Đề tài Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá thành sản phẩm

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

I- Lý luận chung về phương pháp tính giá 4

1. Khái niệm về phương pháp tính giá: 4

2. Sự cần thiết phải có phương pháp tính giá 4

3. Hình thức biểu hiện của phương pháp tính giá. 5

4. ý nghĩa, tính khoa học phương pháp tính giá 5

5. Những yêu cầu và nguyên tắc tính giá tài sản 8

5.1. Yêu cầu 8

5.2. Nguyên tắc tính giá 10

6. Trình tự tính giá chung đối với các loại tài sản 16

 

II- Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá của tài sản trong quá trình hoạt động của đơn vị. 18

A- Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá hàng mua 20

1. Doanh nghiệp mua 1 loại hàng hoá 20

2. Doanh nghiệp mua nhiều loại hàng 21

B Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá thành sản phẩm sản xuất ra 22

1. Doanh nghiệp sản xuất 1 loại sản phẩm theo đơn dặt hàng 22

2. Doanh nghiệp sản xuât nhiều loại sản phẩm theo đơn dặt hàng . 23

3. Doanh nghiệp sản xuất một loại sản phẩm theo quy trình sx liên tục. 25

4. Doanh nghiệp sx nhiều loại sp theo quy trình sx liên tục 26

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá thành sản phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào chi phí sản xuất kinh doanh. Nên có thể nói kế toán còn mang tính chất chính trị xã hội Ngoài ra còn chi phí quản lý doanh nghiệp; lương giám đốc, lương cán bộ quản lý (có cả ở khâu mua hàng, sản xuất) không tính vào giá hàng mua mặc dù hao phí lao động của giám đốc, cán bộ quản lý phải tính vào giá hàng mua vì họ phải tìm hiểu thị trường. Để đơn giản trong thời kỳkế hoạch hoá chi phí quản lý doanh nghiệp tính vào giá của sản phẩm sản xuất ra. Trong nền kinh tế thị trường , chi phí quản lý doanh nghiệp tính tất vào giá của hàng bán. Đúng ra chi phí quản lý doanh nghiệp có ở mọi khâu của quá trình sản xuất, nhưng nếu như thế thì không quản lý được nên chỉ tính vào khâu giá của hàng bán để quản lý tôt. Mặt khác, vì hạch toán kế toán là khoa hoc kinh tế, có đối tượng nghiên cứu là tài sản và sự vận động của tài sản trong đơn vị nên cũng như các môn khoa hoc kinh tế khác hạch toán kế toán phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học của kinh tế chính trị học về quá trình tái sản xuất xã hội, các giai đoạn, các yếu tố của quá trình tái sản xuất, đặc điểm của từng giai đoạn, từng yếu tố và tính chất sở hữu tài sản….Từ đó tổ chức hạch toán các giai đoạn các yếu tố của quá trình tái sản xuất phù hợp với đặc điểm của nó và tính chất sở hữu tài sản. Vì vậy hệ thống các phương pháp khoa học của hạch toán kế toán trong đó có phương pháp tính giá được xây dựng trên cơ sở những thành tựu khoa học của xã hội loài người, các quy luật tồn tại và phát triển của các sự vật hiện tượng, đảm bảo các phương pháp kế toán cũng như phương pháp tính giá phản ánh được các giai đoạn, các yếu tố của quá trình tái sản xuất xã hội trong sự tồn tại giữa những hình thái vật chất khác, trong mối liên hệ mật thiết và sự chuyển hoá lẫn nhau. Vận dụng lý luận của Kinh Tế Chính Trị học về các yếu tố co bản của quá trình sản xuất: Sản xuất luôn luôn là sự tác động qua lại của 3 yếu tố cơ bản : lao động của con người, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Khi tính giá chi phí về lao động (chi phí nhân công trực tiếp) chi phí về đối tượng lao động (chi phí về nguyên vật liêu) chi phí về tư liệu lao động (hao mòn tài sản cố định) để tính trị giá thực tế sản phẩm sản xuất. Được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận khoa học nhà triết học Mac-LêNin và kinh tế chính trị học nên phương pháp tính giá có tính khoa học rất cao, giúp cho việc xác định giá của tài sản một cách khách quan chân thực. Trị giá thực tế của tài sản được xác định bằng cách tổng hợp tất cả các chi phí thực tế đơn vị đã chi ra để tạo nên tài sản tại thời điểm tính giá, giúp cho các đơn vị tiến hành tính giá tài sản thống nhất theo một trình tự khoa học 5. Những yêu cầu và nguyên tắc tính giá tài sản Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của phương pháp tính giá, việc tính giá tài sản phải đảm bảo yêu cầu và nguyên tắc nhất định. 5.1. Yêu cầu +Tinh nhất quán và so sánh được +Tính chân thực +Tính kịp thời +Tính đầy đủ +Tính rõ ràng dễ hiểu +Quán triệt nguyên tắc tiết kiệm *Nguyên tắc nhất quán và so sánh được Nguyên giá của tài sản được đơn vị tạo ra trong kỳ này được tính toán xác định phải so sánh được với giá của tài sản cùng loại do các đơn vị khác tạo ra trong cùng một thời kỳ có như vậy mới giúp cho đơn vị học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau cùng tiến bộ trong nền kinh tế thị trường có định hướng của Nhà Nước, các đơn vị phải giúp nhau học hỏi nhau, cho nên yêu cầu phải có sự nhất quán trong tính toán. ở các nước tư bản không có yêu cầu này. Tuy nhiên trong thực tế vẫn chưa có sự nhất quán giữa các đơn vị kinh doanh và đơn vị hành chính sự nghiệp việc tính giá tài sản có sự khác VD:Mua 1 tấn xi măng giá mua 800.000 Chi phí mua 20.000 Trong đơn vị kinh doanh tính giá mua thực tế là 820.000 nhưng trong đơn vị hành chính sự nghiệp lại chỉ tính gía mua là 800.000, chi phí mua 20.000 họ tính vào chi phí trong kỳ. Do đó không đánh giá đúng được đơn vị nào hoạt động có hiệu quả hơn. Mặt khác giá của tài sản đơn vị tạo ra kỳ này phải so sánh được với giá kế hoạch mà đơn vị đã tính toán xác định để giúp đơn vị tính toán xác định được mức độ hoàn thành kế hoạch, nhận thức được phạm vi quy mô, mức độ phát triển hoạt động sản xuất đó như thế nào, đánh giá được kế hoạch có hoàn thành hay không, nguyên nhân do đâu để có những biện pháp kịp thời giúp đơn vị hoạt động hiệu quả. *Nguyên tắc trung thực khách quan: Toàn bộ chi phí thực tế đơn vị đã chi ra để hình thành nên tài sản của đơn vị phải được kế toán ghi chép đầy đủ, tính toán chính xác theo từng loại tài sản tạo nên. Phải xem xet xem chi phí đó thực tế đó có hay không, phạm vi quy mô hoạt động kinh tế tài chính xảy ra ở đâu,vào thời gian nào. Yêu cầu này phù hợp với quan điểm của triết học đó là khi xem xét đánh giá sự vật hiện tượng một cách đúng đắn phải gắn với thời gian không gian cụ thể. Việc tính giá tài sản phải phù hợp vớigiá cả trên thị trường tại thời điểm tính giá. Đồng thời phải phù hợp với chất lượng , số lượng tài sản. Nếu việc tính giá tài sản không chính xác, không trung thực thì thông tin do kế toán cung cấp sẽ mất tính chính xác, không đáng tin cậy ảnh hưởng xấu tới việc ra các quyết đinh kinh doanh của đơn vị. Điều ngược lại sẽ giúp cho những nhà quản trị đơn vị nhận thức được đầy đủ tình hình thực tế tài sản và sự vận động tái sản, họ có quyết định đúng đắn cho hoạt động của mình. *Thông tin do tính giá cung cấp phải đảm bảo tính kịp thời, theo yêu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin tính giá. Phải có sự phù hợp của những thông tin do tính giá cung cấp với tình hình thực tế của đơn vị giúp các nhà quản lý ra những quyết định kinh tế thích hợp, sát đúng thực tế và tương lai phát triển của đơn vị. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng tronh thời đại thông tin bùng nổ. Ơ nước ta hiên nay thông tin do kế toán cung cấp chưa mang tính kịp thời, tuy nhiên vẫn sử dụng được vì điều kiện công nghệ thông tin KHKT ở nước ta chưa phát triển. *Tài liệu tính giá cung cấp phải đảm bảo tính đầy đủ: Giúp cho việc ra quyết định thích hợp với từng loại hoạt động cũng như tổng thể hoạt động của đơn vị. Đặc biệt là trong điều kiện ngày nay hoạt động kinh tế tài chính trong các đơn vị đa dạng, phong phú lại có mối quan hệ mật thiết tác động bổ trợ cho nhau. Nếu thông tin không cung cấp đầy đủ có thể dẫn đến việc ra quyết định sai gây thiệt hại cho đơn vị. *Thông tin do tính giá cung cấp phải rõ ràng dễ hiểu giúp các cơ quan quản lý, các nhà quản trị và cả người lao động nhận thức đúng đắn hoạt động và kết quả hoạt động của đơn vị mang lại hiệu quả cao hơn. Ơ các nươc tư bản chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất khônh có yêu cầu này. Họ không muốn cung cấp thông tin một cách minh bạch. *Tổ chức tiến hành phương pháp tính giá phải quán triệt nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả. 5.2. Nguyên tắc tính giá Để đảm bảo yêu cầu chân thực và tính có thể so sánh được phương pháp tính giá Nhà Nước đã quy định những nguyên tắc có tính chất pháp chế về đánh giá các loại tài sản của đơn vị *Nguyên tắc chung Giá của tài sản phải được tính theo trị giá thực tế- giá gốc, giá nguyên thuỷ, nghiã là tính theo chi phí thực tế tạo nên tài sản ở thời điểm tính giá táỉ sản. Tuy nhiên do đặc trưng vận động của tài sản, yêu cầu hạch toán hàng ngày, yêu cầu quản lý tài sản, Nhà Nước có nhưng quy định cụ thể để tính giá đối với các loại tài sản. Cụ thể là: 5.2.1. Đối với TSCĐ:TSCĐ của các doanh nghiệp là những tư liệu lao động có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Theo quy định hiện hành TSCĐ là tài sản có thời gian sử dụng trên 1 năm, có giá trị tối thiểu bắng 5 triệu đồng. Đặc điểm của TSCĐ là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, trong quá trình sử dụng nó bị hao mòn dần về mặt giá trị nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, phần hao mòn đó sẽ chuyển dịch vào chi phí sản xuất kinh doanh. Do đặc điểm như vậy nên việc quản lý TSCĐ phải quản lý cả về mặt hiện vật và giá trị. Về mặt hiện vật kiểm tra chặt chẽ việc bảo quản, sử dụng TSCĐ ở doang nghiệp. Về mặt giá trị phải quản lý chặt chẽ tình hình hao mòn việc thu hồi vốn đầu tư ban đầu để tái sản xuất TSCĐ trong doanh nghiệp. Các loại TSCĐ : Để thuận tiện cho việc quản lý TSCĐ được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau. Nếu phân loại theo hình thức biểu hiện thì TSCĐ được chia thành : + TSCĐ hữu hình bao gồm toàn bộ những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc… có đủ tiêu chuẩn giá trị và thời gian sử dụng theo chế độ quy định . + TSCĐ vô hình là những TSCĐ không có thực thể hữu hình nhưng đại diện cho 1 quyền hợp pháp nào đó và người chủ sở hữu được hưởng quyền lợi kinh tế như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí nghiên cứu và phát triển, bằng phát minh