Đề tài Về vai trò của nguồn lực con người trong xây dựng bảo vệ và giữ vững chủ nghĩa xã hội ai trò của nguồn lực con người trong xây dựng bảo vệ và giữ vững chủ nghĩa xã hội

 

 

I. Vấn đề con người và con người xã hội chủ nghĩa

 - Một số quan niệm về con người

- Quan niệm về con người trong chủ nghĩa Mác-Lênin

- Quan hệ giữa cá nhân và xã hội

II. Vấn đề về nguồn lực con người

- Quan niệm về nguồn lực con người

- Về số lượng và chất lượng của nguồn lực con người

III. Về vai trò của nguồn lực con người trong xây dựng bảo vệ và giữ vững chủ nghĩa xã hội

- Vai trò của con người trong lĩnh vực kinh tế

- Trong lĩnh vực chính trị

- Trong lĩnh vực văn hoá

IV. Những phương hướng và giải pháp phát huy nguồn lực con người

1. Phương hướng

2. Một số biện pháp

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 981 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Về vai trò của nguồn lực con người trong xây dựng bảo vệ và giữ vững chủ nghĩa xã hội ai trò của nguồn lực con người trong xây dựng bảo vệ và giữ vững chủ nghĩa xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Vấn đề con người và con người XHCN *, Trong từ điển tiếng việt, con người là người nói chung trong mối quan hệ với xã hội hoặc với thiên nhiên. Hoặc theo nghĩa "cá nhân" là một người nói riêng về những đặc điểm trong tư chất hoặc nói về một mặt đáng chê trách. Thời cổ đại vấn đề con người đã được các nhà triết học đưa thành một trong những nội dung nghiên cứu bên cạnh vấn đề thế giới nói chung Xôcrát (thế kỷ V trước công nguyên) định nghĩa "triết học là sự tụ nhận thức của con người về chính bản thân mình". Hêghen (thế kỷ 19). Con người được quan tâm nghiên cứu chủ yếu ở phương diện tinh thần. Đến Phoiơ bắc con người lại được đề cao về phương diện sinh học, con người thuần tuý chỉ là sản phẩm cao nhất của tự nhiên (bỏ qua những yếu tố xã hội trong việc hình thành bản chất con người). đ Trong luận cương thứ 6, Mác viết "bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Điều này phê phán quan điểm của Phoiơ bắc. Nhưng bản chất con người không phải chỉ thuần nhất được xây dựng từ yếu tố xã hội mà là sự thống nhất giữa 2 yếu tố đối lập: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, mặt khác, con người là thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với tự nhiên. Sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội trong con người tạo thành bản chất người. đ Con người là thể thống nhất giữa cái sinh học và cái xã hội "con người không đơn giản là một cơ thể, một loài sinh vật mà trước hết là chủ thể của những quan hệ xã hội". Theo Mác - tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sự nhân loại là sự tồn tại những cá nhân con người sống (mặt sinh học của con người được qui định bởi cơ chế di truyền, còn mặt xã hội thì được qui định bởi quá trình con người gia nhập vào bối cảnh văn hoá, lịch sử của quần thể xã hội). - Quan hệ giữa cá nhân và xã hội (quan niệm về con người trong xã hội) + Ph. Ănghen cho rằng, lao động là nguyên nhân sâu xa cho quá trình chuyển biến từ vượn thành người và cũng là điều kiện cho người người tồn tại và phát triển. Con người không thể tồn tại được một ki tách khỏi xã hội. Chỉ trong xã hội con người mới có thể trao đổi lao động, thông qua đó thoả mãn nhu cầu trong cuộc sống như: ăn, ở, đi lại trong xã hội thông qua quan hệ với người khác mà mỗi người nhận thức về mình một cách đầy đủ hơn, trên cơ sở đó rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt, từng bước hoàn thiện nhân cách. Xã hội càng phát triển, con người càng hoà vào trong cộng đồng xã hội. Mối quan hệ giữa con người với con người ngày càng bền chặt hơn, con người được mở rộng mối quan hệ với xã hội. Khi quan hệ con người được mở rộng mối quan hệ với xã hội. Khi quan hệ con người mở rộng thì con người lại nhận thức về mình rõ hơn và có sự hiểu biết về xã hội cũng nhiều hơn. Vai trò của con người trong xã hội càng tăng. Như vậy quan hệ giữa cá nhân con người với xã hội là quan hệ thường xuyên và có sự thống nhất biện chứng với nhau. + Trong những xã hội có giai cấp thống trị trước kia. Vấn đề con người không được coi trọng, vai trò của mỗi cá nhân trong tập thể và trong xã hội là rất ít. Con người không tìm được tiếng nói chung để cùng phát triển. + Trong xã hội tư bản: tính cá nhân lại quá nổi trội, điều đó cũng khiến cho họ khó tìm được tiếng nói chung làm mất đoàn kết và trật tự trong xã hội (VD: chế độ đa nguyên đa dảng ở Mỹ, Anh). + Trong XHCN, với hệ tư tưởng Mác-Lênin đã đưa cá nhân về đúng vị trí của mình trong tự nhiên và trong xã hội: "là sự tổng hoà những quan hệ xã hội", ở xã hội, xã hội chủ nghĩa mỗi cá nhân là một phần quan trọng của tập thể xã hội và trong đó hành động của mỗi cá nhân này có sự ảnh hưởng của cá nhân khác. Xã hội ngày càng phát triển con người càng được chăm sóc đầy đủ, có sức khoẻ, có khả năng trí tuệ, có trình độ học vấn, sẽ có điều kiện cống hiến cho xã hội ngày càng nhiều. Do vậy, dưới CNXH, muốn xây dựng thành công CNXH cần phải xây dựng những con người XHCN. ("cá nhân là một người nói riêng, coi là một đơn vị biệt lập, tách khỏi mọi nhóm, khỏi một tập thể). - Quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa. Con người XHCN bao gồm cả những con người từ xã hội cũ để lại và cả những con người sinh ra trong xã hội mới. Con người sống dưới chế độ XHCN mang những nét đặc trưng của CNXH, song vẫn chịu ảnh hưởng không ít những tư tưởng, tác phong, thói quen của xã hội cũ. Cho nên, quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa là quá trình diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu những giá trị truyền thống của dân tộc, căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, những đặc trưng con người XHCN mà chúng ta phấn đấu xây dựng là: + Con người xã hội chủ nghĩa là con người có ý thức, trình độ và năng lực làm chủ. Đồng thời xã hội tạo ra những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội để con người thực hiện được quyền làm chủ đó. + Con người xã hội chủ nghĩa là con người lao động mới, có tri thức sâu sắc về công việc mà mình đang đảm nhận lao động có ý thức kỷ luật, có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp, biết đánh giá chất lượng lao động, hiệu quả lao động của bản thân. + Con người xã hội chủ nghĩa là con người sống có văn hoá, có tiníh nghĩa với anh em, bạn bè, mọi người xung quanh, biết được vị trí của mình trong từng mối quan hệ xã hội và giải quyết đúng đắn được những mối quan hệ đó; thường xuyên có ý thức nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, ra sức rèn luyện sức khoẻ, đảm bảo phát triển toàn diện cá nhân. + Con người xã hội chủ nghĩa là con người giàu lòng yêu nước, thương dân, có tình thương yêu giai cấp, thowng yêu đồng loại, sống nhân văn, nhân đạo, có ý thức và kiên quyết đấu tranh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những thành quả cách mạng; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của kẻ thù. II. Nguồn lực con người * Có thể hiểu nguồn lực theo nghĩa chung nhất là một hệ thống các nhân tố mà mỗi nhân tố đó có vai trò riêng nhưng có mối quan hệ với nhau tạo nên sự phát triển của một sự vật, hiện tượng nào đó, có nhiều ý kiến, về khái niệm nguồn lực con người nguồn lực con người là những yếu tố trong con người có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã hội. Là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội. Nói tới nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo, tự nhiên, làm biến đổi xã hội. Nói tới nguồn lực con người là nói tới số lượng và chất lượng nguồn lực: + Số lượng nguồn nhân lực được xác định trên qui mô dân số, cơ cấu độ tuổi, sự tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng, miền của đất nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội. + Chất lượng nguồn nhân lực: là một khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về thể lực, trí l ực, năng lực quản lý, phẩm chất đạo đức * Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực có quan hệ với nhau một cách chặt chẽ. Có ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế và ổn định xã hội. III. Vai trò của nguồn lực trong xây dựng xã hội chủ nghĩa Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề con người: trong di chúc của mình người nói "Đầu tiên là công việc đối với con người". * Tính cấp thiết của việc phát huy, tăng cường nguồn lực con người trong công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ và đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta luôn đứng trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch Trải qua nhiều thập kỷ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch dùng lực lượng vũ trang nhằm thôn tính các nước XHCN. Song thực tế đã chứng tỏ càng chạy đua vũ trang thì chủ nghĩa đế quốc càng thất bại, do đó chúng chuyển sang thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" nhằm xoá bỏ CNXH. Chúng đã thành công trong việc thực hiện âm mưu cực kỳ nguy hiểm đó ở các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, Mỹ đã tuyên bố trước thế giới chiến lược toàn cầu của họ, thực hiện âm mưu phá vỡ chế độ XHCN của ta. 3 kế hoạch quan trọng trong âm mưu đó là: * Thứ nhất: đầu tư chiếm lĩnh thị trường - Vực