MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Chương 1. Cơ sở lý luận về văn hoá doanh nghiệp 3
1. Tính cấp thiết của vấn đề 3
2. Cơ sở lý luận 4
2.1. Văn hoá và văn hoá DN 4
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới văn hoá DN 8
2.3. Xu hướng vận động của văn hoá DN 12
Chương 2. Văn hoá doanh nghiệp ở Việt Nam 14
1. Văn hoá DN trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. 14
2. Văn hoá DN Việt nam trong cơ chế thị trường. 15
2.1. Văn hoá DN trong những năm đầu khi mới chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường. 15
2.2. Hiện nay 17
3. ảnh hưởng văn hoá DN tới sự thành công của các DN Việt Nam 27
Chương 3. Văn hoá doanh nghiệp ở một số doanh nghiệp thành công và một số đề xuất trong việc xây dựng một nền văn hoá doanh nghiệp lành mạnh 29
1. Văn hoá DN ở một số DN thành công trong kinh doanh. 29
2. Một số đề xuất trong việc xây dựng một nền văn hoá DN lành mạnh 35
Kết luận 39
Tài liệu tham khảo 40
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Văn hoá doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành chính. Điều đó làm cho các DN không thể vươn lên mà ngày càng làm ăn kém hiệu quả, để lại hậu quả lâu dài cho xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chính là do hệ thống giáo dục và quản lý sử dụng mang tính '' dân chủ '' dàn hàng ngang do cách đánh giá tài năng còn quá tin vào bằng cấp, hàm vị... và do nguyên nhân lịch sử khách quan khác, cho nền lúc này hay lúc khác đã xảy ra tình hình có những người được làm nhưng không biết làm. Kết quả là người thì dư sức, người thì đuối sức mà hiệu quả chung thấp kém.
Một khía cạnh gai góc của văn hoá quản lý là vấn đề '' giải quan liêu, tham nhũng ''. Trong quản lý kinh tế lúc bấy giờ, nhiều cán bộ quản lý kinh tế lạm dụng chức quyền, tư túi : từ viên chức, giám đốc, quản đốc, chủ nhiệm hợp tác xã... Mọi tài sản là của công thì lập tức bị bòn rút, chẳng ai thương sót, tức là ''vô chủ '', '' Cha chung không ai khóc ''.
Nhìn chung, trong thời kỳ này môi trường kinh doanh có thể nói là không lành mạnh, người lao động chưa được quan tâm và coi trọng đúng mức, hình ảnh của DN bị lu mờ.
2. Văn hoá DN Việt nam trong cơ chế thị trường.
2.1. Văn hoá DN trong những năm đầu khi mới chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường.
Mọi người đều biết, do sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, sự tách rời giữa người sản xuất và người tiêu dùng là hiện tượng tất nhiên, mối quan hệ giữa con người với con người trong việc duy trì cuộc sống hàng ngày vì thế chủ yếu phải thông qua trao đổi các sản phẩm làm ra. Về thực chất, việc trao đổi này là sự trao đổi những giá trị sáng tạo đích thực của con người. Nhưng khi các sản phẩm đó được bán và mua trên thị trường thì lại phải thông qua tiền tệ ( dưới dạng tiền mặt hay trái phiếu ). Và người có nhiều tiền dường như có thể mua được tất cả ! Đó chính là cội nguồn sâu sa làm nảy sinh sùng bái tiền tệ, sùng bái của cải vật chất. Sự sùng bái ấy dần dần biến thành triết lý hành động, triết lý sống của một số người.
ở Việt Nam, trong những năm đầu khi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, một số người đã tung ra quan niệm :
'' Tiền là tiên là phật
là sức bật của cuộc đời
là tiếng cười của tuổi trẻ
là sức khoẻ của ông già
Là cái đà của danh vọng
là cái lọng che thân
là cán cân công lý
ôi ! tiền là hết ý !''
Rõ ràng là trong triết lý sống của một số người theo quan niệm nói trên, đồng tiền đã '' xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc đối với bản chất con người, cũng như đối với những liên hệ xã hội khác ''. Như C.Mác đã từng phân tích. Đó chính là mặt trái, là sự tha hoá của quan hệ tiền hàng, mà quan hệ này vốn là một tất yếu kinh tế và một bước tiến của văn minh.
