MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
NỘI DUNG 2
1. Cơ sở lý luận 2
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và quan điểm toàn diện 2
1.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến- 2
1.1.2. Quan điểm toàn diện 4
1.2. Quan điểm toàn diện trong phân tích hình thái kinh tế- xã hội- 6
2. Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 10
2.1. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta 11
2.1.1. Sự phát triển của lực lượng sản xuất 11
2.1.2. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất- 15
2.2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 19
2.3. Mối liên hệ giữa sự phát triển kinh tế- xã hội của nước ta với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới - 21
KẾT LUẬN 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1592 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên cứu hình thái kinh tế- xã hội, nắm bắt được bản chất của một xã hội, ta sẽ vận dụng nó ngược trở lại để giải thích, nghiên cứu cho một xã hội hiện thực, đây là sự vận dụng quan điểm toàn diện vào phân tích hình thái kinh tế- xã hội.
Hình thái kinh tế- xã hội có kết cấu phức tạp nhưng gồm các yếu tố cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, các quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Ba yếu tố này có liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, trong đó:
Quan hệ sản xuất là “bộ xương”, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt hình thái kinh tế- xã hội này với hình thái kinh tế- xã hội khác. Nó đóng vai trò chi phối và quyết định các quan hệ xã hội khác của xã hội.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất- kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế- xã hội. Sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội, xét đến cùng là do lực lượng sản xuất quyết định.
Kiến trúc thượng tầng: tổng thể các quan hệ sản xuất của một xã hội cụ thể sẽ hợp thành cơ sở hạ tầng của xã hội đó, mà trên đó hình thành một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng. Chức năng chính trị- xã hội của kiến trúc thượng tầng này là duy trì, bảo vệ, phát triển cơ sở hạ tầng đã “sinh” ra nó, đấu tranh chống lại cơ sở hạ tầng cùng kiến trúc thượng tầng cũ.
Ngoài ba yếu tố trên, khi xem xét một hình thái kinh tế- xã hội cần phải chú ý tới các yếu tố khác như quan hệ giai cấp, dân tộc, gia đình, quốc tế v.v..
Sau đây là một số mối liên hệ cơ bản, bản chất giữa các bộ phận cấu thành một hình thái kinh tế- xã hội:
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện quan hệ mang tính biện chứng. Quan hệ này biểu hiện ở quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội- quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố tác động và cách mạng nhất của quá trình sản xuất. Nó là nội dung của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định. Nó là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Trong mối liên hệ này, lực lượng sản xuất (nội dung) quyết định quan hệ sản xuất (hình thức). Lực lượng sản xuất phát triển thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất: Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi ấy, quan hệ sản xuất sẽ tạo điều kiện, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (lạc hậu, lỗi thời hoặc vượt trước qua xa) sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn này. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng nào thì sẽ “sinh” ra kiến trúc thượng tầng ấy. Bởi lẽ, quan hệ sản xuất quyết định các quan hệ xã hội khác. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị- tư tưởng. Cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh tế. Cơ sở hạ tầng quyết định sự hình thành, tính chất của kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng biến đổi, sớm hay muộn cũng dẫn đến những biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diẽn ra phức tạp trong qua trình chuyển đổi từ hình thái kinh tế- xã hội này sang hình thái kinh tế- xã hội khác.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng: Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện ở chức năng xã hội của nó. Nghĩa là, kiến trúc thượng tầng thực hiện sự bảo vệ, duy trì, củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng đã “sinh” ra nó; hoặc đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũng như kiến trúc thượng tầng cũ. Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng dưới nhiều hình thức khác nhau. Bản thân các yếu tố, các bộ phận của kiến trúc thượng tầng cũng tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng theo hai hướng, hoặc là kìm hãm, hoặc là thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Khi kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với các quy luật kinh tế khách quan, nó sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Ngược lại, sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
Sau đây, chúng ta phân tích sơ lược về hình thái kinh tế- xã hội xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Hình thái kinh tế- xã hội xã hội chủ nghĩa:
Theo chủ nghĩa Mác, thì xã hội chủ nghĩa cộng sản là hình thái kinh tế- xã hội cuối cùng trong lịch sử loài người, căn cứ vào sự phát triển cụ thể của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng với kiến trúc thượng tầng tương ứng, Mác- Ănghen đã phân các hình thái kinh tế- xã hội thành các giai đoạn phát nhất định. Mỗi giai đoạn ấy lại được phân chia thành các thời đoạn khác nhau.
