Lời nói đầu
Phần I: Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT đối với thành phần kinh tế cá thể
I. Những lý luận cơ bản về thuế GTGT
1 - Sự ra đời của Luật thuế GTGT
2 - Khái niệm về GTGT và thuế GTGT
3 - Những đặc điểm cơ bản của thuế GTGT
4 - Nội dung cơ bản của Luật thuế GTGT
Phần II: Tình hình thực hiện Luật thuế GTGT đối với hộ kinh tế cá thể trên địa bàn quận Hoàn Kiếm
45 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Về tình hình thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng đối với hộ kinh tế cá thể trên địa bàn quận Hoàn Kiếm – Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sát nhập, chia tách, giải thể, phá sản mà có số thuế GTGT nộp thừa.
Cơ sở có quyết định hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật.
Hoàn thuế đối với các dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức thì chủ dự án hoặc nhà thầu chính được hoàn lại thuế GTGT đã trả trong các giá mua hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho dự án hoặc là đã trả khi nhập khẩu.
Tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, tiền viện trợ không hoàn lại của tổ chức cá nhân nước ngoài mua hàng hoá tại Việt Nam thì được hòan lại số thuế GTGT đã trả ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng.
Miễn giảm thuế GTGT:
Đối tượng được xét miễn giảm thuế GTGT: là các cơ sở sản xuất, xây dựng, vận tảihoạt động sản xuất kinh doanh bị lỗ do số thuế GTGT phải nộp lớn hơn số thuế tính theo mức thuế doanh thu trước đây thì được xét giảm thuế GTGT phải nộp theo từng năm và được thực hiện trong 03 năm (1999- 2001).
Mức thuế GTGT được xét giảm tương ứng với số lỗ nhưng không quá số chênh lệch giữa thuế GTGT phải nộp với số thuế tính theo mức thuế doanh thu trước đây của năm được xét giảm thuế. Số thuế GTGT phải nộp được xác định ở đây không bao gồm thuế GTGT đã nộp ở khâu nhập khẩu.
Về nguyên tắc, không qui định việc miễn giảm thuế GTGT vì thuế GTGT là loại thuế gián thu do người tiêu dùng chịu.
Tuy nhiên, chuyển đổi từ thuế doanh thu sang thuế GTGT do đó bị dồn từ việc nhiều mức thuế suất xuống ít mức thuế suất, một số ít doanh nghiệp sẽ có lợi, ngược lại có nhiều doanh nghiệp lại gặp khó khăn và bị lỗ trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, Luật thuế GTGt qui định một số đối tượng trong những năm đầu áp dụng thuế GTGT nếu bị lỗ sẽ được xét giảm thuế cho từng năm kể từ khi Luật thuế GTGT có hiệu lực thi hành.
Phần ii - tình hình thực hiện luật thuế giá trị gia tăng (gtgt) đối với hộ kinh tế cá thể trên địa bàn quận hoàn kiếm
Đặc điểm kinh tế xã hội và cơ cấu tổ chức bộ máy của chi cục thuế quận Hoàn Kiếm:
Đặc điểm kinh tế xã hội của quận Hoàn Kiếm:
Hoàn Kiếm là một trong 7 quận của thủ đô Hà Nội, có vị trí quan trọng về Văn hoá - Chính trị - Kinh tế .
Diện tích: 4,47 km2.
Dân số khoảng: 185.800 người.
Đây là trung tâm buôn bán lâu đời của thủ đô như Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Bông, Hàng Gai, chợ Đồng Xuân, chợ Hàng Da... Ngoài ra quận còn là nơi tập trung những đầu mối giao thông quan trọng của cả nước như ga Hà Nội, ga Long Biên, là nơi tập kết, trung chuyển hàng hoá lưu thông đi cả nước. Vì vậy, có thể nói quận Hoàn Kiếm đã phản ánh tương đối rõ nét tình hình hoạt động thương mại của thành phố và cả nước.
Song song với hoạt động của các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn của quận là một số doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh. Trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển biến của cả nước, quận Hoàn Kiếm cũng có nhiều thay đổi ảnh hưởng tốt đến đời sống tinh thần và vật chất của mọi người dân và đang đi vào ổn định, phát triển.