dậy và phát triển kinh tế tư nhân -> tạo điều kiện cho thành phần kinh tế tư bản tư nhân dần dần có thể chi phối đời sống chính trị Việt Nam. - Dùng người việt trị người việt: sử dụng những sỹ quan, binh lính của chính quyền nguỵ Sài Gòn lôi kéo nhân dân gây mất ổn định xã hội. - Chi phối đầu tư: -> khống chế về kinh tế để thay đổi thể chế chính trị: * Thứ hai: Ngoại giao hữu nghị nhằm xoá đi hình ảnh Mỹ đã từng xâm chiếm Việt Nam, để Việt Nam thấy chỉ mình mới có thể giúp Việt Nam xây dựng một xã hội văn minh * Thứ ba: Xâm nhập nội bộ ta. - Tác động mạnh mẽ nhằm phá vỡ sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, tuyên truyền xuyên tạc, đi đến phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng nhằm "chuyển hoá" tư tưởng cán bộ, Đảng viên và nhân dân. - Phân hoá và chia rẽ nội bộ ta, lôi kéo những người có quan điểm chính trị sai trái, bất mãn, cơ hội, thoái hoá từ đó từng bước tạo điều kiện hình thành đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập lôi kéo quần chúng chông Đảng * Tất cả những âm mưu thủ đoạn đó đều liên quan đến vấn đề con người nếu Đảng có đường lối đúng đắn, gắn bó mật thiết với nhân dân cán bộ, Đảng viên và nhân dân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng chúng ta sẽ làm thất bại mọi âm mưu của Mỹ và chủ nghĩa đế quốc. Bác khẳng định "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa" với ý nhấn mạnh nhận thức và lý tưởng XHCN. Chúng ta luôn luôn đứng trước âm mưu phá hoại của thế lực thù địch. Để làm rõ hơn quan điểm trên của Hồ Chí Minh, cần nghiên cứu vai trò nguồn lực con người trong một số lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. * Vai trò nguồn lực trong lĩnh vực kinh tế Trong lĩnh vực kinh tế, cần xem xét con người với tư cách là lực lượng sản xuất và vai trò trong quan hệ sản xuất. Trong bất cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Ngày nay, khoa học - công nghệ ngày càng phát triển, hàm lượng chất xám trong giá trị hàng hoá ngày càng cao, thì vai trò của người lao động có trí tuệ lại càng quan trọng trong lực lượng sản xuất V.I.Lênin đã chỉ ra: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động". Con người khi được làm chủ những tư liệu sản xuất, được đào tạo một cách chu đáo những kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng đất đai, biết kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất như huy động vốn, động viên khuyến khích người lao động làm việc có hiệu qủa, quản lý chặt chẽ nguyên vật liệu tư, do vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ tố hơn. Ngày nay vai trò người lao động trong sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên quan trọng, do vậy, các quốc gia thường rất quan tâm tới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, người lao động đã trở thành những người làm chủ đất nước, làm chủ trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất, từ việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh tới tổ chức sản xuất kinh doanh và làm chủ trong quá trình phân phối sản phẩm. Điều đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy nguồn lực con người, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất nước ngày càng giàu đẹp. * Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị. Xét nguồn lực con người trên phương diện chính trị, khi mà người dân có tri thức, có năng lực, thấy được trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn những người có đức có tài vào các cơ quan Nhà nước sẽ góp phần xây dựng Nhà nước vững mạnh. Nói về vai trò của quần chúng tham gia công việc của Nhà nước, Hồ Chí Minh đã viết: khi người dân " biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm", "thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ". Có thể khẳng định, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân, vì dân; trong quá trình đấu tranh bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù. * Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hoá Dưới chủ nghĩa xã hội nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ trong đời sống văn hoá xã hội. Hệ thống báo chí, phát thanh truyền hình do Nhà nước quản lý nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hoá cho quần chúng nhân dân lao động. Con người có văn hoá cũng là những người có nghĩa vụ bảo tồn những di sản văn hoá tinh thần của đất nước, của nhân loại. Do vậy, nếu mỗi con người có ý thức, năng lực thực hiện tốt công việc này, thì những giá trị văn hoá tinh thần, giá trị văn hoá vật chất của xã hội được bảo tồn, lưu giữ, được nâng cao. Như vậy, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, mà còn là chủ thể của quá trình sản xuất tinh thần của xã hội. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội, bắt tự nhiên phục vụ cho mình, và làm đẹp cho tự nhiên; đồng thời trong quá trình đó con người cải tạo chính bản thân mình. Do vậy, sự phối hợp giữa các thành viên trong cộng đồng đó cũng tạo ra sức mạnh to lớn trong việc phát huy nguồn lực con người để nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội. Ngược lại, sự thiếu thống nhất, sự phối hợp không đồng bộ của các thành viên trong xã hội cũng sẽ làm giảm đi, thậm chí triệt tiêu cả động lực phát triển tự nhiên và xã hội. Nguồn lực con người xét về mỗi cá nhân, còn là những tiềm năng yếu tố cấu thành con người có thể được khai thác. Nhưng hiệu quả việc phát huy nguồn lực con người lại tuỳ thuộc vào chế độ xã hội, tuỳ thuộc vào cách tổ chức xã hội, phụ thuộc vào năng lực và nghệ thuật của người quản lý xã hội, phụ thuộc vào cơ chế và chính sách xã hội. Nguồn lực con người không khai thác, không phát huy được là lãng phí lớn nhất. Đặc biệt là với đội ngũ trí thức càng hoạt động, càng nghiên cứu, càng làm việc trí tuệ của họ càng đa dạng, càng phong phú và sâu sắc. Nước ta đang còn là một nước nghèo, kinh tế kém phát triển, thì việc phát huy nguồn lực con người để xây dựng đất nước càng trở nên quan trọng. IV. Những phương hướng và giải pháp phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện nay 1. Những phương hướng phát huy nguồn lực con người * Thứ nhất: Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nội dung chuyển lao động thủ công sang lao động cơ khí máy móc, vừa tạo ra những điều kiện để nâng cao mức sống nhân dân, tạo điều kiện cho xã hội và gia đình quan tâm tới giáo dục nhiều hơn. Đồng thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đặt ra những yêu cầu, những thách thức buộc người lao động phải phấn đấu vươn lên, nếu họ không muốn bị thải loại khỏi dây truyền sản xuất. Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vừa là điều kiện để xây dựng, bồi dưỡng phát huy nguồn lực con người, đồng thời đến lượt nó phát huy nguồn lực con người lại là yếu tố quyết định thắng lợi sự nghiệp côn nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. * Thứ hai: Xây dựng và từng bước hoàn chỉnh một hệ thống chính sách xã hội phù hợp. Chính sách xây dựng là một bộ phận hợp thành chinh sách của Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là sự thể hiện lý tưởng chính trị, cương lĩnh, đường lối cách mạng của Đảng cộng sản, trong hệ thống pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và thể hiện bằng quá trình tổ chức thực tiễn trong cuộc sống của toàn xã hội. Chính sách xây dựng là những chính sách trực tiếp đảm bảo những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người biểu hiện rõ nhất bản chất của một chế độ xã hội; đó là những chính sách điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; và là một trong những động lực trực tiếp để con người hoạt động trên lĩnh vực xã hội. Phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động là tiền đề, là điều kiện cho việc thực hiện chính sách xã hội. Chính sách xã hội dưới chủ nghĩa xã hội phải hướng tới con người và vì con người. Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng xã hội, giải phóng con người đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do. Để thực hiện điều đó, cần phải đảm bảo "tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển", gắn với đời sống vật chất với đời sống tinh thần. * Thứ ba: Từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cơ chế quản lý của một xã hội là toàn bộ những thiết chế, những qui định về mối quan hệ trách nhiệm, quyền hạn giữa cá nhân với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nhằm thực hiện mục đích quản lý xã hội theo một định hướng nhất định của giai cấp cầm quyền. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá tư tưởng Do vậy, xã hội phải tạo ra những điều kiện cho người lao động tham gia tích cực vào công việc quản lý xã hội, quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, thông qua đó mà họ tích cực đóng góp tài năng, trí tuệ cho xã hội. 2. Một số giải pháp phát huy nguồn lực con người * Về kinh tế: Nâng cao vai trò con người trong quá trình sản xuất, đó là vai trò quyết định trong mối quan hệ với tư liệu sản xuất, chính con người giữ vai trò quyết định trong sử dụng tư liệu sản xuất, sử dụng công cụ lao động. Phải tạo nên sự kết hợp - hợp lý giữa con người và tư liệu sản xuất, máy móc với người công nhân; ruộng đồng, rừng. với người lao động, với hộ gia đình. + Các thành phần kinh tế quốc doanh hay tập thể - tư