Hình thái kinh tế công sản chủ nghĩa phát triển từ thấp lên cao, từ giai đoạn xã hội chủ nghĩa lên giai đoạn cộng sản chủ nghĩa. Giai đoạn giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa có một thời kỳ quá độ từ xã hội này sang xã hội kia. Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước chuyên chính của giai cấp vô sản.
Xã hội xã hội chủ nghĩa có một số đặc trưng sau: cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí; chủ nghĩa xã hội xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới; chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động; nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước kiểu mới, thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích quyền lực và ý chí của nhân dân lao động; chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện sự bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
Từ việc nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội, cương lĩnh của Đảng ta đã khái quát lên những nét đặc trưng của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa là: do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến đậm đã bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến một cách sâu sắc toàn diện những mặt, những bộ phận, những yếu tố của xã hội cũ, xây dựng và củng cố những yếu tố của xã hội mới (xã hội chủ nghĩa). Trong thời kỳ quá độ còn tồn tại cả những yếu, những bộ phận của xã hội cũ và xã hội mới tác động qua lại, đan xen vào nhau.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền cho đến khi xây dựng xong lực lượng vật chất cho xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có một số đặc điểm sau: trên lĩnh vực kinh tế, sự phát triển chưa đồng đều của lực lượng sản xuất trong thời kỳ này quy định tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó còn có những thành phần đối lập nhau; trên lĩnh vực xã hội, do kết cấu kinh tế trên đây quy định, trong xã hội còn tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp khác nhau trong đó có sự đối lập, đối kháng nhất định; trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, còn tồn tại nhiều loại tư tưởng, văn hoá tinh thần khác nhau, có cả sự đối lập lẫn nhau.
Cùng với những bước tiến trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, các thành phần, nhân tố mang tính chất xã hội sẽ ngày càng phát triển và vươn lên vị trí chi phối mọi lĩnh vực; nhưng con đường chủ nghĩa xã hội sẽ giữ vai trò chủ đạo.
2. Vận dụng quan điểm toàn diện để phân tích quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Để phân tích cho đúng quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tất yếu phải xét xem nó đã vận động đúng theo quy luật khác quan hay chưa. Vì trên cơ sở mối quan hệ bản chất hay quy luật vận động cơ bản, ta áp dụng phân tích cho sự phát triển kinh tế- xã hội của nước ta hiện nay. Cụ thể, cần nghiên cứu xem lực lượng sản xuất nước ta vận động như thế nào; quan hệ sản xuất vận động như thế nào, đã phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa; kiến trúc thượng tầng vận động như thế nào, đã phù hợp với cơ sở hạ tầng chưa; cuối cùng, là nghiên cứu mối liên hệ giữa sự phát triển kinh tế- xã hội của nước ta với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới.
2.1. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta
ở nước ta trước đổi mới (1986) đã có những biểu hiện vận dụng chưa đúng quy luật này. điều này biểu hiện ở việc chủ quan, nóng vội trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà không tính tới trình độ của lực lượng sản xuất của nước ta.
Từ đổi mới 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta lựa chọn con đường phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. điều này là hoàn toàn đúng với quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi lẽ, trình độ của lực lượng sản xuất nước ta vừa thấp, vừa không đồng đều. Chúng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa mới phát huy được mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế nhiều thành phần chứa đựng trong bản thân nó mâu thuẫn. Đó là khuynh hướng tự phát đi lên tư bản chủ nghĩa và tự giác lên xã hội chủ nghĩa.
Sau đây, ta phân tích cụ thể sự vận dụng quy luật, mối quan hệ bản chất vào quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:
2.1.1. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX của Đảng chỉ rõ phải tiến hành phát triển lực lượng sản xuất bằng cách tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế.
Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) cho đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng ta đều nhất quán một quan điểm tiến hành công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và thứ IV, Đảng ta đưa ra quan điểm ưu tiên phát triển công nghiệp nặng nhằm mục đích tạo ra những điều kiện vật chất tiền đề cho nền kinh tế theo mô hình của Liên Xô. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V cho đến nay, Đảng ta đã nhận thức được việc tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta không thể sao y nguyên mô hình của một nước khác mà phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn ở Việt Nam. Do đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã thay đổi quan điểm tiến hành công nghiệp hoá phải dựa vào lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy, Đảng ta đã chủ động đưa nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, thực hiện đồng thời ba chương trình kinh tế lớn của Đảng đó là chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình hàng tiêu dùng và chương trình hàng xuất khẩu. Với quan điểm này, Đảng ta đã tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo mô hình hướng về xuất khẩu, có nghĩa là: phát huy và khai thác những tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp để tạo ra các sản phẩm hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài, thu ngoại tệ rồi tiến hành chuyển giao công nghệ hay mua công nghệ mới phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế.