2.Nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy của chi cục thuế quận Hoàn Kiếm:
2.1 Nhiệm vụ của chi cục:
Phối kết hợp với các cơ quan chức năng, tổ chức quản lý các đối tượng kinh doanh trên địa bàn, đảm bảo nguồn thu vào ngân sách thông qua các sắc thuế theo qui định của Nhà nước.
Phân loại và hướng dẫn các đối tượng kinh doanh kê khai đăng kí thuế, tính thuế, lập bộ thuế, đôn đốc nộp thuế vào ngân sách Nhà nước đúng kì hạn.
Giải quyết các khiếu nại, vướng mắc và xử lý những hành vi vi phạm, chống thất thu cho ngân sách Nhà nước trong phạm vi quyền hạn qui định của Luật.
Số đối tượng nộp thuế do Chi cục Hoàn Kiếm quản lý hiện nay là:
+ Hơn11.000 hộ cá thể, trong đó có khoảng 1.500 hộ được miễn thuế do có thu nhập thấp( số hộ được miễn thuế thay đổi theo từng thời điểm).
+35 công ty, doanh nghiệp tư nhân( nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp).
+25 đơn vị nộp phí và lệ phí.
2.2 Bộ máy tổ chức của chi cục thuế quận Hoàn Kiếm:
Biên chế tổ chức gồm 317 cán bộ, nhân viên. Trong đó:
35 cán bộ đã tốt nghiệp đại học.
52 cán bộ đang học đại học.
Số còn lại đều đã tốt nghiệp trung cấp.
Thực hiện thông tư số 110/1998/TT – BTC và công văn số 98TCT/TCCB ngày 07/01/1999 của tổng cục thuế, cơ cấu bộ máy Chi cục thuế quận Hoàn Kiếm bao gồm:
Về lãnh đạo Chi cục:
01 chi cục trưởng: phụ trách, theo dõi công tác tổ chức, kế hoạch.
03 phó chi cục trưởng: trực tiếp theo dõi điều hành công tác thu thuế theo khu vực, địa bàn đảm nhiệm theo sự phân công của chi cục trưởng.
Có 26 tổ, đội, trạm biên chế như sau:
21 đội thu thuế cố định, thực hiện nhiệm vụ quản lý thu các loại thuế trên phạm vi phường, chợ được phân công.
02 trạm kiểm soát, thu thuế khâu lưu thông.
01 tổ thanh tra, kiểm tra, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tình hình thực hiện Luật thuế của các đối tượng nộp thuế, xử lý các hiện tượng vi phạm, kiểm tra sổ sách kế toán, hoá đơn của các đối tượng nộp thuế, kiểm tra việc chấp hành các chế độ thu, nộp thuế của các đội thuế, bộ phận tính thuế.
01 tổ kế hoạch nghiệp vụ thực hiện chức năng tham mưu cho lãnh đạo về việc phân bổ kế hoạch, xác định mức thuế ấn định, nhận xét đánh giá qui mô của từng phường chợ để tham mưu cho ban lãnh đạo duyệt bộ thuế, tính thuế, phát hành thông báo thuế, đối chiếu số thu với kho bạc, thực hiện công tác kế toán – thống kê thuế, quản lý và cấp phát sổ sách kế toán, ấn chỉ, hoá đơn.
01 tổ quản lý nhân sự, hành chính giúp lãnh đạo Chi cục điều hành công tác và thực hiện nhiệm vụ của toàn Chi cục.
Ngoài việc theo dõi quản lý thu, mỗi đồng chí phó Cục trưởng còn kiêm nhiệm một số công tác khác đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi cục.
Sơ đồ tổ chức bộ máy Chi cục thuế quận Hoàn Kiếm.
Chi cục trưởng
07 đội quản lý phường chợ
Tổ thanh tra kiểm tra
02 trạm lưu thông
Tổ thu thuế nhà đất
07 đội quản lý phường chợ
Tổ kế hoạch- nghiệp vụ
07 đội quản lý phường chợ
Tổ quan trị nhân sự hành chính
Phó chi cục trưởng
Phó chi cục trưởng
Phó chi cục trưởng
ii.tình hìnhthực hiện luật thuế gtgt đối với hộ cá thể trên địa bàn quận hoàn kiếm.
Những năm gần đây, thuế ngoài quốc doanh nói chung, kinh tế cá thể nói riêng đã đem lại một nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước và ngân sách địa phương.