Nhưng thực tế lại cho thấy tiền không phải là tiên là phật. Có những giới hạn mà đồng tiền không thể vươn tới được, đó là hạnh phúc và niềm vui chân chính của con người. Hạnh phúc - đó là điều mà đồng tiền không thể mua được. Không ít nhà kinh doanh giàu có ngồi trên cả đống vàng mà vẫn thấy mình bất hạnh vì tình cảm giữa con người với con người cạn kiệt, gia đình tan vỡ, đạo đức suy đồi, các tệ nạn xã hội tràn lan....là những cái chứa đựng nguy cơ phá hoại nền tảng của chính xã hội mà họ đang sống.
ở nhật bản, một nước có nền kinh tế thị trường phát triển vào bậc nhất trên thế giới, người ta cũng rất đề cao triết lý '' Cuộc sống hạnh phúc không gì khác hơn là sáng tạo tối đa ''... Sáng tạo ra ba loại giá trị : Giá trị của cái đẹp, giá trị của cái lợi, giá trị của cái thiện ''.
Ngay từ thời kỳ đầu khi chuyển sang cơ chế thị trường, các DN vẫn chưa coi trọng văn hoá DN. Do ảnh hưởng của những tập quán từ thời kỳ trước, các DN vẫn lao vào làm ăn nhiều khi bỏ quên '' Giá trị đích thực ''. Hơn nữa, kinh tế thời kỳ này vẫn chưa phát triển nhiều, do vậy văn hoá DN - Tài sản vô hình của Công ty vẫn chưa được đề cao, họ vẫn chưa coi đây là một trong những điều kiện sống còn, một loại vũ khí cạnh tranh sắc bén.
Khi cuộc sống chưa phát triển, đời sống còn nhiều khó khăn nên người ta chỉ biết lao vào làm ăn kinh tế đủ để trang trải cho cuộc sống mà không còn thời gian quan tâm tới đời sống tinh thần. Những người nhân viên có thể chấp nhận làm việc trong một môi trường không thuận lợi miễn sao có tiền như nhiều thường nói ''Có thực mới vực được đạo ''.
2.2. Hiện nay
2.2.1. Đánh giá chung
Khi nền kinh tế đi vào sự phát triển, đời sống của con người được cải thiện, con người không chỉ dừng lại ở những nhu cầu vật chất đơn thuần mà còn đòi hỏi giá trị tinh thần, giá trị của chân thiện mỹ.
Cũng như nhiều nước khác, Việt Nam đang chuyển mình bước sang giai đoạn mới, giai đoạn mà nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Dưới sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật công nghệ, sự bùng nổ thông tin, mặc dù Việt Nam vẫn chưa được xem là một nước có nền kinh tế phát triển nhưng kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt cụ thể là : Tỷ lệ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 91 - 95 đạt xấp xỉ 8% nếu tính cả giai đoạn này là 7,5%, tỷ lệ GDP bình quân đầu người đã được cải thiện một cách rõ rệt từ 200USD/người năm 1990 lên 400US/ người năm 2000. Điều này cho thấy đại bộ phận dân cư đã được nâng cao mức sống, tạo nền tảng cho quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Đồng thời do những thành công trong giai đoạn này mà cơ cấu nền kinh tế trở nên hợp lý hơn. Nhà nước cũng như các DN đã có nhiều kinh nghiệm và nhiều cơ hội giao lưu hợp tác với các DN nước ngoài. Tuy nhiên để thực hiện việc giao lưu hợp tác không phải DN nào cũng đạt được.
