Đề tài Vận dụng quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam

Mục lục

Lời mở đầu

Chương I: Những tìm hiểu cơ bản về phương thức sản xuất và tầm quan trọng của việc tiến hành công nghiệp 1

1- Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất. Quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với tốc độ phát triển của quan hệ sản xuất 1

1.1- Lực lượng sản xuất 1

1.2- Quan hệ sản xuất 3

1.3- Quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với tốc độ phát triển của quan hệ sản xuất 4

2- CNH - HĐH - Bước phát triển tất yếu của thời đại 7

Chương II: Quá trình CNH - HĐH ở nước ta hiện nay 10

1- Ảnh hưởng tích cực của CNH với nền kinh tế nước ta 10

2- Những thành tựu đạt được 16

3- Những hạn chế của sự nghiệp CNH HĐH 19

Chương III: Mục tiêu và giải pháp thúc đẩy sự nghiệp CNH HĐH ở nước ta hiện nay 22

1- Những mục tiêu cụ thể của Đảng ta trong sự nghiệp CNH HĐH 22

2- Một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự nghiệp CNH HĐH nước ta hiện nay 23

Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1946 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất với trình độ phát triển của quan hệ sản xuất vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đại hoá ở nước ta, chủ nghĩa Mác - Lê Nin đóng vai trò hết sức quan trọng, là cơ sở để chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Một trong những nhân tố không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác (đã được nêu trên), đóng vai trò là cơ sở lí luận. Trên thế giới cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại đang phát triển với tốc độ vũ bảo. Đặc trưng của cuộc cách mạng này là sự gắn bó chặt chẽ giữa khoa học với sản xuất, sự bùng nổ của phát minh thông tin. Quá trình quốc tế hoá đồi sống kinh tế chính trị xã hội diễn ra nhanh chóng và trở thành xu thế phát triển của thế giới. Mỗi quốc gia trở thành bộ phận hữu cơ của nền kinh tế tế thế giới . Hiện nay Việt Nam đang hướng tới một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí vĩ mô của nhà nước với mục tiêu là đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, an ninh quốc phòng và sự bền vững của môi trường. Nền kinh tế Việt Nam chỉ đạt tốc độ tăng nhanh, hiệu quả kinh tế cao khi nền kinh tế ấy thực dựa trên cở sở công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế là việc đòi hỏi tất yếu của mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Điều này khẳng định công nghiệp hoá- hiện đại hoá là một vấn đề quan trọng đặc biệt, là bước phát triển tất yếu đối với nước ta. Đặc biệt trong thời kì hiện nay nền kinh tế vẫn mang tính chất đặc thù lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kinh tế kém phát triển, cơ sở kĩ thuật chưa xây dựng là bao nhiêu, kinh tế phát triển khá nhưng năng suất thấp, chất lượng thấp khả năng cạnh tranh với các nước kém. Cho nên chỉ có con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá mới là con đường cơ bản khắc phục được yếu kém của nền kinh tế nước ta, giữ vững ổn định chính trị xã hội. Dựa vào học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác. Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện hoá đất nước. Từ đó có khả năng phát triển lực lượng sản xuất và cơ sở hạ tầng cho phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất nứơc ta hiện nay tuy đã phát triển nhưng chưa phù hợp quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, trên phạm vi toàn thế giới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đang được coi là phương hướng chủ đạo, phải qua các nước đang phát triển. Đối với nước ta khi những tư tưởng cơ bản học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội được nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với tư cách là cơ sở lí luận của công nghiệp hoá - hiện đạt hoá đất nước thì một mặt chúng ta phải đẩy nhanh sự nghiệp này trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại cho chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Mặt khác chúng ta phải chú trọng xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự đIều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, chúng luôn thúc đẩy và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Chương II Quá trình Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay 1. ảnh hưởng tích cực của công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với nền kinh tế nước ta Quá trình công nghiệp hoá -hiện đại hoá, trong đó nó bao hàm sự phát triển nền kinh tế chung của đất nước ta, khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hóa tiến lên xã hội chủ nghĩa Trong quá trình đổi mới đất nước, công nghiệp hoá- hiện đại hoá có vai trò cực kì quan trọng trong sự đổi mới của nước ta. Nó thúc đẩy cho sự phát triển của mọi mặt của xã hội. ở trong điều kiện nước ta hiện nay, cùng với quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với việc phân công lao động xã hội, là một tất yếu khách quan. Đẩy mạnh phân công lao động xã hội trong điều kiện hiện nay không chỉ xuất phát từ yêu cầu phát triẻn kinh tế, văn hoá, xã hội mà còn đáp ứng nhu cầu hợp tác quốc tế, chủ động tham gia và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc. Để đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước, nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng được thúc đẩy một cách nhanh chóng, chúng ta trở lại với phương pháp luận của hồ chí minh về vấn đề này: Trong hệ thống các biện pháp tác động vào tính tích cực xã hội của con người, Hồ Chí Minh chủ trọng trước hết là công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa và đạo đức cách mạng. Chúng ta tiến hành CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa lầ nhằm cơ sở vật chất - kỹ thuật để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu "dân giaù nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Lòng yêu nước tinh thần tự hào dân tộc, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư phải luôn được khơi dậy như là động lực hàng đầu. Dân chủ hoá triệt để đời sống xã hội là bản chất, là quy luật phát triển củachủ nghĩa xã hội. Hoàn thiện cơ cấu dân chủ, khắc phục những thiếu sót nghiêm trọng trong quá trình vận hành các thiết chế dân chủ XHCN mà Hồ Chí Minh đã lưu ý. Vai trò không ngừng tăng lên của con người gắn liền với việc thúc đẩy nhanh tiến bộ khoa học- kĩ thuật, với việc đổi mới cải cách giáo dục - đào tạo. Nhân loại đang bước vào nền văn minh mới - văn minh trí tuệ, một nền văn minh mới kinh tế kiến thức, một xã hội mới xã hội thông tin. Về mô hình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước ta, đang chủ trương không lặp lại hoá cổ điển, mà tự tìm lấy một mô hình phù hợp với hoàn cảnh đất nước và điều kiện thế giới ngày nay. Để làm được việc đó giáo dục và khoa học phải tạo ra những con người có đủ kiến thức, năng lực lựa chon, phát huy sáng tạo, công nghệ mới; từ đó làm chủ công nghệ nhập biến chúng ta thành công nghệ của mình và tạo ra công nghệ mới và hiện đại hoá công nghiệp truyền thống, không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, làm ra nhiều sản phẩm với năng xuất cao, chất lượng và hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu . Việc tìm kiếm mô hình đã khó, nhưng việc giải quyết những vấn đề chung cho quá trình công nghiệp hoá lại càng khó hơn. Để Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hoá vào khoảng năm 2020 thì tốc độ tăng trưởng trung bình từ nay tới đó là 10%năm. Năm 1998 trước những biến động lớn về kinh tế trong khu vực, Việt Nam đã phải đièu chỉnh xuống mức 7%. Đến năm 1998 chúng ta phải cố gắng đạt tới 10%, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam xác định rõ chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm là: nhịp độ tăng GDP là 7,5%năm. Quả thật, để đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá như đã đặt ra là một thử thách không nhỏ đối với Đảng và nhân dân ta nói chung, đối với đội ngủ trí thức nói riêng. Việc để đạt được mục tiêu đề ra là một thách thức lớn, xong nó đã kéo theo sự tăng trưởng GDP ngày lớn, trình độ văn hoá ngày càng cao, hơn thế nữa mà trình độ văn hoá văn minh hơn. Đội ngũ trí thức Việt Nam sẽ gánh vác trọng trách này . Thực hiện công tác đổi mới, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhiều chủ trương, chính sách đối với miền núi được thực thi, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền nhân dân các dân tộc kinh tế ở một số tỉnh miền núi được quan tâm chú trọng nhiều hơn, như tỉnh Lai Châu gần đây đã có nhiều khởi sắc tiến bộ. Trong những năm gần đây nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển đổi rõ rệt, các chính sách xã hội được thực hiện tốt hơn, đời sống đồng bào các dân tộc được nâng lên, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Trong những năm gần đây Lai Châu liên tiếp chịu sự thiệt hại nặng nề do thiên tai gây ra (lũ quét, mưa đá, mưa đất...), nền kinh tế đã khó khăn càng thêm khó khăn. Đế từng bước ổn định cho nhân dân, thúc đẩy nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, Lai Châu đã dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá . Việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH ở Tỉnh Lai Châu sẽ làm thay đổi về cơ bản phương thức sản xuất manh mún, tự cung tự cấp hiện nay, tạo ra nền kinh tế nông -lâm - công nghiệp - chế biến - dịch vụ ổn định, từng bước phá thế độc canh, phát huy tiềm năng, nội lực,nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, tiến tới làm giàu cho địa phưong, góp phần tích cực vào xây dựng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Theo báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Việc phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá giúp cho phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển cơ cấu kinh tế, kinh tế lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi hoạt đông kinh tế đều đánh giá bằng hiệu quả kinh tế tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội môi trường, quốc phòng an ninh. Trước mắt tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh các doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả đầu tư sử dụng vốn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên các thế mạnh và các lợi thé so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước, nhu cầu đơì sống nhân dân và quốc phòng, an ninh. Tạo thêm sức mua bán của thị trường trong nước và ngoài nước, thúc đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng cường sự chỉ đạo và huy động lực lượng cần thiết để phát huy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển đưa nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng khoa học, kĩ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích, đẩy mạnh thuỷ lợi hoá cơ giới hoá, điện khí hoá giải quyết tôt vấn đề nông sản hàng hoá. Đầu tư hơn cho vấn đề phát triển cơ cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, tạo điều kiện việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn. Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triẻn công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm .. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở sản xuất công nghiệp nặng quan trọng sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng. Khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí, khoáng sản vật liệu xây dựng. Chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một số doanh nghiệp đi đầu trong cạnh tranh hiện đại hoá. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương mại, kể cả thương mại điện tử, hàng không, hàng hải các loại hình vận tải khác, bưu chính, viễn thông, tài chính ngân hàng, kiểm toán bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường. Sớm phổ cập tin học và internet trong nền kinh tế và đời sống xã hội. Xây dựng đồng bộ từng bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng, giao thông điện lực, thông tin, thuỷ lợi, cấp nước thoát nước. Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý trên các vùng. Hiện đại hoá dần các thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn. Không tập trung nhiều cơ sở công nghiệp và dân cư vào các đô thị lớn. Khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường. Tăng cường công tác quy hoạch đô thị, nâng cao thẩm mỹ kiến trúc... Về phát triển kinh tế các vùng nâng cao vai trò nguồn lực kinh tế vùng đó, mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển kinh tế các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng tạo mức tăng trưởng khá nhanh. Phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược kinh tế biển, mở rộng nuôi trồng và đánh bắt, chế biến hải sản, tiến ra biển xa, khai thác chế biến dầu khí, phát triển vận tải viễn thông dịch vụ, phát triển các vùng dân cư trên biển. Sử dụng hợp lí và tíêt kịêm tài nguyên, bảo vệ và cải tạo môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, coi