Qua thời gian triển khai Luật thuế GTGT, kết quả bước đầu đạt được tương đối tốt, những vướng mắc trong quá trình thực hiện được phát hiện và giải quyết kịp thời, việc sử dụng chứng từ, hoá đơn, kê khai nộp thuế đã dần đi vào nề nếp.
Biểu 1: Kết quả thu 12 tháng năm 1999 và năm 2000.
( Đơn vị: triệu đồng )
Loại thuế
Chỉ tiêu kế hoạch
Thực hiện
Tỷ lệ so sánh thực tế 99/KH 1999
Tỷ lệ so sánh thực tế 2000/KH 2000
Tỷ lệ so sánh thực tế 2000/1999
1999
2000
1999
2000
Thuế ngoài QD
97.230
106.953
93.004
121.000
95,65%
113,1%
130%
Thuế nhà đất
1.800
1.980
1.974
2.172
109,6%
109,6%
110%
Tiền thuê đất
9.600
10.560
9.036
10.764
94,12%
101,9%
119%
Phí, lệ phí
2.150
2.365
2.415
2.000
112,3%
84,56%
82%
Tổng cộng
110.780
121.858
106.429
135.936
96,07%
111,5%
127,7%
Qua biểu trên ta thấy, do chỉ tiêu của năm đầu thực hiện Luật thuế GTGT chi cục đặt ở mức cao nên thực tế không đạt được. Sang năm 2000 chi cục đã nỗ lực điều tra đối tượng nộp thuế để đưa vào diện quản lý và khâu điều tra doanh thu tính thuế có hiệu quả hơn nên kết quả thu năm 2000 đã tăng 1,2 lần so với kế hoạch năm 2000 và tăng 1,15 lần so với năm trước. Qua đó ta thấy nguồn thu từ thuế GTGT ngày càng cao và có kết quả lớn hơn.
1. Quản lý đối tượng nộp thuế:
Do tính chất của kinh tế cá thể là luôn luôn biến động phụ thuộc vào qui luật cung cầu cộng với tính tự giác chấp hành luật pháp chưa cao của các hộ kinh doanh, nên ngay từ đầu, chi cục đã chỉ đạo các bộ phận nghiệp vụ kết hợp với các ngành chức năng như: Uỷ ban nhân dân, hội đồng tư vấn thuế các phường chợ, cơ quan thống kê, cơ quan cấp phát đăng ký kinh doanh, quản lý thị trường rà soát phân loại và buộc các đối tượng kinh doanh chấp hành đăng ký thuế, nhằm đưa các đối tượng có hoạt động sản xuất kinh doanh vào diện quản lý.
Bằng sự cố gắng, nỗ lực, với tinh thần trách nhiệm của toàn thể cán bộ, nhân viên trong chi cục, đặc biệt là sự giúp đỡ của các ngành liên quan nên tình hình quản lý đối tượng nộp thuế của chi cục thuế Hoàn Kiếm đã đạt được nhiều kết quả.
Biểu 2: Tình hình quản lý hộ đăng ký thuế.
Diễn giải
Số hộ thực tế kinh doanh.
(Số cơ sở kinh doanh)
Số hộ đăng ký kinh doanh. (Số cơ sở đăng ký thuế)
Tỷ lệ %
Năm 1999
11.091
10.424
93,98 %
Năm 2000
10.857
10.608
97,7 %
Từ biểu trên ta thấy:
Số hộ chưa đăng ký = Số hộ thực tế - Số hộ đăng ký
kinh doanh kinh doanh kinh doanh
Như vậy:
Số hộ chưa đăng ký = 11.091 - 10.424 = 667 (hộ)
kinh doanh năm 1999
Số hộ chưa đăng ký = 10.857 - 10.608 = 249 (hộ)
kinh doanh năm 2000
Từ đây, ta thấy số hộ chưa được quản lý của năm 2000 so với năm 1999 đã giảm đi 418 hộ chứng tỏ rằng tinh hình quản lý đối với các hộ kinh doanh trên địa bàn quận đã có tiến bộ rõ rệt.