Có thể nói sức ép cạnh tranh giữa các DN ngày càng lớn, trận chiến ngày càng khốc liệt và bất cứ một DN nào cũng có thể bị đào thải nếu hoạt động không hiệu quả. Trong cuộc chạy đua này, có một thứ ''vũ khí'' rất lợi hại được nhiều nhà quản trị quan tâm đó chính là ''văn hoá DN ''. Theo Trần Hoàng Bảo - Giám đốc Công ty thiết bị văn phòng BNP :'' Làm cho DN của mình phồn thịnh là điều mơ ước của mọi doanh nhân. Có lẽ bí quyết chính là xây dựng nền tảng văn hoá cho Công ty. Nhiều khi tiếp xúc với các đối tác nước ngoài ta cho rằng nói nhiều về doanh số là có thể thuyết phục được họ. Nhưng không phải chỉ có vậy kinh nghiệm ba năm qua cho tôi thấy đối tác đánh giá mình qua những điều khác. Họ đánh giá DN qua thứ tài sản vô hình là văn hoá Công ty, đây là điều ít được để ý đến.văn hoá công ty thể hiện qua phong cách người lãnh đạo và tác phong làm việc của nhân viên, công ty có văn hoá là nơi đó nhân viên có tinh thần tự giác cao,cống hiến hết lòng cho công việc. Làm được điều này không phải dễ,có khi phải mất 5-10 năm '' .
Như vậy, ngày nay các doanh nghiệp Việt Nam mà cụ thể hơn đó là những người chủ doanh nghiệp đã thực sự quan tâm tới vấn đề văn hoá doanh nghiệp và coi đây là công cụ cạnh tranh sắc bén..Tuy nền kinh tế thị trường còn ở dạng sơ khai với không ít hiện tượng tiêu cực trong xã hội, buôn bán, giao dịch...Nhưng ngày càng có nhiều nhà kinh doanh biết suy nghĩ và hành động vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, trong đó có hạnh phúc của bản thân và gia đình mình. Ngay sau cách mạng tháng tám 1945 thành công, nhà kinh doanh nổi tiếng Trịnh văn Bô đã nêu một tấm gương như vậy. Gia đình ông đã tự nguyện ủng hộ cho quỹ độc lập số tiền giá trị tương đương 5000 lạng vàng. Lẽ sống và cũng là triết lý kinh doanh của gia đình này là '' Buôn bán được 10 đồng lãi thì giữ lại 7 còn lại thì giúp đỡ người nghèo và làm những việc phúc đức. Khi cần để nuôi độc lập thì cống hiến tất cả. Đó là triết lý kinh doanh, là mục tiêu làm việc của những con người có lý tưởng nhân bản sâu sắc, vì nó dựa trên một quan niệm đúng đắn về hạnh phúc cá nhân không tách rời mà gắn bó mật thiết với hạnh phúc công đồng. Phải chăng đó là sự kết tinh những giá trị văn hoá trong kinh doanh ?.
Theo Lê tấn Hùng, Giám đốc Công ty Trang Vàng Việt Nam '' Sự thành công hay thất bại của một DN là điều bình thường. Nhưng tôi cho rằng trước khi nói đến sự thành đạt cần phải nói đến cái tâm. Điều mà tôi luôn tâm niệm khi lập nghiệp là mình còn trẻ, con đường phía trước còn dài. Do đó, đừng vì muốn đạt được lợi ích trước mắt mà gây hậu quả xấu cho xã hội. Khi còn chưa đóng góp được gì nhiều cho xã hội thì đừng tàn phá tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường... sẽ không thể nào thành công nếu chỉ biết vun vén cho chính mình ''
Hiện nay, ở các DN Việt Nam họ không những chỉ chú trọng đến lợi nhuận đơn thuần mà còn quan tâm thích đáng tới khía cạnh xã hội của hạt động kinh doanh. Các giá tri tinh thần truyền thống buộc các nhà DN phải đặt mình trong cộng đồng dân tộc. Xã hội là một gia đình lớn, các DN là một gia đình nhỏ. Việc đóng góp cho ngân sách nhà nước, tham gia hoạt động xã hội từ thiện, tôn trọng những quy phạm đạo đức trong quan hệ xã hội, quan hệ kinh doanh là thái độ văn hoá tối thiểu của các DN. Các DN thực hiện chế độ thuế với nhà nước một cách đầy đủ, khi cần tham gia hoạt động xã hội từ thiện cụ thể ở nước ta như hạn hán, thiên tai liên tục xẩy ra gây những tổn thất to lớn về người và của, do vậy rất nhiều DN đã ủng hộ cả về vật chất cũng như tinh thần cho đồng bào lũ lụt.