sáng chế…( Hiên nay ở nươc ta tất cả mọi khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có giá trị >=500 triệu VNĐ và thời gian sử dụng >1 năm mà không hình thành TSCĐ hữu hình thì là TSCĐ vô hình. *Đánh giá TSCĐ : TSCĐ được đánh giá theo nguyên giá và theo giá trị còn lại. Muốn vậy việc ghi sổ kế toán phải đảm bảo phản ánh được 3 chỉ tiêu về giá trị của TSCĐ là nguyên giá, giá trị hao mòn và giá trị còn lại (giá trị còn lại=nguyên giá -giá trị hao mòn) Nguyên giá TSCĐ (còn gọi là trị gía ghi sổ ban đầu) là toàn bộ các chi phí bình thường và hợp lý mà doanh nghiệp phải bỏ ra để mua sắm, xây dựng, chế tạo TSCĐ trước khi đưa vào sử dụng. Nguyên giá TSCĐ được đánh giá theo nguyên tắc giá phí bao gồm chi phí liên quan đến mua hoặc xây dựng, chế tạo, kể cả chi phí vận chuyển lắp đặt chạy thử và các chi phí hợp lý, cần thiết khác. Cụ thể : +Với TSCĐ do mua mới thì nguyên giá = giá mua trả cho người bán (đã khấu trừ các khoản triết khấu, giảm giá) + chi phí vận chuyển bốc dỡ, lắp đặt chạy thử + thuế phải nộp nếu có (thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng không được khấu trừ, thuế tài sản…). Trong trường hợp mua TSCĐ thanh toán chậm có phát sinh lãi về tín dụng như là thuê mua TSCĐ thì nguyên giá TSCĐ là giá trị hiện tại còn phần chênh lệch (tiền lãi) được hạch toán vào chi phí trả trước trong suốt thời hạn tín dụng (chú ý theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS23 thì lại cho phép tính cả lãi tín dụng vào nguyên giá TSCĐ). + Với TSCĐ do mua cũ thì nguyên giá = giá mua trả cho người bán +chi phí vận chuyển bốc dỡ, lắp đặt chạy thử + thuế phải nộp (nếu có) + giá trị hao mòn. + Với TSCĐ do doanh nghiệp tự xây dựng, chế tạo để sử dụng như công trình kiến trúc, công trình tự chế tạo… thì nguyên giá TSCĐ là giá bàn giao quyết toán công trình khi đưa vào sử dụng (chú ý tiền lãi trên các khoản vay dùng vào đầu tư TSCĐ cũng có thể được tính vào nguyên giá TSCĐ theo chuẩn mực IAS-23) + Đối với TSCĐ nhận củađơn vị khác do góp vốn liên doanh thì nguyên giá là trị giá thoả thuận của các bên liên doanh +chi phí vận chuyển bốc dỡ lắp đặt chạy thử, chi phí thù lao cho môi giới, chi phí chuẩn bị mặt bằng…. +Đối với TSCĐ được cấp thì nguyên giá là giá ghi trong “Biên bản bàn giao TSCĐ” của đơn vị cấp +chi phí lắp đặt chạy thử (nếu có). +Đối với TSCĐ được biếu tặng thì nguyên giá là giá tính toán trên cơ sở giá thị trường của các TSCĐ tương đương. …………… Như vậy, nguyên gía của TSCĐ chỉ được xác định 1 lần khi tăng TSCĐ và không đổi trong suốt thời gian tồn tại của TSCĐ ở doanh nghiệp trừ trường hợp đánh giá lại TSCĐ hay xây dựng trang bị thêm TSCĐ, cải tạo nâng cấp TSCĐ, tháo bớt một số bộ phận làm giảm nguyên giá của TSCĐ. Giá trị còn lại của TSCĐ được xác định theo 2 cách: +Là trị giá thực tế của TSCĐ tại thời điểm xác định giá Giá trị còn lại = nguyên giá - khấu hao luỹ kế. Trường hợp nguyên giá TSCĐ được đánh giá lại thì giá trị còn lại của TSCĐ cũng được xác định lại. Khi đó giá trị còn lại của TSCĐ được tính theo công thức sau : Giá trị còn lại của TSCĐ sau khi đánh gía lại = Giá trị còn lại của TSCĐ đánh giá lại x giá trị đánh giá lại của TSCĐ (nguyên giá của TSCĐ). +Giá trị còn lại = giá trị đánh giá lại – khấu hao luỹ kế (Theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS-16) 5.2.2.