóa được chia thành hàng hóa chậm hư hỏng ít hao hụt và hàng hóa dễ hư hỏng hao hụt. Nó cho phép phân tích ảnh hưởng đặc điểm này đến tổng thất và chi phí lưu thông 2.4. Theo đối tượng bán Chỉ tiêu này được tính chủ yếu cho hàng hóa xuất khẩu trên phạm vi từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Theo tiêu thức này, có thể chia hàng hóa xuất khẩu thành xuất cho từng nước, khu vực. Chỉ tiêu cấu thành và kết cấu hàng hóa xuất khẩu theo đối tượng xuất cho phép nghiên cứu thị trường đầu ra 2.5. Theo bộ phận hay đơn vị thành viên Theo tiêu thức này, toàn bộ hàng hóa xuất khẩu hoặc nhập khẩu được chia thành xuất nhập khẩu hàng hóa của thương nghiệp quốc doanh, tập thể hay tư thương. Cũng có thể phân toàn bộ xuất nhập khẩu hàng hóa thành xuất nhập khẩu hàng hóa của thương nghiệp các địa phương. Nghiên cứu cấu thành và kết cấu xuất nhập khẩu hàng hóa theo tiêu thức này cho phép xác định ảnh hưởng của nhân tố này đến biến động các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ chu chuyển hàng hóa, tỷ suất và tổng mức chi phí lưu thông, tỷ suất và tổng mức lợi nhuận. Chương ii Một số phương pháp thống kê phân tích tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa i. những vấn đề chung Phân tích thống kê xuất nhập khẩu hàng hóa có nhiệm vụ nêu lên xu hướng, mức độ biển động của các chỉ tiêu quy mô và cơ cấu đã xét ở trên trong thời gian, không gian và so mục tiêu ( kế hoạch, định mức ). Các phương pháp có thể ứng dụng để thực hiện nhiệm vụ đã được chỉ ra là: Phân tổ, số tương đối, dãy số thời gian, so sánh hai dãy số song song, đồ thị, chỉ số, hồi quy - tương quan, bảng thống kê. ii. đặc điểm vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa 1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, nội dung của phương pháp dãy số thời gian Dãy số thời gian là dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian . Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của hiện tượng, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự phát triển, đồng thời để dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai Mỗi dãy số thời gian được cấu tạo bởi hai thành phần là thời gian và chỉ tiêu về hiện tượng được ngiên cứu. Thời gian có thể là giờ ngày, tuần, tháng, quý năm...Độ dài giữa hai thời gian liền nhau được gọi là khoảng cách thời gian. Chỉ tiêu về hiện tượng được ngiên cứu có thể là số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân. Trị số của chỉ tiêu được gọi là mức độ của dãy số. Căn cứ vào đặc điểm tồn tại về quy mô của hiện tượng qua thời gian có thể phân biệt dãy số thời kỳ và dãy số thời điểm + Dãy số thời kỳ: Biểu hiện quy mô ( khối lượng ) của hiện tượng trong từng khoảng thời gian nhất định. Trong dãy số thời kỳ các mức độ là những số tuyệt đối thời kỳ, do đó độ dài của khoảng cách thời gian ảnh hưởng trực tiếp đến trị số của chỉ tiêu và có thể cộng các trị số của chỉ tiêu để phản ánh quy mô của hiện tượng trong khoảng thời gian dài hơn. + Dãy số thời điểm: Biểu hiện quy mô ( khối lượng ) của hiện tượng tại những thời điểm nhất định. Mức độ của hiện tượng ở thời điểm sau thường bao gồm toàn bộ hoặc một bộ phận mức độ của hiện tượng ở thời điểm trước đó. Vì vậy việc cộng các trị số của chỉ tiêu không phản ánh quy mô của hiện tượng. Yêu cầu cơ bản khi xây dựng một dãy số thời gian là phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số. Muốn vậy thì nội dung và phương pháp tính toán chỉ tiêu qua thời gian phải thống nhất, phạm vi của hiện tượng nghiên cứu trước sau phải nhất trí, các khoảng cách thời gian trong dãy số nên bằng nhau ( nhất là đối với dãy số thời kỳ ). Để phản ánh đặc điểm biến động qua thời gian của hiện tương được nghiên cứu, người ta thường tính các chỉ tiêu sau: * Mức độ trung bình theo thời gian Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại biểu của tất cả các mức độ tuyệt đối trong một dãy số thời gian. Tuỳ theo dãy số thời gian là dãy số thời kỳ hay dãy số thời điểm người ta có cách tính khác nhau. Đối với dãy số thời kỳ, mức độ bình quân theo thời gian được xác định theo công thức: Trong đó: : Mức độ bình quân theo thời gian. yi: Các mức độ dãy số thời kỳ. (i=1,2n) n: Số các mức độ trong dãy số. Đối với dãy số thời điểm có thể có khoảng cách thời gian bằng nhau hoặc không bằng nhau. Vì vậy phải có các phương pháp tính khác nhau trong mỗi trường hợp này. + Trường hợp dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau để tính mức độ bình quân ta có công thức: yi: là mức độ của dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau.(i=1,2n) + Trường hợp dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian không bằng nhau ta có mức độ bình quân theo thời gian được tính theo công thức: ti : Là độ dài thời gian có các mức yi tương ứng. (i=1,2..n) * Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về mức giữa hai thời gian nghiên cứu. Nếu mức độ của hiện tượng tăng lên thì trị số của chỉ tiêu mang dấu dương và ngược lại mang dấu âm. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, ta có các chỉ tiêu về lượng tăng ( hoặc giảm ) sau đây: + Lượng tăng ( hoặc giảm ) tuyệt đối liên hoàn ( hay từng thời kỳ ) là hiệu số giữa mức độ kỳ nghiên cứu ( yi ) và mức độ kỳ đứng liền trước đó ( yi-1 ). Ký hiệu là di. di = yi – yi-1. (i = 2, 3, .. , n) Với yi: Mức độ nghiên cứu. yi-1: Mức độ liền trước kỳ nghiên cứu. + Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc (hay tính dồn) là hiệu số giữa mức độ kỳ nghiên cứu (yi) và mức độ của một kỳ nào đó được chọn làm gốc. Ký hiệu là các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc Di = yi – y1 (i = 1, 2, .. , n) Với . yi: Mức độ của hiện tượng ở kỳ nghiên cứu. y1: Mức độ của hiện tượng kỳ gốc cố định. Giữa lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn và định gốc có mối quan hệ tổng. (i = 1, 2, , n) + Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối trung bình là mức trung bình của các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn. * Tốc độ phát triển Tốc độ phát triển là số tương đối (thường được biểu hiện bằng lần hoặc phần trăm) phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng qua thời gian. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu ta có các loại tốc độ phát triển sau: + Tốc độ phát triển liên hoàn (ti): phản ánh sự phát triển của hiện tượng giữa hai thời gian liền nhau: (i = 2,3,n) Trong đó: yi : Mức độ của hiện tượng ở thời gian i. yi-1: Mức độ của hiện tượng ở thời gian liền trước. + Tốc độ phát triển định gốc (Ti): phản ánh sự biến động của hiện tượng trong những khoảng thời gian dài; thường lầy mức độ đầu làm gốc. (i = 2,3,..n) Trong đó: yi: Mức độ của hiện tượng ở thời gian i. y1: Mức độ của hiện tượng ở thời gian đầu tiên của dãy số. Giữa tốc độ phát triển liên hoàn và tốc độ phát triển định gốc có mối liên hệsau đây. Thứ nhất: Tích tốc độ phát triển liên hoàn bằng tốc độ phát triển định gốc. t2. t3 tn = Tn Pti = Ti (i = 2,3,..n) Thứ hai: Thương của hai tốc độ phát triển định gốc liền nhau bằng tốc độ phát triển liên hoàn giữa hai thời gian đó. ( i=2,3...n) + Tốc độ phát triển bình quân: là trị số đại biểu của các tốc độ phát triển liên hoàn. Khi sử dụng chỉ tiêu tốc độ phát triển bình quân, chỉ nên tính với những hiện tượng phát triển theo một xu hướng nhất định (cùng tăng hoặc cùng giảm). * Tốc độ tăng (hoặc giảm) Phản ánh mức độ của hiện tượng giữa hai thời gian đã tăng hoặc giảm bao nhiêu lần (hay bao nhiêu %). Tương ứng với các tốc độ phát triển, ta có các tốc độ tăng (hoặc giảm) sau đây: + Tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn ai (i= 2,3,..n) là tỷ số so sánh giữa lượng tăng (hoặc giảm) liên hoàn với mức độ kỳ gốc liên hoàn. ai = ti – 1. Nếu tính bằng % thì. ai(%) = ti(%) – 100 + Tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc Ai (i= 2,3,..n) là tỷ số giữa lượng tăng (hoặc giảm) định gốc với mức độ kỳ gốc cố định. Nếu Ti tính bằng % thì. Ai(%) = Ti(%) – 100 + Tốc độ tăng (hoặc giảm) trung bình là chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng hoặc giảm đại biểu trong suốt thời gian nghiên cứu. Nếu ký hiệu là tốc độ tăng hoặc giảm trung bình thì: Hoặc * Giá trị tuyệt đối của 1% tăng (hoặc giảm) Ký hiệu là: gi (i = 2,3,...,n) Đây là chỉ tiêu phản ánh cứ 1% tăng (hoặc giảm) của tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn thì tương ứng với một trị số tuyệt đối là bao nhiêu. (i = 2, 3, , n) Trong thực tế người ta không sử dụng giá trị tuyệt đối của 1% tăng hoặc giảm định gốc vì nó luôn là một hằng số và bằng . 