Đề tài Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

I - Đặt vấn đề 2

II - Giải quyết vấn đề 4

Chương I: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 4

1. Lực lượng sản xuất 4

2. Quan hệ sản xuất 5

3. Nội dung quy luật giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất 6

a. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, biến đổi và phát triển của quan hệ sản xuất 7

b. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất 7

c. Nội dung quy luật 7

Chương II: Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 9

1. Nhìn lại những sai lầm về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trước đại hội VI . 9

2. Sự nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của Đảng ta từ đại hội VI vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 11

a. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta 12

b. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 15

III - Kết luận 18

Danh mục tài liệu tham khảo 20

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thành lực lượng sản xuất trực tiếp của quá trìng sản xuất xã hội. Chưa bao giờ, tri thức khoa học đang trở thành được vật hoá, kết tinh thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất nhanh chóng và có hiệu quả như ngày nay, khoa học không còn là lý thuyết đứng ngoài quá trình sản xuất vật chất mà chuyển thành một mắt khâu của hệ thống sản xuất cả trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, công cụ lao động được cải tiến, con người không ngừng nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động được coi là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá sự tiến bộ của sản xuất, đánh giá trình độ lực lượng sản xuất của một xã hội nhất định. Lực lượng sản xuất do con người tạo ra, song nó là yếu tố khách quan, là nền tảng vất chất của toàn bộ nhân loại. Lực lượng sản xuất được kế thừa và phát triển liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi thế hệ sinh ra đều phải thích ứng với trình độ lực lượng sản xuất của thế hệ trước để lại. 2. Quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là toàn bộ những quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội. Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định các quan hệ khác. Lịch sử xã hội đã trải qua hai kiểu sở hữu về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội. Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế giữa người với người. Nếu tư liệu sản xuất nằm trong tay một số ít người, còn những người khác không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất thì quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị thống trị, quan hệ bóc lột và bị bóc lột. Đây là nguồn gốc sinh ra đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp. Còn nếu tư liệu sản xuất là tài sản chung của xã hội thì quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội nói chung là quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, nhằm đạt mục đích của sản xuất là không ngừng nâng cao đời sống vật chất văn hoá tinh thần cho tất cả những người lao động. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất có một chế độ quản lý riêng, chế độ sở hữu như thế nào thì chế độ quản lý sản xuất cũng như thế ấy. ở chế độ cộng sản nguyên thuỷ, mọi người cùng làm, cùng hưởng, địa vị xã hội xã hội của mỗi người đều như nhau, không có kẻ thống trị và người bị thống trị. Từ chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến đến chế độ tư bản chủ nghĩa thì chế độ quản lý sản xuất mang những loại hình khác nhau thích hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Phân phối sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất. Trong quan hệ phân phối, quy mô thu nhập của các giai cấp, các tập đoàn xã hội khác nhau đều phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ quản lý. Ba yếu tố trên của quan hệ sản xuất tác động qua lại lẫn nhau rất mật thiết tạo thành một cơ cấu, một thể thống nhất hữu cơ, tạo thành quan hệ sản xuất - quan hệ kinh tế của xã hội. Quan hệ xã hội mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội và tính phong phú đa dạng trong hình thức biểu hiện. 3. Nội dung quy luật giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất Như trên đã phân tích, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình thành nên một trong những quy luật cơ bản và quan trọng nhất của quá trình sản xuất xã hội và của toàn bộ lịch sử xã hội: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này chỉ rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và đến lượt mình quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. a. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, biến đổi và phát triển của quan hệ sản xuất Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Khuynh hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất tồn tại ở trình độ nào thì quan hệ sản xuất cũng tương ứng với trình độ của lực lượng sản xuất ấy. Lực lượng sản xuất biến đổi dần đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện một đòi hỏi khách quan là xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay bằng kiểu quan hệ sản xuất mới thích ứng với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, làm cho phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời. Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, đưa loài người phát triển từ phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất khác cao hơn. b. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa bàn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất lạc hậu, không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song sự kìm hãm đó chỉ là tương đối với sự phát triển tất yếu khách quan của lực lượng sản xuất khi quan hệ sản xuất lỗi thời cuối cùng sẽ bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất mới. Trong mọi hình thái kinh tế - xã hội, sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế cơ bản. Dưới chủ nghĩa tư bản các quy luật đó là quy luật kinh tế chính trị, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng, quy luật giá trị thặng dư. c. Nội dung quy luật Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã tạo ra nội dung của quy luật có thể phát biểu như sau: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cấu thành mỗi phương thức sản xuất. Chúng có quan hệ biện chứng với nhau trong đó nhân tố quyết định là lực lượng sản xuất. Nó quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất là nội dung đã biến đổi thì quan hệ sản xuất là hình thức xã hội cũng phải biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời quan hệ sản xuất cũng có khả năng ảnh hưởng trở lại đối với việc duy trì và phát triển những lực lượng sản xuất hiện có. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy, định hướng và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Còn nếu lạc hậu hơn so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tuy chỉ là tạm thời so với tất yếu khách quan của lịch sử nhưng quan hệ sản xuất sẽ là xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mối quan hệ biện chứng nói trên có tính chất lặp đi lặp lại ở mỗi giai đoạn lịch sử của quá trình sản xuất vật chất tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất. Nó là quy luật phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sủ xã hội loài người từ chế độ công xã nguyên thuỷ đến chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa là do tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất hoạt động không chỉ trong chế độ công xã nguyên thuỷ, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và tư bản chủ nghĩa mà còn hoạt động trong chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn là tất yếu khách quan. Do vậy để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển phải luôn điều chỉnh sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. Cho đến nay tất cả những nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa không phải từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao mà từ những nước tư bản ở trình độ phát triển trung bình hoặc chưa trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Mặt khác trong thời đại ngày nay lực lượng sản xuất đã mang tính chất quốc tế hoá. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lịch sử đã chứng minh rằng, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã hội. Vì thế có thể nói rằng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung, phổ biến của sự phát triển xã hội. Sự tác động của quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp lên cao. Chương II: Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng và nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chúng ta đang và sẽ nhận thức, vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào công cuộc cải cách đất nước như thế nào ? 1. Nhìn lại những sai lầm về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trước đại hội VI . Trước Mác, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa được con người nhận thức và vận dụng. Cùng với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, quy luật này đã được các Đảng cộng sản nhận thức và vận dụng trong điều kiện cụ thể ở mỗi nước trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong quá trình vận dụng đã có nhiều quan điểm phiến diện về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xây dựng ở những nước này. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa khác đã chứng minh rằng việc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua một cách nóng vội, bất chấp những điều kiện khách quan chưa chín muồi mà hậu quả của nó là sự lựa chọn mô hình kinh tế cũ là một sai lầm, là một cách làm chủ quan duy ý chí. Việc đi theo mô hình cũ chẳng những không tạo dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội mà còn tạo ra những trì trệ trong phát triển kinh tế xã hội. Sự khủng hoảng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thời gian qua hoàn toàn xác nhận điều khẳng định đó. Sự khủng hoảng này buộc các nước phải đổi mới và cải tổ. Như chúng ta đã biết nước ta đi lên Chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp: nền kinh tế sản xuất nhỏ, tự túc tự cấp, chưa đủ tái sản xuất giản đơn, lực lượng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, kinh tế hàng hoá với nhiều thành phần chưa phát triển, thu nhập bình quân đầu người rất thấp, nằm trong số các quốc gia nghèo và chậm phát triển nhất thế giới. Hơn nữa nền kinh tế nước ta còn bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không cho phép đưa ra quan hệ sản xuất cao, nhưng do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan hệ biện chứng này trong công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận động gần như cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, mở rộng phát triển quy mô nông trường quôc doanh, các nhà máy xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ lực lượng sản xuất đang còn thời kỳ quá thấp kém. Chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn, ngộ nhận là đã có “ Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” và cho rằng cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời lớn mạnh của lực lượng sản xuất và coi đó là quan hệ sản xuất tiên tiến mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thực tế đã chứng minh rằng quan điểm đó là sai lầm: quan hệ sản xuất bị thúc đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời với trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất. Sự vi phạm quy luật này đã làm cho quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất dẫn đến sản xuất kém phát triển, nền kinh tế khủng khoảng, lạm phát tăng vọt, lực lượng sản xuất lạc hậu so với trình độ chung của thế giới. Như vậy quan hệ sản xuất mà chúng ta xây dựng mới chỉ giải quyết được về mặt chế độ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Muốn củng cố được chế độ sở hữu công cộng và nhất là muốn thực hiện được sự phân phối theo lao động phù hợp với quy luật kinh tế cơ bản của Chủ nghĩa xã hội thì không có con đường nào khác ngoài việc đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, nghĩa là làm cho quan hệ sản xuất mới mau chóng có được một lực lượng sản xuất mới tương ứng. Về vấn đề này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng đã nhận thức được: “ Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà ngay cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” và đặt ra nhiệm vụ phải tìm cách: “ giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh lực lượng sản xuất”. [ Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật Hà Nội, 1987, trang 47 ]. Thực trạng kinh tế ở nước ta với nền nông nghiệp lạc hậu thì tính tất yếu phải cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển công nghiệp quốc doanh, công nghiệp nặng chỉ nên coi như mục đích lâu dài phải tiến tới chứ không coi như một tất yếu phải tạo ngay. Song bất chấp thực tế chúng ta vẫn tạo ra quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, nhưng thực tế thì không thể rút ngắn được. Một trong những sai lầm cơ bản mà chúng ta đã vấp phải là xoá bỏ quá sớm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa khi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của chúng ta còn chưa đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của lực lượng sản xuất và đã làm mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội. 2. Sự nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của Đảng ta từ đại hội VI vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhận thức được quy luật cơ bản về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là về kinh tế, chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, có vị trí chi phối nền kinh tế, chế độ tập trung quan liêu bao cấp phải được xoá bỏ chuyển sang hạch toán kinh doanh, đồng thời thay đổi chính sách phân phối từ bình quân chuyển sang nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ yếu. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng những quan điểm của Đại hội VI của Đảng đã đi vào thực tiễn, tạo ra sức sống mới cho nền kinh tế, cho phép khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động, đất đai, ngành nghề. Từ những thành tựu và hạn chế trong việc vận dụng quy luật này, Đại hội VII đã có những bước phát triển mới, nhất là đến hội nghị giữa nhiệm kỳ. Trong đại hội này Đảng ta đã chủ trương xây dựng và phát triển “ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. [ Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991, trang 21 ]. Đây là cách giải quyết hoàn toàn đúng đắn và tích cực trong giai đoạn quá độ từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội. Về cơ cấu kinh tế, Đại hội VII xác nhận các thành phần kinh tế theo quan điểm Đại hội VI và phát triển thay thế kinh tế quốc doanh bằng kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể bằng kinh tế hợp tác, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Việc xác định các thành phần kinh tế trên dựa trên quan hệ sở hữu và tính chất của lao động. Mỗi thành phần kinh tế có kiểu sản xuất của nó, hợp thành kinh tế hành hoá nhiều thành phần còn gọi là nền kinh tế hàng hoá quá độ chứ không phải là kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới của Đảng ta từ Đại hội VI đã đạt được những thành tựu đáng kể tuy không tránh khỏi những khuyết điểm vấp váp. Nền kinh tế đang có những chuyển biến cả về cơ cấu và cơ chế quản lý, đã hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Những thành tựu về kinh tế đã đạt được Đại hội VII khẳng định: “ Chúng ta đã đạt được những tiến bộ bước đầu về kinh tế, trước hết là về nông nghiệp, đặc biệt là về lương thực, kiềm chế một bước đã lạm phát, giảm bớt một phần khó khăn về đời sống của nhân dân. Đã đạt được những tiến bộ về xuất khẩu và cải thiện đáng kể cán cân xuất nhập khẩu đúng vào lúc mà quan hệ kinh tế đối ngoại có những biến động đột ngột, viện trợ quốc tế giảm nhiều, nguồn vay nhập siêu không còn và khả năng nhập khẩu từ các thị trường tuyên giảm mạnh”. [ Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991, trang 135 ]. Những thành tựu đó khẳng định công cuộc đổi mới của Đảng ta từ Đại hội VI là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, đặc biệt là sự vận dụng một cách sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên do tính khách quan của mối quan hệ này đòi hỏi Đảng ta phải kịp thời điều chỉnh phù hợp để vận dụng quy luật có hiệu quả. a. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta Từ khi con người mới xuất hiện trên hành tinh đã trải qua 5 phương thức sản xuất: nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Dù ở trong bất cứ chế độ xã hội nào đi nữa thì việc xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn là yêu cầu tất yếu. Đối với nước ta cũng vậy, chúng ta quá độ lên Chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa nên việc xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển lại càng quan trọng. Trước đây do nhận thức sai lầm về mô hình xã hội chủ nghĩa, do cách làm duy ý chí nóng vội, chủ quan, muốn đốt cháy giai đoạn và do coi sở hữu toàn dân là mục đích chính nên chúng ta đã mau chóng thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Từ đó dẫn đến việc chỉ chú trọng phát triển nền kinh tế với hai thành phần chủ yếu: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể còn các thành phần kinh tế khác thì bị kìm hãm và xoá bỏ. Tình trạng này đã làm nảy sinh những mâu thuẫn với lực lượng sản xuất còn thấp kém, lạc hậu kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Từ thực tiễn đời sống, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã rút ra bài học là không thể nóng vội trong việc giải quyết vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế tập thể. Đại hội cho rằng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải là một nhiệm vụ thường xuyên và liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Vì vậy đại hội VI đã đặt nền móng cho sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế bao gồm nhiều đặc điểm và đặc tính của kết cấu kinh tế xã hội cũ đồng thời lại xuất hiện những đặc điểm và đặc tính của kết cấu kinh tế xã hội mới, chúng tồn tại đan xen với nhau: “ Xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ không có nghĩa là phải nhanh chóng phủ định triệt để cái cũ mà phải biết vừa xây dựng cái mới, vừa sử dụng và cải tạo cái cũ để thúc đẩy chế độ kinh tế mới ra đời. Vì thế trong thời kỳ quá độ, chúng ta thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần là để huy động mọi năng lực sản xuất với những trình độ kỹ thuật, vốn liếng và quy mô khác nhau để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế , nâng cao đời sống của nhân dân”. [ Lại bàn về con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Lê Xuân Lựu. Tạp chí cộng sản. Số 24 tháng 8 - 2002. Trang 47 ]. Quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cho thấy: chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ thủ công lạc hậu đi lên Chủ nghĩa xã hội, có tác dụng to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Việc xây dựng quan hệ sản xuất phải tiến hành từng bước từ thấp đến cao, làm cho quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Chính sách kinh tế nhiều thành phần được coi là một chính sách có tính chiến lược, được thực hiện nhất quán, lâu dài trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội nhằm khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản suất, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Chính sách này ra đời xuất phát từ thực tiễn của nước ta, đồng thời nó cũng là sản phẩm của sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam. ở nước ta hiện nay, lực lượng sản xuất còn đa dạng và không đồng đều về tính chất và trình độ phát triển, đó là do nguồn gốc lịch sử để lại. Các cuộc cách mạng không triệt để, chiến tranh kéo dài liên miên làm cho lực lượng sản xuất lạc hậu, năng xuất lao động thấp kém. Chế độ phong kiến và chế độ thực dân nửa phong kiến đã để lại hậu quả nặng nề: nền sản xuất tự cung tự cấp, công cụ lao động thô sơ, người lao động chủ yếu là nông dân chỉ có vài kinh nghiệm, chưa phát huy được thế mạnh của mình. Mặt khác do khoa học-kỹ thuật ngày càng phát triển đòi hỏi nước ta phải có sự giao lưu, đón nhận những thành tựu của thế giới, tiếp thu những phát minh và kinh nghiệm quý báu để nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn và trình độ nhận thức. Chính vì lý do trên mà lực lượng sản xuất ở nước ta đa dạng nhưng không đồng đều. Chính vì thế chúng ta không thể nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất thành một phần dựa trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như trước Đại hội VI mà tất yếu phải duy trì nền kinh tế với nhiều thành phần. Trước Đại hội VI ta đã phạm phải sai lầm là đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, điều đó là hoàn toàn sai trái với quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Từ sau Đại hội VI chúng ta đã chú trọng đến những hình thức kinh tế trung gian, đi từ quy mô sản xuất nhỏ lên quy mô sản xuất lớn, từng bước tạo ra lực lượng sản xuất mới và chuyển dần sang phương thức sản xuất mới. Trong quá trình đi lên Chủ nghĩa xã hội, bên cạnh việc chú trọng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta cần phải duy trì và xây dựng một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp. Điều đó không đồng nghĩa với việc từ một nền kinh tế thấp do nóng vội mà nhảy lên nền kinh tế phát triển cao. Chúng ta không thể xoá bỏ một hình thức quan hệ sản xuất nào đó khi mà lực lượng sản xuất tương ứng với nó vẫn còn đang tồn tại, đang còn cần thiết cho xã hội. Nếu vội vàng xoá bỏ hình thức kinh tế này khi chúng đang còn là một tất yếu kinh tế thì đó là một điều “dại dột” và “tự sát” như Lênin đã nói: “dại dột” bởi điều đó chống lại quy luật khách quan, “tự sát” vì nó sẽ dần dần đưa nền kinh tế đến chỗ tiêu cực, lực lượng sản xuất xã hội sẽ bị phá hoại nghiêm trọng. Qua quá trình phân tích trên cho thấy sự tồn tại và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu kinh tế khách quan và có nhiều lợi ích to lớn trong thời kỳ qua độ. Thực tiễn của 15 năm đổi mới kể từ sau Đại hôi VI đã cho thấy, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã góp phần giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất; giải quyết việc làm cho nhân dân; khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước; tạo sự đa dạng về quy mô và trình độ của sản xuất phù hợp với trình độ kỹ thuật của nước ta; tạo môi trường thuận lợi cho sự liên kết và liên doanh với nước ngoài ...... Trong 10 năm tới để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nuớc cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế , là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế. Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, đổi mới cơ chế đối với doanh nghiệp nhà nước: xoá bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng, tự chịu trác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35401.doc
Tài liệu liên quan