Đối với nguyên liêu vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá. Nguyên liệu vật liệu, công cụ dụng cụ đó là loại tài sản được dùng để dự trữcho sản xuất kinh doanh. Còn hàng hoá là những vật phẩm mà các doanh nghiệp mua về để bán phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Nhìn chung NLVL,CCDC,HH hiện có ở các DN được phản ánh trên sổ kế toán và báo cáo kế toán theo trị giá vốn thực tế, tức là toàn bộ số tiền DN bỏ ra để có được số NLVL,CCDC,HH đó. a, Đối với NLVL,CCDC,HH nhập kho thì giá của chúng được tính theo trị giá thực tế khi nhập kho. Tuỳ theo nguồn nhập mà trị giá thực tế của NLVN,CCDC,HH bao gồm những chi phí cấu thành khác nhau. + Nhập kho do mua ngoài thì trị giá thực tế sẽ bao gồm giá mua trả cho người bán +chi phí vận chuyển bốc dỡ và bảo quản + thúê phải nộp nếu có. Giá mua trả cho người bán còn gọi là trị giá mua thực tế. Ơ các DN áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT thì trị giá mua thực tế là số tiền ghi trên hoá đơn không kể thuế GTGT – các khoản chiết khấu, giảm gía, hàng trả lại(nếu có). Còn ở các DN áp dụng phương pháp tính thúê GTGT trực tiếp thì trị giá mua thực tế là trị giá thanh toán (gồm cả thuế GTGT) – các khoản giảm giá, chiết khấu và hàng trả lại +Nhập kho do thuê ngoài chế biến (đối với những nguyên vật liệu do mua về trong sản xuất phải xuất kho để cho đơn vị khác chế biến) thì trị giá thực tế của nguyên vật liệu nhập kho = trị giá thực tế của NVL xuất kho để chế biến +chi phí trả cho đơn vị nhận chế biến + chi phí vận chuyển, bảo quản, bốc dỡ khi giao và nhận. +Nhập kho từ nguồn tự chế biến thì trị giá thực tế của chúng gồm trị giá thực tế NVL xuất kho để chế biến + chi phí chế biến do đơn vị tự chế biến (chi phí nhân công, chi phí khấu hao TSCĐ…) +Vật liệu do góp vốn liên doanh, tặng cho là trị giá thực tế của các bên tham gia đóng góp thống nhất định giá. b, Tính trị giá thực tế của NLVL, CCDC,HH xuất kho có thể tiến hành theo các phương pháp sau tuỳ theo đặc điểm riêng, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp mà có sự lựa chọn khác nhau: +Tính theo đơn giá mua thực tế tồn đầu kỳ thì trị giá thực tế xuất kho = số lượng hàng hoá, NVL,CCDC x đơn giá mua thực tế của chúng tồn đầu kỳ. +Tình theo đơn giá bình quân của hàng luân chuyển trong kỳ : Trị giá trực tế của hàng xuất kho bằng số lượng hàng xuất kho x đơn giá bình quân của hàng luân chuyển trong kỳ. +Phương pháp nhập trước xuất trước : Số hàng nào nhập kho trước thì xuất trước và lấy trị giá mua thực tế của hàng đó để tính. +Phương pháp nhập sau xuất trước : Số hàng nào nhập kho sau thì xuất kho trước. Hàng thuộc lô hàng nào thì lấy đơn giá thực tế của lô đó để tính. +Phương pháp đích danh : trị giá thực tế xuất kho = số lượng xuất kho x giá nhập kho của lô hàng xuất. 5.2.3 Đối với thành phẩm do đơn vị sản xuất ra được Nhà Nước quy định tính theo giá thành sản xuất thực tế. Giá thành sản xuất thực tế là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ cũng như sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất trong kỳ. Viết dưới dạng ký hiệu : Ztt = Dđk + C – Dck Chi phí sản xuất bao gồm các khoản chi phí sản xuất như sau: +CPNVLTT là khoản chi phí về NVL chính, nửa thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ, nhiên liệu trực tiếp sử dụng cho việc sản xuất , chế tạo sản phẩm thực hiện các lao vụ dịch vụ của doanh nghiệp . Nó chiếm một tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm. CPNVLTT