Nhận thức công tác quản lý đối tượng nộp thuế là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước đồng thời duy trì sự công bằng trong xã hội, nên việc bám sát địa bàn thường xuyên của cán bộ quản lý được chi cục thuế Hoàn Kiếm luôn đề cao, mục đích nắm sát tình hình, khả năng hoạt động, phát hiện những hộ mới ra kinh doanh, kịp thời hướng dẫn đối tượng kê khai, đăng kí thuế và đưa vào diện quản lý.
Để tránh tình trạng giảm, mất đối tượng nộp thuế do xin nghỉ kinh doanh, chi cục đã tăng cường công tác kiểm tra hộ xin nghỉ, giải thể bằng cách thực hiện chặt chẽ quy trình đối với hộ nghỉ như: phải có đơn xin nghỉ đã được hội đồng tư vấn thuế xác nhận, danh sách hộ nghỉ được kiểm tra thường xuyên, lãnh đạo chi cục ra quyết định miễn, giảm thuế hộ kinh doanh mới được miễn giảm thuế. Với những trường hợp đã xin nghỉ nhưng vẫn kinh doanh đã được xử lý thích đáng theo quy định của Luật.
Cụ thể:
Năm 1998, có 182 trường hợp vi phạm chế độ xin nghỉ đã bị xử lý.
Năm 1999, có 167 trường hợp vi phạm chế độ xin nghỉ đã bị xử lý.
Năm 2000, có 83 trường hợp vi phạm bị xử lý.
Qua số liệu trên cho thấy kết quả của việc tăng cường biện pháp quản lý chặt chẽ đã hạn chế được tình trạng giảm đối tượng nộp thuế.
Tuy vậy, công tác quản lý đối tượng nộp thuế của chi cục Hoàn Kiếm vẫn còn những hiện tượng bỏ sót hộ báo nghỉ thuế nhưng vẫn kinh doanh, là do một số nguyên nhân sau:
Nguyên nhân chủ quan:
Trong công tác quản lý còn có những cán bộ chưa nhận thức đúng trách nhiệm của mình, thiếu sâu sát địa bàn, không phát hiện kịp thời những diễn biến phát sinh trong phạm vi địa bàn quản lý.
Đội thuế, cán bộ quản lý chưa chủ động với các cơ quan liên quan để tăng cường sự hỗ trợ, thiếu sức thuyết phục và chưa cương quyết trong việc xử lý sai phạm, cá biệt còn có những cán bộ “hợp pháp hoá” cho việc vi phạm của các đối tượng nộp thuế.
Do lực lượng cán bộ quản lý còn quá mỏng trong khi phải quản lý số lượng đối tượng nộp thuế quá lớn, hoạt động của cán bộ thuế thường phải làm việc đơn lẻ, phân tán đã gây khó khăn cho công tác quản lý.
Nguyên nhân khách quan:
Do ý thức của các đối tượng kinh doanh chưa tự giác thực hiện các yêu cầu của pháp luật, thậm chí cố tình lẩn tránh sự kiểm tra.
Số lượng đối tượng có qui mô nhỏ rất lớn, hoạt động không ổn định, không thường xuyên, luôn biến động.
Công tác cấp phát đăng ký kinh doanh chưa phát huy được hiệu quả, chưa triệt để xử lý nghiêm minh các đối tượng kinh doanh không đăng ký.
2. Quản lý doanh thu tính thuế:
Trong những năm gần đây, số hộ cá thể không chỉ biến động về số lượng mà còn biến động cả về qui mô kinh doanh. Qua phân tích về tình hình quản lý đối tượng nộp thuế, ta thấy chi cục thuế Hoàn Kiếm đã có những cố gắng trong việc chống thất thu về đối tượng nộp thuế, song cũng cần có những biện pháp để hoàn thiện khâu này, hạn chế tối đa việc thất thu về hộ bởi vì nó là tiền đề, là điều kiện cho việc quản lý các bước tiếp theo trong công tác quản lý thu thuế.
Để hiểu biết hết tình hình quản lý thu thuế GTGT của chi cục thuế quận Hoàn Kiếm, ta hãy xem xét nhân tố thứ hai của công tác quản lý thuế đó là doanh thu tính thuế .
Công tác quản lý doanh thu tính thuế tại chi cục thuế Hoàn Kiếm được tiến hành theo hai cách:
Phân loại theo ngành nghề kinh doanh.
Phân loại theo phương pháp thu thuế.