2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, nội dung của phương pháp chỉ số Chỉ số là số tương đối (đơn vị là lần hoặc %) biểu hiện quan hệ so sánh hai mức độ của hiện tượng. Đối tượng nghiên cứu của phương pháp chỉ số là các hiện tượng phức tạp, gồm các phần tử, đơn vị có đặc điểm, tính chất khác nhau mà người ta không thể cộng trực tiếp để so sánh. Đặc điểm của phương pháp chỉ số: + Khi muốn so sánh các mức độ của hiện tượng kinh tế phức tạp, trước hết phải chuyển các đơn vị, phần tử, hiện tượng cá biệt có tính chất, đặc điểm khác nhau về một dạng đồng nhất có thể trực tiếp cộng chúng lại với nhau. + Khi có nhiều nhân tố cùng tham gia vào việc tính toán phải giả định chỉ có một nhân tố nào đó thay đổi còn các nhân tố khác thì không đổi (gọi là quyền số) nhằm loại trừ ảnh hưởng biến động của các nhân tố này tới kết quả so sánh. Khi nghiên cứu sự biến động của nhân tố chất lượng thì người ta cố định nhân tố số lượng ở kỳ báo cáo còn khi ta nghiên cứu sự biến động của nhân tố số lượng, người ta thường cố định nhân tố chất lượng ở kỳ gốc. Chỉ số có nhiều tác dụng khác nhau tuỳ theo từng loại. Chỉ số được dùng để phản ánh sự biến động của phần tử qua thời gian gọi là chỉ số thời gian; chỉ số phản ánh sự biến động của hiện tượng qua không gian được gọi là chỉ số không gian; chỉ số phản ánh nhiệm vụ kế hoạch gọi là chỉ số kế hoạch. Ngoài ra, chỉ số còn được dùng để phân tích vai trò ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với sự biến động của toàn bộ hiện tượng. Để phân loại chỉ số, người ta thường căn cứ vào phạm vi tính hoặc tính chất của chỉ tiêu mà chỉ số phản ánh. * Căn cứ vào phạm vi tính, phân chỉ số thành hai loại. + Chỉ số đơn (chỉ số cá thể) nêu lên sự biến động của từng đơn vị cá biệt. Ví dụ: chỉ số giá của một loại hàng hoá, chỉ số lượng của từng mặt hàng. + Chỉ số tổng hợp (chỉ số chung) là chỉ số phản ánh sự biến động của hiện tượng phức tạp gồm nhiều đơn vị hoặc phần tử khác nhau. Ví dụ: chỉ số giá của một ngành hàng, lượng hàng hoá tiêu thụ của một số mặt hàng hay của tất cả các mặt hàng * Căn cứ vào tính chất của chỉ tiêu mà chỉ số phản ánh, gồm có hai loại chỉ số: + Chỉ số chỉ tiêu chất lượng phản ánh sự biến động chỉ tiêu chất lượng nào đó. Ví dụ: chỉ số giá thành, chỉ số giá cả + Chỉ số chỉ tiêu khối lượng phản ánh sự biến động của một chỉ tiêu khối lượng nào đó. Ví dụ: chỉ số khối lượng sản phẩm sản xuất, chỉ số khối lượng hàng hoá tiêu thụ Việc phân chia này được áp dụng chủ yếu với một số chỉ tiêu thông thường trong từng mối quan hệ cụ thể.Dưới đây là một vài nét về phương pháp tính chỉ số, cụ thể là với hai chỉ tiêu giá cả (p) và chỉ tiêu lượng hàng hoá tiêu thụ (q), là hai chỉ tiêu đại diện cho hai dòng chỉ tiêu chất lượng và khối lượng. 2.1. Chỉ số đơn (chỉ số cá thể) + Đối với chỉ tiêu giá cả: + Đối với chỉ tiêu sản lượng hàng hoá tiêu thụ: Trong đó: + p0 và p1 giá cả hàng hoá nào đó ở kỳ gốc và kỳ nghiên cứu. + q0 và q1 sản lượng hàng hoá nào đớ ở kỳ gốc và kỳ nghiên cứu. 2.2. Chỉ số tổng hợp 2.2.1. Chỉ số phát triển: * Chỉ số phát triển về giá cả: Trong đó: Ip: Chỉ số chung về giá cả. p1, p0: giá cả mỗi mặt hàng kỳ nghiên cứu và kỳ gốc. q: lượng hàng hoá tiêu thụ của mỗi mặt hàng được cố định ở một kỳ nào đó đóng vai trò là quyền số. + Nếu chọn quyền số ở kỳ gốc, ta có chỉ số chung về giá cả: + Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số chung về giá cả: + Nếu sự sai lệch giữa hai chỉ số trên là đáng kể thì dùng chỉ số Fisher: * Chỉ số phát triển về lượng hàng hoá tiêu thụ: Tron

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT127.doc
Tài liệu liên quan