đây là một nội dung của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường quản lý công tác ở các lĩnh vực, các vùng thực hiện nghiên cứu luật bảo vệ môi trường. Về vấn đề mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Bước đầu đã tạo nhiều quan hệ song phương và đa phương với các nước và các vùng lãnh thổ, các trung tâm kinh tế chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực bình đẳng và cùng có lợi. Chủ động hội nhập quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dan tộc bảo vệ môi trường. Chính phủ cùng các bộ các ngành khẩn trương xây dựng vấn đề hội nhập quốc tế với lộ trình hợp lí và hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp,đẩy mạnh dịch chuyển cơ cấu kinh tế và đổi mới cỏ chế quản lý kinh tế – xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nền kinh tế. Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nứơc xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN, cùng xây dựng Đông Nam á thành một khu hoà bình,không có vũ khí hạt nhân, ổn địng hợp tác cung phát triển, phối hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của nhau. Đẩy mạnh công tác tin học dịch vụ, nghiên cứu, làm tốt công tác dự báo tình hình khu vực và thế giới, kịp thời có những chủ trương, chính sách đối ngoại thích hợp khi tình hình thay đổi, tăng cường hơn nữa công tác thông tin đối ngoại và văn hoá đối ngoại. Về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hoá tiến đậm đà bản sắc dân tộc: đẩy mạnh giáo dục đào tạo toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống quản lý giáo dục, thuực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá xã hội hoá. Phát huy tư duy khoa học sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu của học sinh và sinh viên. Khuyến khích phát triển hệ thống trường dân lập và hệ thống các trường tư thục. Mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ quy mô giáo dục và đào tạo. Từng bước thực hiện nối mạng quốc tế ở các trường đại học Về khoa học công nghệ phát triển khoa học xã hội và nhân văn, hướng vào việc giải đáp các vấn đề thực tiễn và lý luận, dự báo các chủ trương chính sách phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở khoa học sự phát triển các lĩnh vực khoa học công nghệ trọng điểm và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ. Thực hiện tốt chính sách sở hữu chí tuệ, đãi ngộ dặc biệt với các nhà có công trình nghiên cứu xuất sắc. Xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc: Hướng mọi hoạt động văn hoá vào con ngươì việt nam phát triển toàn diện về văn hoá chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực, sáng tạo có ý chí cộng đồng và xã hội. Hướng báo chí, xuất bản làm tốt chức năng tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước phát triển hoạch định những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội, giới thiệu gương người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến, phê phản các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn nhận thức lệch lạc, đấu tranh với quan điểm sai trái. Nâng cao tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến đấu của thông tin, khắc phục khuynh hưóng “ thương mại hoá quốc tế" trong hoạt động báo chí, xuất bản, nêu cao tinh thần trách nhiệm của gia đình và thành viên có lối sống văn hoá, làm cho gia đình thực sự trở thành là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh toàn dân có phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá’’. 2- Những thành tựu đạt được trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta: Về sản xuất nông nghiệp: về sản lượng lương thực tăng khá cao, lượng lương thực quy ra thóc đạt tới mức đáng kể và tăng dần qua các năm. Tốc độ tăng lương thực vượt mức tăng dân số, vì vậy lượng lương thực tăng qua các năm. Sản lượng gạo xuất khẩu cũng gia tăng: Năm 1991 tổng sản lượng lương thực là 21,98triệu tấn; lương thực bình quân đầu người là 324,9/người; sản lượng gạo xuất khẩu là 1triệu tấn. Năm 1995 tương ứng là 27,44 triệu tấn; trung bình 364.0 kg trên 1 người; sản lượng gạo xuất khẩu là hai triệu tấn. Tiến bộ rõ nhất trong sản xuất lương thực là tăng năng suất lúa và ngô đã đạt và tăng đáng kể: năng xuất lúa từ 31,1 tạ / 1ha (1991) đã dần theo các năm 33,3 tạ / 1ha (1993) 35.6tạ / ha 1994 và 37,1/ 1ha (1995) . Sản xuất ngư nghiệp: trong năm qua ngành thuỷ sản đã liên tục hoàn thành kế hoạch.