2.1 Phân loại theo ngành nghề kinh doanh:
Phân loại căn cứ theo ngành nghề kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho cơ quan thuế dễ so sánh tình hình sản xuất kinh doanh trong cùng ngành nghề, đồng thời có thể thấy được mức độ biến động của từng ngành nghề qua từng giai đoạn, giúp cho chi cục thuế chủ động chỉ đạo quản lý tốt hơn.
Ta có thể tham khảo mức độ biến động qua biểu sau:
Biểu 3: Tình hình quản lý thuế theo ngành nghề kinh doanh.
( Đơn vị: nghìn đồng)
Ngành
Năm 1999
Năm 2000
So sánh năm 2000 với 1999
Doanh thu
% doanh thu so với tổng doanh thu
Doanh thu
% doanh thu so với tổng doanh thu
Số tuyệt đối
Số tương đối
Thủ công nghiệp
8.482.786
0,93%
7.896.423
0,75 %
-586.363
93,08%
Thương nghiệp
859.984.872
93,8%
985.738.856
94%
+125.753.984
114,6%
Ăn uống
25.807.144
2,8%
27.890.199
2,66%
+2.083.055
108%
Dịch vụ
22.211.780
2,4%
26.332.154
2,51%
+4.120.374
118,5%
Cộng
916.486.582
1.047.857.632
+131.371.050
114,33%
Mức độ biến động doanh thu giữa các ngành như sau:
Năm 2000 so với năm 1999 doanh thu tăng 131.371.050 nghìn đồng,tương ứng với 114,33 % chủ yếu ở các ngành:
+ Ngành thương nghiệp tăng: 125.753.984 nghìn đồng.
+ Ngành ăn uống tăng : 2.083.055 nghìn đồng.
+ Ngành dịch vụ tăng : 4.120.374 nghìn đồng.
Doanh thu của các ngành tăng lên là do: Sang năm 2000 chi cục đã tăng cường việc rà soát lại doanh thu đối với các đối tượng kinh doanh trong toàn quận để đưa vào tính thuế sát với thực tế hơn.
Riêng doanh thu của ngành thủ công nghiệp năm 2000 giảm so với năm 1999 là 586.363 nghìn đồng tương ứng với 93,08 % là do hàng ngoại nhập tràn vào thị trường Việt Nam nhiều cùng với sự phát triển của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ với dây truyền công nghệ hiện đại cho năng suất cao, tạo ra sản phẩm hàng loạt, mẫu mã đẹp, giá thành hạ nên có sức cạnh tranh hơn so với hàng hoá được sản xuất theo phương pháp thủ công. Vì vậy, người tiêu dùng thường hướng về hàng ngoại nhập nên hàng thủ công nghiệp chậm tiêu thụ dẫn tới việc hàng hoá bị tồn đọng và một số cơ sở sản xuất xin tạm nghỉ kinh doanh làm cho doanh thu năm 2000 của ngành này giảm.( Trừ một số mặt hàng đặc biệt như thủ công mỹ nghệ).
Cũng từ những số liệu này cho ta thấy tỷ lệ doanh thu tăng mạnh ở ngành du lịch là 18,5 % và ngành thương nghiệp là 14,6 %. Ngành thương nghiệp có doanh thu chiếm tỷ trọng 94 % so với tổng doanh thu của tất cả các ngành trong quận, chứng tỏ thế mạnh về kinh tế của quận Hoàn Kiếm là buôn bán, từ đó việc phân loại theo ngành nghề kinh doanh sẽ giúp cho chi cục nắm được tình hình biến động của thị trường để có biện pháp chỉ đạo tập trung và làm cơ sở cho việc lập, giao kế hoạch thu của từng khu vực, từng thời điểm được sát với thực tế của từng đội quản lý.
2.2 Phân loại theo phương pháp thu thuế theo doanh thu:
Đặc điểm của hộ kinh doanh cá thể có nhiều loại hình khác nhau, mức độ và tính chất kinh doanh cũng khác nhau. Phần lớn hộ cá thể chưa mở sổ sách kế toán theo qui định hoặc mở không đầy đủ, thiếu chính xác, thiếu độ tin cậy làm căn cứ tính thuế. Để khắc phục nhược điểm đó, hiện nay chi cục đang áp dụng 2 phương pháp chủ yếu để quản lý thuế:
Phương pháp kê khai doanh thu.