trong kỳ = trị giá NVL xuất sử dụng trong kỳ + trị giá NVL dư đầu kỳ – trị giá NVL dư cuồi kỳ – trị giá phế liệu thu hồi +CPNCTT là những khoản phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm hoặc trực tiếp thực hiện các lao vụ dịch vụ gồm : tiền lương chính, các khoản phụ cấp, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo số tiền lương của công nhân sản xuất (không phân biệt là đã thanh toán cho người lao động hay chưa). +CPSXC là những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất chung tại phân xưởng, đội như chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu dùng cho nhu cầu sản xuất tại phân xưởng, chi phí CCDC dùng cho sản xuất chung ở phân xưởng và chi phí khấu hao TSCĐ cả vô hình và hữu hình, thuê tài chính mà sử dụng ở phân xưởng sản xuất. Chú ý: Để ghi chép trị giá thực tế của NVL, CCDC và HH, thành phẩm nhập xuất hàng ngày kế toán có thể sử dụng giá hách toán (là loại giá cố định tạm tính trong 1 thời gian) để tính trị giá vốn thực tế của hàng xuất kho. Giá này chỉ được sử dụng trong doanh nghiệp không có tác dụng giao dịch với bên ngoài. Nhưng cuối kỳ kế toán vẫn phải tính ra giá thực tế để ghi sổ kế toán tổng hợp. Đối với NLVL, CCDC, HH hay thành phẩm xuất kho tính theo giá hạch toán đều được xác định trị giá thực tế như sau : 6. Trình tự tính giá chung đối với các loại tài sản Như ta đã biết tài sản của đơn vị gồm nhiều loại khác nhau, được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau có thể là mua ngoài, thuê gia công chế biến, tự chế biến…Và để có được các tài sản đó doanh nghiệp luôn phải bỏ ra các khoản chi phí thực tế tạo nên tài sản đó. Vì vậy để tính chính xác được trị giá thực tế của mỗi loại tài sản hình thành, đơn vị phải tổng hợp được tất cả các khoản chi phí thực tế của mỗi loại chi phí hình thành, sử dụng phương pháp tính toán thích hợp. Nhưng nhìn chung việc tính giá tài sản được tiến hành theo trình tự gồm 2 bước : Bước 1: Tổng hợp các khoản chi phí thực tế cấu thành giá của tài sản theo đúng nội dung các khoản chi phí đó. Việc tổng hợp các khoản chi phí thực tế cấu thành nên giá của tài sản có thể tiến hành theo 2 phương pháp tuỳ theo tính chất cũng như mối quan hệ giữa chi phí với tài sản được tính giá. + Phương pháp tổng hợp trực tiếp được tiến hành đối vói các khoản chi phí đơn nhất có quan hệ trực tiếp đối với từng loại tài sản (chi phí chỉ liên quan đến 1 loại tài sản) ví dụ như giá mua từng loại hàng, chi phí NVLTT, CPNCTT để sản xuất ra một loại sản phẩm... + Phương pháp tổng hợp gián tiếp được tiến hanh đối với các khoản chi phí có liên quan đến nhiều loại tài sản cần tính giá ví dụ chi phí vận chuyển bốc dỡ , bảo quản nhiều loại hàng trong cùng một thời gian hay chi phí sản xuất chung, CPNVLTT, CPNCTT để sản xuất nhiều loại sản phẩm… Các khoản chi phí này sẽ được phân bổ theo từng loại tài sản theo những tiêu thức thích hợp .Việc lựa chọn tiêu thức phân bổ thích hợp có ý nghĩa quan trọng để tổng hợp tính toán chính xác chi phí cho từng loại tài sản ví dụ khi phân bổ chi phí vận chuyển cho nhiều loại hàng thường sử dụng tiêu thức số lượng hàng cần vận chuyển, phân bổ chi phí quảnlý sử dụng tiêu thức giá bán… Công thức phân bổ: Bước 2: Tính toán xác định trị giá thực tế của tài sản theo phương pháp nhất định. Việc tính toán xác định trị giá thực tế của tài sản ở bước này phụ thuộc vào tổng