nhân hay Nhà nước, trong nước hay nước ngoài đều phải thực hiện tốt sự kết hợp trên. + Phát huy sáng keíen của người lao động, phát huy vai trò chủ động, tích cực trong sản xuất, kinh doanh nhằm mang lại lợi ích cho cá nhân cũng như toàn xã hội. + Tăng cường giáo dục phẩm chất, đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp, tạo ra những sản phẩm, hàng hoá có chất lượng, kiên quyết chống và phê phán mạnh mẽ thói lười biếng, làm ẩu, ngăn chặn lối làm ăn phi pháp làm hàng giả * Về lĩnh vực chính trị: + Nâng cao trình độ giác ngộ về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân, nâng cao nhận thức, hiểu biết về quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đường lối chính trị, kinh tế luật pháp - nhất là những vấn đề về quyền và nghĩa vụ công dân vấn đề dân chủ XHCN - vấn đề âm mưu thủ đoạn diễn biến hoà bình, chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch và bọn phản động trong và ngoài nước. + Cần có cơ chế phù hợp đảm bảo chất lượng quyền lực của nhân dân trong hoạt động giám sát bộ máy Nhà nước và bộ máy chính quyền các cấp thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội. Phát huy dân chủ ở cơ sở để tạo dư luận quần chúng mạnh mẽ đồng thời tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay. + Xây dựng cơ chế quản lý xã hội, quản lý Nhà nước, giám sát được công chức, tạo điều kiện cho các đại biểu dân bầu để quần chúng có điều kiện tham gia công việc quản lý xã hội, thực sự làm chủ. + Tạo ra môi trường xã hội thuận lợi * Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật. Nghị quyết Hội ngị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta đã khẳng định, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Văn hoá nghệ thuật nước ta trước đây đã phục vụ tốt cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; đã động viên được nhân dân tích cực tham gia trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những năm đổi mới vừa qua văn học, nghệ thuật nước ta đã có những đổi mới về nội dung, hình thức, đã động viên được nhân dân tích cực tham gia sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Song bên cạnh đó văn học nghệ thuật vẫn còn một bộ phận đi chệch hướng, chạy theo thị hiếu thấp hèn, dễ dãi của một bộ phận thanh niên thiếu giáo dục. Đời sống xã hội có hai mặt: vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì văn hoá là đời sống tinh thần của đời sống xã hội và với tính cách như vậy, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, chăm lo văn hoá là chăm lo xây dựng, củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quant âm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng văn minh, con người phát triển toàn diện. Trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phương hướng chung xây dựng và phát triển nền văn hoá là: phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ toàn bộ từng tập thể cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, tiến bước vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội. Nói văn hoá không thể không nói đến hệ tư tưởng, hệ tư tưởng chi phối quan niệm về giá trị, chi phối đạo đức, lối sống và hành vi con người. Hệ tư tưởng của chúng ta là hệ tư tưởng mang bản chất giai cấp công nhân, là học thuyết cách mạng và khoa học, kết tinh văn hóa nhân loại, hướng mục tiêu giải phóng giai cấp, dân tộc, con người khắc phục tình trạng con người bị tha hoá, tạo điều kiện phát triển và không ngừng hoàn thiện con người. Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng mang tính nhân văn cao cả, trong đó giai cấp, dân tộc, nhân loại, cá nhân và xã hội, xã hội và tự nhiên là thống nhất trên lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - Hệ tư tưởng thấu suốt nền văn hoá mà chúng ta xây dựng. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình triết học Mác-Lênin 2. Giáo trình chủ nghĩa xã hội 3. Bài giảng về xây dựng Đảng (HV chính trị Quốc gia - Hồ Chí Minh) Bố cục trình bày I. Vấn đề con người và con người xã hội chủ nghĩa - Một số quan niệm về con người - Quan niệm về con người trong chủ nghĩa Mác-Lênin - Quan hệ giữa cá nhân và xã hội II. Vấn đề về nguồn lực con người - Quan niệm về nguồn lực con người - Về số lượng và chất lượng của nguồn lực con người III. Về vai trò của nguồn lực con người trong xây dựng bảo vệ và giữ vững chủ nghĩa xã hội - Vai trò của con người trong lĩnh vực kinh tế - Trong lĩnh vực chính trị - Trong lĩnh vực văn hoá IV. Những phương hướng và giải pháp phát huy nguồn lực con người 1. Phương hướng 2. Một số biện pháp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV621.doc
Tài liệu liên quan