Phương pháp khoán doanh thu.
Để thấy rõ tình hình quản lý theo phương pháp khoán doanh thu 12 tháng năm 1999 và năm 2000 của chi cục, ta xem xét những vấn đề sau:
* Phương pháp khoán doanh thu:
Những hộ áp dụng phương pháp khoán doanh thu là những hộ kinh doanh nhỏ, chưa thực hiện việc chấp hành ghi chép sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn chứng từ được thì cơ quan thuế khoán mức doanh thu làm căn cứ tính thuế phải nộp từng tháng. Những hộ doanh thu nhỏ là những hộ có mức doanh thu bình quân tháng như sau:
Ngành sản xuất, xây dựng, thương nghiệp có doanh thu < 8 triệu đồng.
Ngành vận tải, kinh doanh ăn uống có doanh thu < 6 triệu đồng.
Ngành dịch vụ có doanh thu < 4 triệu đồng.
Mức doanh thu khoán được thực hiện theo trình tự sau:
Hộ kinh doanh tự kê khai mức doanh thu bình quân tháng của mình. Cán bộ thuế căn cứ kê khai của hộ kinh doanh kết hợp với điều tra doanh số trọng điểm của từng ngành hàng, từng địa bàn.
Xây dựng khung doanh thu ấn định cho từng ngành hàng trên cơ sở dữ liệu điều tra.
Mức doanh thu ấn định được thông qua hội đồng tư vấn thuế phường chợ tham gia ý kiến cho từng hộ.
Công khai niêm yết doanh thu dự kiến của từng hộ, nếu không có ý kiến thắc mắc của hộ kinh doanh thì mức doanh thu này được lãnh đạo chi cục duyệt và làm căn cứ tính thuế ổn định trong 6 tháng hoặc một năm.
Việc quản lý doanh thu đối với phương pháp khoán là rất phức tạp, để có được mức doanh thu khoán hợp lý cho từng hộ phải thực hiện qua nhiều bước, nhiều bộ phận cùng tham gia xem xét. Nhưng nếu thực hiện tốt, sẽ mang lại hiệu quả cho việc quản lý doanh thu, đồng thời tạo được tâm lý ổn định cho các đối tượng nộp thuế theo phương pháp này.
Ta hãy xem xét kết quả quản lý doanh thu hộ khoán của chi cục thuế quận Hoàn Kiếm qua biểu sau:
Biểu 4: Tình hình quản lý hộ khoán doanh thu.
( Đơn vị: nghìn đồng)
Diễn giải
Năm 1999
Năm 2000
% so sánh giữa 2000 với 1999
Số hộ
5.520
5.304
96,08%
Doanh thu
38.798.266
43.814.113
112,9%
Thuế GTGT
464.506
517.336
111,3%
Biểu trên cho ta thấy mặc dù số lượng hộ nộp thuế theo phương pháp khoán doanh thu năm 2000 chỉ bằng 96,08% năm 1999 tương đương giảm 216 hộ, nhưng doanh thu năm 2000 lại tăng so với năm1999 là12,9% với số tăng tuyệt đối là 5.015.847 nghìn đồng là do:
Sang năm 2000, trong quá trình điều tra xác minh doanh thu, chi cục đã chuyển một số hộ có doanh thu lớn sang thu theo phương pháp kê khai.Do đó số hộ thu khoán của năm 2000 giảm.
Về doanh thu, năm 2000, chi cục đã thực hiện công tác ổn định lại mức doanh thu cho các hộ khoán trước khi quyết định mức doanh thu ổn định. Chi cục đã thực hiện chặt chẽ qui trình như: điều tra doanh thu điển hình của từng ngành hàng, tham khảo ý kiến hội đồng tư vấn thuế các phường, chợ, công khai mức doanh thu của từng hộ nên đã đưa được mức doanh thu của hộ khoán năm 2000 tăng lên đáng kể và sát với thực tế kinh doanh hơn.
* Phương pháp kê khai doanh thu:
Những hộ áp dụng phương pháp này là những hộ sản xuất kinh doanh lớn và nhỏ nhưng doanh thu bình quân tháng cao hơn hộ khoán và thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ.
Trưòng hợp một số hộ sản xuất kinh doanh nhỏ nhưng thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ cũng được tính theo phương pháp kê khai.