Hai nhiệm vụ cơ bản của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là: vừa xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý vừa tiến hành từng bước đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá để tạo lập cơ cở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân.
Từ hai nhiệm vụ trên, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã xác định mục tiêu trước mắt cần tiến hành đó là:
- Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá nông nghiệp- nông thôn, quá trình này gắn liền với việc phát triển toàn diện nông- lâm- ngư nghiệp và chế biến sản phẩm nông nghiệp;
- Tiến hành công nghiệp hoá nông thôn gắn liền với phát triển thuỷ lợi hoá, phát triển công nghệ sinh học, thực hiện cơ giới hoá và điện khí hoá nông thôn, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp nông thôn;
- Phát triển công nghiệp gắn với nông thôn trên cơ sở xây dựng có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng nhưng đặc biệt quan tâm đến những ngành công nghiệp nhẹ như may mặc, giầy da, chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản để một mặt hỗ trợ cho nông nghiệp phát triển, nhưng, mặt khác để sử dụng nguồn vốn lao động nông nhàn ở nông thôn;
- Đặc biệt phát triển nhanh các ngành du lịch, dịch vụ, trong đó cần tập trung cho hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm,.. nhằm trước hết đáp ứng các nhu cầu về dịch vụ của nhân dân nhưng mặt khác để nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh;
- Phát triển hợp lý cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ để khai thác những lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của từng vùng, lãnh thổ;
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, trong bối cảnh của nền kinh tế hội nhập, hoà nhập hiên nay trên khu vực và thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải có một chiến lược và chính sách kinh tế đối ngoại một cách hợp lý. Nước ta tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong điều kiện nguồn nội lực có nhiều khó khăn, vì vậy phát triển và mở rộng các quan hệ kinh tế là khai thông và tạo lập những cơ hộiđểchúg ta khai thác những lợi thế ngoại lực từ đối tác bên ngoài.
Với nội dung cơ bản của công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nây là:
Thứ nhất: phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trước hết bằng việc cơ khí hoá nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ. Cốt lõi của công nghiệp hoá- hiện đại hoá là biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất lao động xã hội cao. Để thực hiện sự cải biến này, cần phải thực hiện điện khí hoá, cơ khí hoá và tự động hoá sản xuất, trước hết là cơ khí hoá một cách phổ biến. Cơ khí hoá lao động, thay thế lao động thủ công là một trong những phương hướng chủ yếu của tiến bộ kỹ thuật trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá và là một nhân tố quan trọng hàng đầu ở nước ta hiện nay trong việc nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ điều kiện lao động, nâng cao trình độ văn hoá của người lao động. Đối tượng của công nghiệp hoá- hiện đại hoá là tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trong đó, các ngành chế tạo tư liệu sản xuất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của những ngành khác. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá các ngành, các khâu của nền kinh tế đòi hỏi phải được tiến hành đồng bộ, cân đối, như vậy mới tạo được điều kiện cho nền sản xuất xã hội phát triển thuận lợi với tốc độ nhanh đồng thời phát huy được hiệu quả của chính quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Thứ hai: quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả hơn. Cơ cấu kinh tế là tổng thể cơ cấu ngành, vùng và các thành phần kinh tế trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, què quặt, ít hiệu quả sang cơ cấu kinh tế ngày càng phù hợp với xu thế phát triển của nền sản xuất hiện đại. Xu thế đó là: Tỷ trọng sản phẩm trong công nghiệp và dịch vụ tăng còn trong nông nghiệp giảm. Tổng tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp- nông nghiệp ngày càng giảm tương ứng sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá gắn liền một cách hữu cơ với quá trình phát triển phân công lao động xã hội, với quá trình hình thành các ngành kinh tế, các vùng kinh tế chuyên môn hoá, các thành phần kinh tế. Các ngành, vùng, thành phần kinh tế ấy tồn tại và hoạt động trong tổng thể nền kinh tế thống nhất và tạo thành cơ cấu nền kinh tế quốc dân như một chỉnh thể. Cơ cấu kinh tế hợp lý đòi hỏi những ngành giao thông vận tải, xây dựng cơ bản và các ngành trong lĩnh vực phân phối lưu thông phải phát triển tương ứng với các ngành khác mới có thể phục vụ tốt cho công nghiệp và nông nghiệp phát triển thuận lợi.