Tuy nhiên không phải mọi DN ở nước ta đều thực hiện được như vậy.Tình trạng ô nhiễm môi trường, gian lận thuế, làm hàng giả vẫn diễn ra thường xuyên và là nỗi nhức nhối của xã hội. Những hành động này vô hình chung DN đã từ chối cội nguồn và nghĩa vụ của mình,và như thế cũng có nghĩa là DN cũng đã tự tha hoá và tách rời khỏi cộng đồng dân tộc, bất chấp tất cả cái lợi trước mắt.Trên con đường mưu sinh vẻ hào nhoáng của danh, sức hấp dẫn của lợi đã làm cho nhiều người khó phân biệt lúc nào là tranh đấu cho quyền lợi chính đáng của mình và lúc nào là vi phạm đạo đức. Cho nên có người đã khuyên rằng :'' Người khôn ngoan là người biết đến giới hạn nào thì tham vọng không còn là một phẩm chất tốt nữa ''
Văn hoá DN trong cơ chế thị trường ở Việt Nam còn được thể hiện ở mối quan hệ giữa nhà quản trị và nhân viên, thể hiện ở phong cách của người lãnh đạo và người lao động.
Đã qua rồi thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, không còn nữa tình trạng làm việc theo mệnh lệnh, trên đe dưới búa, xem người lao động như những máy làm việc, triệt tiêu ý tưởng sáng tạo, năng lực làm việc của họ.
Các DN bây giờ không chỉ quan tâm tới vấn đề lợi nhuận mà còn quan tâm rất nhiều tới người lao động xem người lao động vừa là động lực cho sự phát triển kinh doanh vừa là mục tiêu của hoạt động kinh doanh. Bầu không khí làm việc trong DN là bầu không khí thoải mái, các cá nhân được phát huy tối đa tính sáng tạo của mình, được yêu cầu những điều kiện cần thiết...
Mỗi thành viên trong DN đều có trách nhiệm hành động vì sự tồn tại của gia đình thứ hai của mình. Đó là DN nơi họ làm việc. Bời vì quá trình kinh doanh là quá trình vượt dốc, và không ai có thể một mình thắng ở quá trình này. Cá nhân chỉ là cái chấm đỏ nhỏ nhoi trong lòng của tập thể người lao động. Đó chính là thể hiện tinh thần đoàn kết, tinh thần doanh nghiệp :
Hòn đá nặng
Một người vác
Vác không nặng
Nhiều người vác
Vác lên nặng
Đoàn Sỹ Hiền - Phó Tổng Giám đốc Công ty mỹ phẩm Quốc tế ICC trong một bài phát biểu đã nói;''Có người hỏi tôi tinh thần DN là gì ? thừ nhất là ở đâu có nhu cầu thì ở đó có kinh doanh và khi đã làm kinh doanh thì phải đặt hết tâm huyết vào.Điều thứ hai là khi đã xác định con đường mình muốn đặt tới thì phải quyết tâm. Đã làm thì phải làm cho tới cùng, giám chấp nhận thử thách và sự cạnh tranh. Để làm được điều này không phải chỉ một mình ông chủ mà phải thổi tự tin đó vào đội ngũ nhân viên, như thế mới có sức mạnh để đi tới.''
Tuy người lao động có vai trò to lớn như vậy song ở nhiều DN người lao động bị đối xử rất bạc đãi. Họ xem người lao động như những công cụ lao động, trừng phạt người lao động một cách tàn bạo. Chính vì vậy mới có nhiều cuộc đình công của người lao động ở các DN, đặc biệt là DN liên doanh tạo nên môi trường làm việc nặng nề. Tuy tình hình này đang ngày một được cải thiện song vẫn đang tồn tại nhiều.