Việc tính thuế theo phương pháp này có căn cứ chính xác hơn, tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tự kê khai, tự nộp thuế, nên việc xác định doanh số tương đối sát với thực tế phát sinh. Từ đó tạo được cơ sở pháp lý và tâm lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thương thoả thuận về mức doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế.
Biểu 5: Tình hình quản lý hộ kê khai doanh thu.
( Đơn vị: nghìn đồng).
Diễn giải
Năm 1999
Năm 2000
% so sánh năm 2000 với 1999
Số hộ
4.904
5.304
108,1%
Doanh thu
190.021.755
264.716.824
139,3%
Thuế GTGT
2.240.050
2.420.544
108%
Nhận xét: Doanh thu năm 2000 tăng 39,3% tương đương với 74.695.087 nghìn đồng trong khi số hộ chỉ tăng 8,1% là do chi cục thuế Hoàn Kiếm đã thực hiện tốt những vấn đề sau:
Vận dụng tốt các công tác tuyên truyền vận động đối tượng nộp thuế hiểu và thực hiện chế độ sổ sách kế toán, sử dụng hoá đơn chứng từ khi mua bán hàng hoá.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc kê khai nộp thuế của đối tượng nộp thuế và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm kê khai không đúng thực tế doanh số phát sinh.
Sang năm 2000, trong khi điều tra doanh số điển hình cho những hộ khoán đã đưa một số hộ có doanh số lớn trước đây đang thu khoán nay chuyển sang thu theo kê khai để thực hiện công bằng mức đóng góp.
Tuy nhiên, đây mới là kết quả bước đầu khi thực hiện luật thuế mới của chi cục. Trong thực tế, vẫn còn những hộ cố tình kê khai doanh thu thấp hơn thực tế kinh doanh. Việc cố tình kê khai không chính xác thường được biểu hiện ở những nguyên nhân sau:
Đối tượng mua hàng của các hộ cá thể chủ yếu là người tiêu dùng do đó, việc đòi hoá đơn chưa trở thành thói quen và chưa thực sự cần thiết đối với người mua hàng.
Việc ghi chép hoá đơn không đúng qui định của đối tượng kinh doanh còn nhiều, trong khi đối chiếu giữa liên 1 và liên 2 là rất khó khăn đối với cán bộ quản lý thuế.
Một số hộ sản xuất kinh doanh hoạt động dưới hình thức “ môi giới” hay “ giao tay ba” do hàng hoá mua của cơ sở này song lại vận chuyển giao ngay cho cơ sở khác, cán bộ thuế rất khó phát hiện doanh thu ẩn lậu.
Việc quản lý hoá đơn của cơ quan thuế còn lỏng lẻo, tạo kẽ hở cho các đối tượng kinh doanh, có trường hợp khai báo mất hoá đơn giả để qua hiện tượng mất hoá đơn này, cơ sở giấu được doanh số, nhất là những tờ có doanh sô lớn.
Từ những hiện tượng trên đã gây ảnh hưởng không ít đến việc quản lý doanh thu của chi cục thuế Hoàn Kiếm.
Để chứng minh được điều này, ta xem xét kết quả kiểm tra doanh thu điển hình của một số hộ sau:
Biểu 6: Bảng số liệu do cơ quan thuế điều tra.
( Đơn vị: nghìn đồng)
Tên hộ kinh doanh
Ngành nghề
Doanh số kê khai
Doanh số điều tra
% doanh số chênh lệch
Đặng Thị Lan
Vàng bạc
101.300.000
123.000.000
21,7%
Trần Anh Tuấn
Vật liệu xây dựng
11.500.000
14.000.000
25%
Lê Thị Sang
Bún ngan
9.000.000
11.000.000
20%
Nguyễn Bích Loan
Gội đầu
4.000.000
5.000.000
10%
Cộng
125.800.000
153.000.000
27,2%
Ta thấy: doanh số điều tra so với doanh số kê khai tăng 27,2% như vậy tình hình thất thu trên toàn quận còn nhiều. Vì vậy, chi cục cần duy trì thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát việc kê khai nộp thuế của đối tượng nộp thuế và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm kê khai không đúng thực tế doanh số phát sinh để hạn chế tình trạng thất thu và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách.