Thứ ba: trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá cần phải xây dựng đội ngũ lao động có khả năng sử dụng và quản lý nền sản xuất xã hội cao với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá với giáo dục và đào tạo có mối liên hệ chặt chẽ, chúng luôn luôn có sự tác động, quy định lẫn nhau, nhất là trong điều kiện cánh mạng khoa học và công nghệ. Về thực chất, công nghiệp hoá- hiện đại hoá là một quá trình mà trong đó con người- với những năng lực của mình như kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh… biết tạo ra và sử dụng các thành tựu khoa học- kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Theo đó, lực lượng tiến hành, hay nói khác, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá là những người lao động có chất lượng cao. Chính vì vậy mà Đảng ta coi trọng giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Thứ tư: phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ cách mạng khoa học công nghệ đang bùng nổ. Vì vậy mà Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ: Phải xác định rõ phương hướng cho việc phát triển khoa học công nghệ dựa trên cơ sở khai thác và sử dụng lợi thế tuyệt đối của nền kinh tế trên cơ sở khai thác và sử dụng những công nghệ hiện có đồng thời tranh thủ những nguồn lực từ bên ngoài để phát huy những lợi thế so sánh của nền kinh tế. Chuyển giao công nghệ từ những nước tiên tiến đi trước cũng là một cách tốt trong việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Tuy nhiên trong chuyển giao công nghệ, Đảng và Nhà nước cũng chỉ rõ: cần có một quá trình lựa chọn tối ưu để đảm bảo cho những công nghệ nhập khẩu còn có tính chất tiên tiến trong quá trình hoạt động có nghĩa là sản phẩm do các công nghệ đó sản xuất ra phải tồn tại được trong cạnh tranh trong nước và quốc tế; công nghệ chuyển giao phải phù hợp với trình độ sử dụng của lao động hiện có ở Việt Nam; phải bảo đảm được thời hạn sử dụng và tính khấu hao.
Thực tế, nước ta đã ngày càng chú trọng đến đầu tư cho khoa học- công nghệ: Tỷ lệ đầu tư cho khoa học và công nghệ trong tổng chi ngân sách Nhà nước tăng từ 0,78% (năm 1996) lên 2,13% (năm 2002). Năm 2003, tổng chi cho khoa học và công nghệ từ ngân sách Nhà nước đạt trên 3150 tỷ đồng, chiếm 60% tổng đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ. Nhờ đầu tư chiều sâu từ ngân sách, cho đến nay, 1/3 số thiết bị khoa học của các cơ quan nghiên cứu là những thiết bị thế hệ mới.
2.1.2. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đang xây dựng quan hệ sản xuất dựa trên quan hệ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất là chủ yếu nhưng thời kỳ này chúng ta không thể nôn nóng, vội vàng áp đặt trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mà phải từng bước xây dựng quan hệ sản xuất dựa trên lực lượng sản xuất phù hợp. Ngoài ra, theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, quan hệ sản xuất mới cần thoả mãn các điều kiện sau: quan hệ sản xuất mới phải có tính cách mạng và khoa học để mở đường cho quá trình phát triển kinh tế; xây dựng quan hệ sản xuất mới phải bảo đảm tạo ra sức mạnh kinh tế để cho nhà nước thực hiện chức năng tổ chức quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; quan hệ sản xuất mới phải phải đảm bảo cho thành phần kinh tế nhà nước phát huy và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; xây dựng quan hệ sản xuất mới phải bảo đảm phát huy được nội lực của nền kinh tế, tranh thủ được ngoại lực từ bên ngoài nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội ở thời kỳ quá độ.
Hiện nay, nước ta đang tồn tại ba hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân; sở hữu tư nhân; sở hữu hỗn hợp. Nhưng trong thực tế nó tồn tại dưới các hình thức cụ thể: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu cá nhân, sở hữu hỗn hợp. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất ở Việt Nam không tồn tại biệt lập mà đan xen và tác động qua lại với nhau. Sở hữu nhà nước được xác lập đối với các công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các nguồn tài nguyên và các tài sản quốc gia, đồng thời sở hữu nhà nước còn bao gồm tất cả các doanh nghiệp do nhà nước bỏ vốn hình thành, xây dựng, ngoài ra còn các hình thức như ngân hàng, tài chính mà nhà nước là chủ sở hữu, sử dụng và quản lý.