Trước những thử thách của môi trường đầy biến động, nhiều DN đã rơi vào tình trạng khó khăn có lúc tưởng như giải thể, phá sản. Tuy nhiên trước những thử thách như vậy nhiều DN đã biết '' Vượt dốc '', biết chấp nhận rủi ro, không nản lòng trước thất bại. Đó chính là những tập quán không thành văn, là thái độ đối với sự thành công hay thất bại trong thương trường :'' Thắng không kiêu, bại không nản ", '' Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười ''. Vilacera là một ví dụ điển hình. Để có được vóc dáng như ngày hôm nay để có thương hiệu Vilacera được người tiêu dùng quen mặt biết tên đaau phải dễ dàng, có những đêm mất ngủ đấy, có những bóng người ngụp lặn trong đêm đấy, có máu đổ và những giọt nước mắt đã rơi nóng hổi...
Để từ đất, từ cái thăng hoa lên thành ánh sáng lấp lánh của men sứ, thành sự trong suốt đến mềm lòng của kính, thành sự vững chãi và kiểu cách đỏm dáng của những viên gạch, viên ngói lợp lên bao mái ấm gia đình...Điều đó cũng thật gian khổ nếu không có nghị lực cùng những trí tuệ và hoài bão ''vượt dốc '' không nghỉ ngơi thì sự hoá thân của những viên đất những hạt cát kia vẫn mãi chỉ là giấc mơ.
Vilacera với niềm tin mãnh liệt ở trong ngực mình, với trí tuệ sáng suốt ở trong đầu đã dần bước để vượt dốc và bứt lên biến ước mơ nhà ngói sơn gạch đến cho bao người
Nhìn chung,''văn hoá doanh nghiệp '' trong thời kì kinh tế thị trường ở Việt Nam đã được quan tâm và cải thiện hơn nhiều so với thời kì trước. Song cái gì cũng có mặt trái của nó. Khi nền kinh tế càng phát triển, càng nhiều vấn đề tiêu cực, không lành mạnh diễn ra. Vì vậy cần phải quan tâm nhiều hơn tới văn hoá trong kinh doanh, tìm cách nâng cao văn hoá trong kinh doanh và để cho'' văn hoá doanh nghiệp'' thực sự trở thành tài sản vô hình, thành công cụ cạnh tranh sắc bén của công ty.
2.2.2. Những điểm mạnh và điểm yếu khi xây dựng văn hoá doanh nghiệp ở việt nam
2.2.2.1. Điểm mạnh
Trong điều kiện mở cửa hiện nay, các giá trị đạo đức truyền thống đang bị các luồng gió độc lấn át mọi giá trị tinh thần đang bị đảo lộn, lợi nhuận trở thành mục tiêu, động lực duy nhất của kinh doanh. Người ta sẵn sàng sử dụng mọi thủ đoạn để đạt càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Nhiều người rất bi quan, nhưng ngày từ thời các Vua Hùng đến nay, nhân dân ta đã được rèn luyện thử thách qua các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chính nền văn hoá dân tộc là lá chắn, là cái lọc khổng lồ lựa chọn, tiếp thu những luồng gió thơm tho, hiện đại, đồng thời loại bỏ những gì xấu xa, vô đạo đức của những nhân tố ngoại lai để bảo vệ dân tộc ta trong quá trình phát triển.
Ngay từ thời xa xưa,ông cha ta đã đặt chữ nhân lên hàng đầu. Nguyễn Trãi từ thế kỷ 15 đã nêu cao đạo lý Nhân Nghĩa của dân tộc ta, một dân tộc '' thắng không kiêu, bại không nản '', một dân tộc có truyền thống '' nhường cơm xẻ áo '', '' lá lành đùm lá rách '', một dân tộc sẵn sàng hy sinh quyền lợi của cá nhân cho xã hội : '' Người ăn thì còn, con ăn thì hết '', xem tiền bạc chỉ là phương tiện để có cuộc sống ấm no chứ không phải là mục tiêu chính của con người.
'' Tiền bạc như phấn thổ,nhân nghĩa tựa thiên kim ''.
Chúng ta được thừa hưởng cả một giá trị tinh thần to lớn mang tính thời đại như thế thật là may mắn.