Đến năm 1995 tổng sản lượng thuỷ sản quy ra thóc đạt 1.355.140 triệu tấn, tăng 37.31% so với năm. Trong đó thuỷ sản nuôi và khai thác trên địa bàn nội hạc đạt trên 450.000 tấn, tăng 3 lần so với năm 1980 Dịch vụ ở nông thôn tăng đáng kể: Hệ thống thương mại và dịch vụ tăng đáng kể đáp ứng nhu cầu ngày càng tốt hơn về nhu cầu sản xuất cả đời sống của người dân trên địa bàn nông thôn. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá lẻ tăng như mặt hàng vật tư, phân bón, tăng từ 33,403,6 tỷ đồng năm lên 82,450 tỷ năm 1994. Mặc dù vẫn chậm so với thị trường nhưng sức mua bán ở nông thôn tăng chiếm từ 60-70% tổng quỹ mua bán của xã hội. Mạng lưới thương mại và dịch vụ từng bước được nâng cao. Sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các tụ điểm công nghiệp, thưong mại và dịch vụ. Về công nghiệp: Trong 3 năm nước ta vẫn giữ tốc độ tăng trưởng khá cao, năm 1996 là 9,3%; năm 1997 là 8,1%; năm 1998 là 5,8% bình quân 3 năm gần đây là 8%, đây là một tốc độ tăng trưởng khá cao. So với đầu thập kỉ những năm 90 quy mô kinh tế nước ta đã có bước tăng trưởng khá, quy mô nền kinh tế năm 1997 tăng 1,76 lần so với năm 1990 và năm 1998 là khoảng 1,8 lần. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá cao năm 1996 tăng 14,2% năm 1997tăng 13,8%, năm 1998 lầ 12,1%. Mặc dù mức tăng trưởng của các thành phần kinh tế khác nhau nhưng nhìn chung vẫn duy trì ở mức ổn định. Công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo trong toàn ngành và duy trì tăng trưởng khá cao. Sản xuất lương thực luôn đạt mức tăng trưởng cao: Năm thấp nhất tăng 11,6% (1999/1998), năm cao nhất tăng 15,7% (2000/1999). Những sản phẩm lớn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Năm 2000 so với năm 1995 là: Dầu thô khai thác tăng gấp 2,2 lần; tăng 16,45 diện tích sản xuất; thép các loại tăng 16,4% gấp 3,4 lầnso với 1995; tăng 29,2% mặt hàng động cơ điện gấp 1,6 lần; xin măng tăng 9,6% gấp 2,3 lần, phân hoá học tăng 18,25 năm gấp 1,4 lần; giày dép tăng 7,4% năm tăng gấp 2lần; đường tăng 14,95 tgấp 2,3 lần; sản xuất xe máy gấp 6,4 lần tăng 45% năm... Tỷ trọng công nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân từ 19,8% năm 1991 lên 21,9% năm 1995 và 36,65 năm 2000. Đây là một sự chuyển dịch khá nhanh, liên tục tính ổn định và đúng với mục tiêu của cong đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Trong toàn bộ nghành công nghiệp cũng có sự chuyển biến: Công nghiệp chế biến vẫn là chủ yếu chiếm 80,5% toàn ngành công nghịêp và chiếm 18,7% tổng sản phẩm thu nhập quốc dân; ngành công nghiệp khai thác trong những năm gần đây có tốc độ tăng nhanh; tỷ trọng năm 2000 chiếm13,55 toàn ngành công nghiệp và tổng sản phẩm trong nước ngành công nghiệp điện nước chiếm khoảng 6% toàn bộ ngành công nghiệp . Về giáo dục : Trình độ dân chí, tiềm lực khoa học và công nghệ nâng cao một bước: với trình độ phát triển giáo dục, trình độ học vấn của nhân dân được nâng lên. Tiến hành nâng cao chất lượng xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đã có 10 Tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Giáo dục trung học phổ thông phát triển nhanh (trong 5năm qua bình quân tăng 18%năm); giáo dục chuyên nghiệp phát triển mạnh. Số lao động đã đào tạo tăng từ 13% năm 1996 lên 20% năm 2000, số lao động có trình độ cao đẳng trở lên tăng 80 vạn người, năm 1995 lên 1,3 triệu người năm 200 / cán bộ khoa học làm nghiên cứu khai tăng đáng kể, cơ quan nghiên cứu triển khai tăng đáng kể, từ 519 đơn vị năm1995 lên 873năm 2000. Các tổ chức tư vấn và chuyển giao công nghệ phát triển nhanh, hệ thống thông tin khoa học quốc gia được đổi mới và hiện đại hoá một bước, theo hướng điện tử hoá, cán bộ có thể dàng truy cập và khai thác thông tin trên thế giới và trong nước. Trình độ đội ngũ khoa học của chúng ta tăng đáng kể, một số lĩnh vực bắt kịp thế giới. Về vấn đề phân công lao động xã hội: Là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số và hơn 70% lao động sống ở nông thôn và làm nông nghiệp. Dần một số thành phần lao dộng chuyển dần từ ngành nông nghiệp sang công nghiệp. Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng việc phát triển các ngành công nghiệp dệt - may, da - giày... các khu công nghiệp chế xuất, các công trình xây dựng công nghiệp và giao thông, thuỷ lợi đã thu hút lượng lớn lao dộng, các lao động mới và lao động đang làm trong nông nghiệp - vào làm việc trong cơ sở công nghiệp. Ngoài ra còn có một số lĩnh vực khác cũng phát triển như: công nghệ thông tin với việc phát triển mạng Internet đã nối mạng trên khắp thế giới đã giải quyết bao nhiêu khó khăn và tăng thêm thuân lợi cho việc phát triển kinh tế cho toàn bộ xã hội. 3- Những hạn chế của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước ta: Trước đây trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã xác định công nghiệp hoá "là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội " song nước ta vẫn mắc phải sai lầm bằng cách nhận thức về công nghiệp hoá. Từ cuối những năm 70, đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội với những khó khăn gay gắt lạm phát. Khi đó do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữ lý luận và thực tiễn có khoảng cách quá xa tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất, chế độ bao cấp dẫn đến tình trạng trì chệ trong công việc: ỷ lại lười nhác, phụ thuộc vào Nhà nước. Không năng động sáng tạo bằng công tác được giao, không cần quan tâm đến kết quả đạt được. Trong sản xuất sản phẩm làm ra không đủ chất lượng lạm phát càng tăng. Kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước đời sống xã hội thấp kém, nghèo khó. Trước đây chúng ta do không thấy được quy luật lực lượng sản xuất phát triển sẽ kéo theo quan hệ sản xuất phát triển nên chúng ta đã đi ngược lại quy luật này và muốn áp đặt một quan hệ sản xuất để kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sau khi tiến hành đổi mới chúng ta đã tuân theo đúng quy luật, chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động trên cơ chế thị trường làm cho năng suất lao động tăng, lực lượng sản xuất phát triển do đó quan hệ sản xuất càng phát triển theo. Mặt khác phải tạo ra yếu tố tích cực biến các yếu tố chủ quan vì nó có tính độc lập tương đối vì rằng ý thức có tính vượt trước nên quan hệ sản xuất có khả năng vượt so với sản lượng sản xuất vượt trước ở đây là sự vượt trước có tính phù hợp, vượt trước dựa trên cơ sở suy luận khoa logic, dựa trên các quy luật và cao hơn là sự vượt trước kiến trúc thượng tầng so với cơ sở hạ tầng. Nó cũng phải dựa trên sự phù hợp với quy luật và cơ sở lý luận khoa logic. Đáng tiếc là chúng ta vì muốn rút ngắn thời kỳ quá độ chúng ta đã tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần nội dung và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Kết quả cuối cùng đem lại là kinh tế quốc doanh kém hiệu quả còn kinh tế ngoài quốc doanh lại bị kìm hãm không ngóc đầu lên được. Nền kinh tế tuy đạt được độ tăng trưởng nhất định nhưng sự tăng trưởng đó không có phát triển vì dựa vào bao cấp, bởi chi ngân sách lạm phát vay nợ nước ngoài. Con người không được giải phóng và bị lâm vào tình trạng khủng hoảng lạc hậu trì trệ làm tăng chi phí lớn của cải xã hội. Đến khi áp dụng chính sách khoán đất cho nhân dân tự trồng trọt, phá bỏ hợp tác nên Nhà nước đã có những bước chuyển mình rất rõ rệt. Trong lựa chọn bước đi, đã có lúc chúng thiên về "Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng coi đó là giải pháp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công nghiệp. Mà không coi trọng đúng mức của phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, công nghiệp hoá cũng hiểu một cách giản đơn là quá trình xây dựng một nền sản xuất được cơ khí hoá trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Chúng ta thực hiện chủ nghĩa xã hội ồ ạt với quy mô lớn. Quốc hữu hoá toàn bộ các xí nghiệp tư nhân. Kế hoạch kinh tế của nước ta hầu như dậm chân tại chỗ với những viện nghiên cứu bao cấp chỉ đạo thì làm sao không thể phát huy được năng lực sáng tạo với đồng vốn ít không đủ để cho nghiên cứu không cung cấp đầy đủ kinh phí cho các việc ứng dụng nó vào thực tiễn sản xuất. Trong khi đó nhìn ra bên ngoài khoa học kỹ thuật của các nước phát triển như vũ bão và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thấm vào tất cả các yếu tố của con ngư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60837.doc
Tài liệu liên quan