Từ các hình thức sở hữu trên, nền kinh tế nước ta tồn tại sáu thành phần kinh tế cơ bản (theo tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng IX): kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tiểu chủ; kinh tế tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Các thành phần kinh tế này tuy có đặc điểm, vai trò và vị trí khác nhau nhưng có mối liên hệ biện chứng- vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau, chúng tồn tại trong xã hội Việt Nam một cách khách quan, không thể tự giác phủ nhận một thành phần kinh tế nào trong chúng. Đây là một quy luật mà trước kia Đảng và Nhà nước ra đã sai lầm phạm phải. Nhờ có tồn tại nhiều thành phần kinh tế mà mới có thể phát triển một cách hiệu quả hơn trước kia.
Trong sáu thành phần kinh tế đó, thành phần kinh tế nhà nước được coi là giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần; nắm trong tay những ngành kinh tế then chốt; có lực lượng lao động đông đảo, tập trung và được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật và phát triển tri thức. Xu hướng vận động của thành phần kinh tế này là: dù được xác định giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhưng tồn tại khá lâu trong cơ chế bao cấp cũ vì vậy hiệu quả hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp nhà nước là thấp, tình trạng lãi giả lỗ thật mang tính phổ biến, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước để dẫn dắt các thành phần kinh tế khác còn mờ nhạt. Cũng vì thế, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc đổi mới phương thức quản lý các doanh nghiệp nhà nước mà ở đó đặc bệt quan tâm đến giải quyết quan hệ sở hữu. Hiện nay Đảng và Nhà nước có chủ trương và đang tiến hành cổ phần hoá một bộ phận lớn các doanh nghiệp nhà nước để chuyển doanh nghiệp nhà nước từ một chủ sở hữu là nhà nước thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, đó là cổ đông nhằm mục đích gắn quyền lợi và nghĩa vụ của chủ thể đối với quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài chủ trương cổ phần hoá, Đảng và Nhà nước đang tiến hành giao bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp nhà nước đặc biệt để củng cố hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và gần đây đưa ra Luật doanh nghiệp sửa đổi và kèm theo Luật phá sản doanh nghiệp.
Thành phần kinh tế tập thể có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, sản phẩm tạo ra từ nó thường là lương thực, thực phẩm, hàng xuất khẩu. Xu hướng phát triển của thành phần kinh tế này là: “Chuyển đổi và xây dựng các hợp tác xã kiểu mới” theo Luật hợp tác xã năm 1997, tiến hành đa dạng hoá các hình thức hợp tác bao gồm: các hợp tác xã phục vụ các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và cả các hợp tác xã tiêu thụ ản phẩm đầu ra, mỗi hợp tác xã đảm nhận những công đoạn nhất định trong quá trình sản xuất.
Thành phần kinh tế tư nhân gồm các xí nghiệp tư bản tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Thành phần kinh tế này có vai trò cần thiết, quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX thừa nhận kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế tất yếu của nền kinh tế nước ta. Nghị quyết TW 5 (khoá IX) của Đảng đã đưa ra một Nghị quyết phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta nhằm tạo điều kiện khuyến khích cho kinh tế tư nhân phát huy năng lực, phát triển cùng các thành phần kinh tế khác trong cả nước.
Thực tế cho thấy vai trò quan trọng của thành phần kinh tế này về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, về phát triển nền sản xuất, về giải quyết các vấn đền xã hội. Quy mô vốn đầu tư của kinh tế tư nhân trong nhiều năm qua không ngừng tăng lên. Năm 2001 tăng 23%, năm 2002 tăng 28%, trong 9 tháng đầu năm 2003 tăng 24%. Tỷ trọng sản phẩm đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân là:
Năm
1996
2000
2001
2002
%
3.12
3.38
3.73
3.93
Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm các nhà sản xuất nhỏ, nhưng có vai trò đáng kể trong viẹc tạo ra một khối lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư và trong việc giải quyết công ăn việc làm, nó hoạt động linh hoạt nên hiệu quả vốn cao.
Thành phần
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28277.doc