hợp chi phí ở bước 1 và quá trình hình thành tài sản . +Trường hợp tài sản được hình thành dứt điểm trong một thời kỳ nhất định như mua NLVL sản xuất sản phẩm đơn chiếc , sản xuất sản phẩm theo đơn đặt hàng thì viêc tính toán xác định trị giá thực tế của tài sản được tiến hành bằng cách tổng cộng toàn bộ chi phí đã được tổng hợp từ bước 1. Trong trường hợp này việc tổng hợp chi phí cấu thành giá của tài sản có đầy đủ chính xác thì giá tài sản tính được mới đúngđắn chính xác . Vì vậy khi tổng hợp chi phí cấu thành giá tài sản cần xác định đúng đắn nội dung các khoản chi phí đó , tăng cường tổng hợp trực tiếp các khoản chi phí, hạn chế việc tổng hợp các khoản chi phí một cách gián tiếp . +Trường hợp tài sản được hình thành kéo dài từ kỳ này sang kỳ khác như quá trinh sản xuất sản phẩm khối lượng lớn luôn có tài sản đã hình thành (san phẩm hoàn thành) và tài sản đang hình thành (sản phẩm đang chế dở) thì các khoản chi phí cấu thành giá được chia thành 2 bộ phận: Bộ phận chi phí tính cho tài sản đã được hình thành gọi là giá của tài sản Bộ phận chi phí tính cho tái sản đang trong quá trình hình thành gọi là chi phí dở dang. Vì vậy việc tính giá cho trường hợp này cần phải xác định được bộ phận chi phí dở dang theo công thức như sau: Trị giá thực tế của tài sản = Chi phí dở dang thời gian trước chuyển sang + Chi phí phát sinh trong kỳ - Chi phí dở dang chuyển sang thời gian sau Viết dưới dạng công thức như sau: Z = Dđk + C -Dck ở trường hợp này tính chính xác của giá tài sản tính được không những phụ thuộc vào việc tổng hợp chi phí cấu thành giá ở trước mà còn phụ thuộc vào phương pháp phân chia chi phí thành 2 bộ phận chi phí. Trình tự tính giá này được sử dụng để tính giá của các loại tài sản khác nhau. Trong bài viết này em sẽ trình bày việc vận dụng trình tự tính giá để tính giá hàng mua và tính giá thành sản xuất của thành phẩm sản xuất ra. II- Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá của tài sản trong quá trình hoạt động của đơn vị. * Thực tiễn tình hình vận dụng phương pháp tính giá Vai trò quan trọng của phương pháp tính giá chỉ thực sự được phát huy khi kế toán ở các đơn vị quán triệt đầy đủ các yêu cầu và nguyên tắc của phương pháp nay trong quá trình tính giá tài sản hình thành tại các đơn vị. Trong thực tế việc vận dụng phương pháp tính giá vẫn còn tồn tại những bất cập sau: Một là : Nguyên tắc chung nhất của quá trình tính giá tài sản là phải tính theo đúng trị giá thực tế của tài sản tại thời điểm hình thành tài sản. Nhưng trên thực tế công tác kế toán thì việc tính toán xác định trị giá thực tế của NLVL, CCDC, TP nhập xuất kho hàng ngày có thể không thực hiện được (do một số chi phí cấu thành giá của tài sản hình thành không thể tính toán được tại từng thời điểm nhập xuất kho hoặc do xuất nhập một lượng quá lớn các hàng hóa, CCDC…với chủng loại đa dạng phong phú). Vì vậy trong thực tiễn kế toán có thể sử dụng một loại giá gọi là giá hạch toán. Đến cuối kỳ kế toán sẽ điều chuyển trị giá hach toán sang trị giá thực tế của NLVL, CCDC, HH xuất kho hoặc nhập kho để ghi sổ kế toán tổng hợp. Hai là: Việc tính toán chính xác trị giá của tài sản hình thành phụ thuộc lớn vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ của kế toán và ý chí chủ quan của kế toán như việc lựa chọn tiêu thức phân bổ nào cho thích hợp để phân bổ khoản chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều đối tượng tính giá lựa chọn phương pháp thích hợp để phân chia chi phí thành 2 bộ phận đó là chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và giá của tài sản hình thành. Ngay trong việc lựa chọn các phương pháp tính giá hàng xuất kho lựa chọn phương pháp khác sẽ cho kết quả khác. Trong thời kỳ lạm phát cao nếu tính trị giá hàng xuất kho theo nguyên tắc nhập trước xuất trước thị trị giá thực tế của hàng xuất kho sẽ thấp hơn rất nhiều so với việc tính trị giá thực tế hàng xuất kho theo nguyên tắc nhập sau xuất trước. Sự lựa chọn phương pháp nào cũng ảnh hưởng đến khoản thu nhập của doanh nghiệp và khoản mục hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán . Vì thế để tính toán chính xác trị giá thực tế của tài sản hình thành đòi hỏi kế toán phải lựa chọn đúng phương pháp thích hợp. Ba là : Đối với các tài sản hình thành trong quá trình mua hàng cùng một tài sản hình thành tại các thời điểm khác sẽ cho kết quả về trị giá thực tế hàng mua là khác. Nếu loại trừ ảnh hưởng về chi phí thu mua thì nhân tố gây nên sự chênh lệch nàylà giá cả thị trường của taì sản. Do giá cả thị trường luôn thay đổi nên cùng một tài sản nhưng mua tại các thời điểm khác thì giá mua phải thanh toán cho người bán là khác. Đây là một sơ hở dễ để tham ô, tham nhũng. Bốn là: Xuất phát từ yêu cầu quản lý của từng thời kỳ khác mà Nhà Nước có các quy đinh cụ thể về tính giá tài sản trong từng thời kỳ. Nhưng đôi khi những quy định này lại không phù hợp vời nguyên tắc và yêu cầu của quá trình tính giá tài sản. Cụ thể trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, để tính giá tài sản hình thành trong quá trình mua hàng Nhà Nươc quy định: Đối với các đơn vị sản xuất thì trị giá thực tế hàng mua = giá mua + chi phí vận chuyển. Nhưng đối với đơn vị hành chính sự nghiệp thì trị giá thực tế hàng mua = giá mua. Quy định này thể hiện sự không nhất quán cùng một loại tài sản, mua cùng một nơi, tại cùng một thời điểm nhưng hai loại hình đơn vị khác thì trị giá hàng mua vào là khác. Hơn nữa ở đơn vị hành chính sự nghiệp nếu trị giá thực tế hàng mua = giá mua thì không phản ánh được bộ phận chi phí cấu thành hàng mua mà đơn vị chi ra đó là chi phí vận chuyển , bốc dỡ , bảo quản hàng mua, tức không phản ánh được chính xác trị giá thực tế hàng mua. Mặt khác cũng không đánh giá được chính xác đơn vị nào hoạt động có hiệu quả hơn. Trong cơ chế hiện nay sự bất cập của việc tính giá tài sản thể hiện ở quy định về đánh thuế GTGT đối với NVL đầu vào của quá trĩnh sản xuất. Theo quy định của luật thuế này các doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá chịu thuế GTGT thì NL đầu vào không phải tính thúê. Còn các doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá không chịu thuế GTGT thì bị đánh thuế NL đầu vào. Quy định này đảm bảo sự công bằng về mức thuế phải nộp đối với các loại hình doanh nghiệp nhưng lại vi phạm tính nhất quán của phương pháp tính giá. Rõ ràng 2 doanh nghiệp sử dụng cùng một loại NL đầu vào như nhau nhưng trị giá thực tế của NL mua vào lại khác. Sự bất hợp lý trong việc tính giá tài sản còn được thể hiện ở quy định về thu phí giao thông đường bộ qua xăng dầu. Giá của xăng dầu sẽ được tính thêm vào phí giao thông đường bộ. Nhưng đối với các doanh nghiệp vận tải hàng hoá trê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35344.doc
Tài liệu liên quan