Chính vì được thừa hưởng những giá trị truyền thống cao đẹp như vậy đã tạo ra nét văn hoá chung và văn hoá doanh nghiệp Việt Nam nói riêng mang đậm bản sắc dân tộc. Việc bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc bao gồm tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa cuả nền văn hoá khác. Thái độ cởi mở, khoa học đúng đắn của chúng ta trong thời kỳ mở cửa, sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của các nhà đầu tư sẽ tạo đà cho nền kinh tế phát triển, sớm hoà nhập vào nền kinh tế chung của cộng đồng quốc tế mà vẫn không làm mất đi bản sắc dân tộc, thực hiện '' hoà nhập nhưng không hoà tan''. Chính những giá trị đạo đức truyền thống đã tác động tích cực tới văn hoá doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc xây dựng văn hoá DN.
Khi nền kinh tế tăng trưởng, phát triển thì điều tất yếu, thu nhập của người dân được nâng cao. Cụ thể ở Việt Nam, thu nhập của người dân đã ngày một tăng đời sống con người ổn định hơn. Bây giờ người dân, khách hàng đã trở thành những vị thượng đế khó tính. Tuy nhiên đây cũng là một điểm mạnh cho việc xây dựng văn hoá DN. Nếu DN nào tạo được niềm tin trong con mắt khách hàng thì DN coi như đã thành công hơn nữa.
Nếu xét trên góc độ là người lao động, khi thu nhập đã cải thiện, mỗi người đến công sở không phải chỉ vì mục tiêu kiếm tiền, tiền là trên hết. Mức sống nâng cao, những nhu cầu vật chất được thoả mãn thì nấc thang nhu cầu không chỉ dừng lại ở đó mà nâng lên đó là nhu cầu về tinh thần, nhu cầu của cái tôi.
Không thể chỉ đem lương cao ra để dụ dỗ người lao động, mà nngười lao động làm việc cần có môi trường thoải mái phát huy tính sáng tạo của mỗi người, người lao động đòi hỏi sự tôn trọng chứ không phải theo kiểu đối xử chủ tớ. Và lẽ dĩ nhiên, nếu DN có một môi trường làm việc tốt sẽ phát huy khả năng làm việc của mọi thành viên trong DN.
Như vậy nắm bắt được tâm lý này, các DN sẽ tự xây dựng một nền văn hoá DN lành mạnh, đủ sức thu hút người lao động và khách hàng. Khi nhu cầu của con người đòi hỏi như vậy thì tất nhiên họ cũng sẵn sàng tham gia vào việc xây dựng văn hoá DN thông qua những cư xử hàng ngày, qua lối sống lành mạnh.
Mặt khác, cũng do nhu cầu của con người ngày càng phát triển, và đa dạng, sự phát triển thần kỳ của khoa học kỹ thuật đã làm đa dạng hoá các nghành nghề sản xuất kinh doanh. Việt Nam cũng đã mở cửa tiếp thu các luồng gió mới, tiếp thu những ứng dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ.Trên con đường mở của hội nhập nhiều, rất nhiều DN, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam làm cho hàng hoá đa dạng hơn tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa hàng nội và hàng ngoại.Việc cạnh tranh nhau không chỉ qua chất lượng sản phẩm mà còn qua những thứ tài sản vô hình khác trong đó có văn hoá DN. Nhìn vào một DN có triết lý kinh doanh đúng đắn, có môi trường làm việc thoải mái, mọi thành viên đối xử với nhau bằng sự tôn trọng thì người ta có thể có cảm giác tốt về DN, tạo niềm tin và cảm giác bình an cho người tiêu dùng. DN nào chỉ cần gây hình ảnh xấu trong con mắt khách hàng thì cũng đồng nghĩa với việc DN cũng đang dần bị loại bỏ khỏi thương trường.
Một mặt khi nghành nghề đa dạng, cạnh tranh nhau thì việc thu hút chất xám, thu hút tri thức ngày càng trở nên quan trọng. Và vấn đề là ở chỗ làm thế nào để thu hút được đội ngũ lao động tri thức ? Lương là yếu tố quan trọng khi tìm việc song phải luôn đặt nó trong gói chung các điều kiện nhằm vào mục đích phát triển lâu dài. Có nhiều người đã từ chối ở những nơi có lương rất cao để dến làm việc cho những công ty trả lương rất bình thường bởi dù lương thấp nhưng điều kiện làm việc thoải mái, họ thực sự được tôn trọng chứ không phải bị coi như người làm thuê. Chính điều này làm cho các công ty phải xây dựng văn hoá kinh doanh lành mạnh, tạo môi trường làm việc thoải mái cho người lao động.