3. Quản lý thu nộp tiền thuế và nợ đọng:
Sau khi đã làm tốt công tác quản lý đối tượng nộp thuế, doanh thu tính thuế thì công tác quản lý thu nộp có ý nghiã quyết định đến hiệu quả của tất cả các công tác trên, vì nó thể hiện số thực nộp vào ngân sách Nhà nước từ đó khẳng định hiệu quả công tác của chi cục thuế Hoàn Kiếm cao hay thấp.
Để quản lý thu nộp tiền thuế được tốt, chi cục thuế Hoàn Kiếm đã tổ chức công tác lập bộ thuế hàng tháng, nhiệm vụ do tổ kế hoạch nghiệp vụ của chi cục thực hiện.Nhiệm vụ của bộ phận lập bộ thuế là tiếp nhận tờ khai nộp thuế của các cơ sở nộp thuế theo phương pháp kê khai và danh sách ấn định doanh thu tính thuế đối với những hộ nộp thuế theo phương pháp khoán từ các đội quản lý chuyển về sau đó kiểm tra lại các phần đã ghi trong tờ khai xem các hộ đã ghi đúng, đủ chưa, nếu đã đúng, được chuyển vào bộ để phát hành thông báo thuế.
Căn cứ vào sổ bộ thuế đã được lãnh đạo chi cục duyệt, bộ phận kế hoạch nghiệp vụ phát hành thông báo thuế, thông báo thuế được chuyển đến các hộ trước ngày 15 hàng tháng, các đội thuế chịu trách nhiệm đôn đốc các đối tượng nộp thuế đúng thời gian và số thuế đã ghi trên thông báo vào kho bạc Nhà nước quận Hoàn Kiếm.
Biểu 7: Kết quả quản lý thu thuếGTGT hộ cá thể năm 1999 và năm 2000
( Đơn vị: nghìn đồng)
Diễn giải
Năm 1999
Năm 2000
Ghi thu
35.289.488
39.090.666
Thực thu
32.117.434
35.288.252
Thu nợ
2.288.092
3.604.680
Nợ
883.962
197.734
% Nợ so với ghi thu
2,5%
0,51%
Dựa vào kết quả thu thể hiện ở số liệu trên ta thấy tình hình thu nộp thuế qua 2 năm 1999 và 2000 của chi cục thuế Hoàn Kiếm đều có số nợ đọng.Tỷ lệ % so sánh năm 2000 với năm 1999 là 22% nguyên nhân là do:
Cán bộ quản lý chưa đôn đốc triệt để các đối tượng nộp thuế vào Ngân sách kịp thời, chưa nghiêm khắc xử lý các trường hợp cố tình nộp chậm thuế.
Số thuế nợ chủ yếu rơi vào những hộ buôn bán nhỏ, khó thu và những hộ có nợ nhưng đã nghỉ hẳn, không có khả năng đòi.
Việc quản lý thu nộp thuế hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn là do pháp luật thuế của chúng ta chưa được mọi đối tượng nhìn nhận, chấp hành nghiêm chỉnh, nhiều trường hợp vi phạm không được xử lý thích đáng, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành, các cấp liên quan.
Mặc dù còn nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan ảnh hưởng đến kết quả thu của chi cục nhưng chúng ta phải thừa nhận sự cố gắng của chi cục trong thời gian qua. Tuy vẫn còn nợ đọng nhưng qua số liệu ở biểu trên ta thấy tỷ lệ nợ của năm 1999 là 2,5% tương đương 883.962 nghìn đồng nhưng sang năm 2000 đã giảm xuống 0,51% tương đương 197.734 nghìn đồng. Đây là việc làm đáng biểu dương của chi cục.
Công tác thanh tra, kiểm tra:
Đây là một biện pháp nghiệp vụ quan trọng, thường xuyên, nhằm đưa việc chấp hành luật pháp trong kinh doanh của các đối tượng kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế vào nề nếp, đưa công tác quản lý thu nộp thuế theo đúng chính sách và ngăn chặn kịp thời các hiện tượng vi phạm chế độ thu nộp thuế của cán bộ thuế. Đồng thời thông qua công tác kiểm tra chi cục phát hiện được các hộ có mức doanh thu, thuế chưa hợp lý và điều chỉnh thực hiện công bằng xã hội trong nghĩa vụ n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0127.doc