Trong thời kỳ hiện nay, nhiều nhà quản trị đã nâng cao tầm hiểu biết thông qua quá trình mở cửa hội nhập, nhà quản trị có lối sống cởi mở hơn, đối xử tốt với người lao động hơn.Trong quan niệm sống, lý tưởng sống họ đã có triết lý sống mà cụ thể là triết lý kinh doanh đúng đắn, làm lợi cho xã hội cho người lao động.
Không ít nhà DN trẻ tuổi thành đạt trên thương trường đã có triết lý sống đúng đắn, phù hợp với truyền thống đạo đức của người Việt Nam. Chính họ là người đã thổi những tư tưởng, tinh thần vào trong DN, tạo nên nền văn hoá DN lành mạnh.
Khác với thời kỳ trước, trong thời kỳ này, yêu cầu về đội ngũ lao đọng tri thức ngày càng cao, tri thức được coi là một tài sản đặc biệt của DN. Đội ngũ lao động có trình độ cao ngày càng nhiều. Khi sự hiểu biết cao con người sống với nhau sẽ tốt đẹp hơn, họ sẽ cư xử với nhau có '' văn hoá'' hơn. Chính điều này là điểm mạnh cho việc xây dựng văn hoá DN Việt Nam.
Tìm hiểu và biết được những điểm mạnh để từ đó xây dựng một nền văn hoá DN mạnh bởi chúng ta có những con người mang trong mình dòng máu nhân nghĩa của cha ông, có những con người luôn khát khao vươn tới cái chân, thiện, mỹ.
2.2.2.2. Điểm yếu
Trong thời đại cạnh tranh ngày nay, muốn đất nước tiến lên cần thẳng thắn nhìn nhận về mình, không thể cứ '' tốt khoe, xấu che''. Người Trung Quốc đã rất khôn ngoan khi tự phê trong cuốn sách nổi tiếng '' Người Trung Quốc xấu xí'', còn người Nhật tự phê mình qua tác phẩm '' Người Nhật ghê tởm''... nhờ thế họ đã biết khắc phục những tính xấu, những nhược điểm và vươn lên.
Người Việt nam nói chung và người lao động Việt Nam nói riêng đều xuất thân từ nông dân. Người nông dân hiền lành chất phát luôn là biểu tượng của nhiều đúc tính tốt đẹp. Tuy nhiên, nguồn gốc nông dân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đặc biệt tư tưởng, tâm lý tiểu nông đã ảnh hưởng rất lớn đến quan niệm tác phong, tập tính và cách làm việc, từ đó ảnh hưởng tới vấn đề văn hoá trong DN.
Trước hết, đó là những suy nghĩ manh mún và không hệ thống. Một trong những biểu hiện của lối suy nghĩ này là tính tự phát, chạy theo phong trào, không theo một quy hoạch nào trong sản xuất nông nghiệp. Tất nhiên, có rất nhiều nguyên nhân, kể cả sự bất cập trong công tác quy hoạch của Nhà nước, nhưng tư tưởng tiểu nông là một trong những nguyên nhân chủ yếu.
Người lao động mang tư tưởng tiểu nông thường suy nghĩ một cách giản đơn về công việc và vai trò họ đang làm. Việc chạy theo những mối lợi trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài cũng rất phổ biến trong giới công nhân lẫn công chức. Nhiều công nhân bị sa thải vì ăn cắp vặt, hoặc lợi dụng thiết bị trong nhà máy vào công việc riêng. Ngay cả nhân viên văn phòng, được xem là có học thức hơn, vẫn có hiện tượng mang dụng cụ văn phòng về nhà sử dụng vô tội vạ, dùng điện thoại cơ quan nói chuyện riêng... Họ quên rằng quyền lợi của họ gắn với quyền lợi của công ty, mà làm như vậy không chỉ gây thiệt hại cho công ty mà còn ảnh hưởng cả uy tín của bản thân họ. Nhiều người nước ngoài rất ngạc nhiên về điều này, vì dù đã được trả mức lương tương xứng rồi, nhiều người lao động Việt Nam vẫn tìm mọi cách '' kiếm tiền thêm'' vì lợi ích riêng có khi rất nhỏ nhoi.
Một điểm yếu nữa của lao động Việt Nam là tính kỷ luật kém. Một biểu hiện rất khó chịu thường thấy ở các cơ quan hành chính sự nghiệp và các công ty quốc doanh : buổi sáng thường đi làm trễ hơn quy định, rồi sau đó thì đi ăn sáng, uống cà phê, đi chợ và làm nhiều việc "giết " thời gian như uống trà, chơi cờ tướng... Đây là một tập quán xấu cản trở sự phát triển của nền kinh tế và gây ấn tượng không tốt cho lao động Việt Nam trong việc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài. Trong các DN, tình trạng lộn xộn, bừa bãi rất phổ biến. Nhiều vụ nổ, cháy chết người gây ra bởi sự vô kỷ luật này. Nhiều xung đột đã diễn ra giữa các ông chủ nước ngoài nghiêm khắc với các công nhân Việt Nam vô kỉ luật này. Khách quan mà xét, những người nước ngoài đã quen sống trong môi trường kỷ luật, nề nếp nên khó có thể chấp nhận những biểu hiện chểnh mảng, vô kỷ luật của không ít người lao động Việt Nam.
Người lao động việt nam còn có tính chủ quan, ỷ vào khả năng xoay sở của mình, không nhìn xa trông rộng. Quan niệm ''tới đâu hay tới đó '' thói quen'' nước tới chân mới nhảy '', không kế hoạch, không chuẩn bị rất phổ biến..Với tâm lí này, rõ ràng khi hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta sẽ rất ngỡ ngàng và bị thua thiệt. Học sinh sinh viên việt nam thường có thói quen lên lớp, chỉ để điểm danh ghi chép...lấy lệ để rồi mùa thi lại...''vắt giò lên cổ ''. Khi đi làm họ cũng mang tâm lí ''từ từ rồi mọi chuyện cũng sẽ qua thôi '' Chính những điều này tạo nên nhiều khó khăn cho việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp .
khi chiến tranh,mọi người đều rất đồng lòng đứng lên chiến đấu nhưng khi hoà bình lập laị thì nội bộ lục đục, đấu đá lẫn nhau.Nguyên nhân của tính xấu này cũng chính từ sự nhỏ nhen, tham lam và đầu óc tư lợi. Lịch sử cho thấy, trong các triều đại phong kiến, những vị Vua đầu tiên thường giành lại đất nước từ tây kẻ thù, nhưng những thế hệ con cháu sau đó lại thường để đất nước rơi vào tay giặc.Ngay cả công thần Nguyễn Trãi, một đỉnh cao của trí tuệ và mưu lược, vẫn không sao thoát khỏi sự ác nghiệt của thị phi vu cáo trong triều đình. Ngày nay nạn kéo bè phái không phải là ít trong các tổ chức trong các công ty. Tính không đoàn kết cũng là nguyên nhân khiến hoạt động của DN không hiệu quả, do '' Năm người mười ý '', ai cũng tìm mọi cách bảo vệ cái tôi của mình.
Mặt khác, do cuộc sống của người Việt Nam vẫn chưa cao, nhu cầu vật chất của con người chưa được đáp ứng đầy đủ. Nếu nhu cầu chưa được đáp ứng đầy đủ thì ắt họ phải tìm cách làm cho nhu cầu được đáp ứng. Đây cũng là một nguyên nhân gây nên tệ tham nhũng, quan liêu. Tham nhũng đang ngày một trở thành '' Quốc nạn '' của nền kinh tế. Người Việt Nam có dân chí không cao mà đặc biệt là người lao động chân tay. Người lao động là lực lượng chính trong DN, là lực lượng ảnh hưởng to lớn đến việc xây dựng nên văn hoá DN. Chính trình độ thấp ảnh hưởng không tốt trong việc hình thành nền văn hoá DN ngay từ những cư xử hàng ngày, thái độ đối với công việc, quan niệm sống cũng như mục tiêu làm việc
Có thể nói
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35304.doc