Ví dụ khi tỷ giá từ trên 16.000 đồng/USD giảm xuống chỉ còn 15.700 đồng/USD, chưa kể nhiều ngân hàng còn thu thêm phí (2%) khi mua USD khiến các doanh nghiệp bị thiệt đơn thiệt kép.
Thực tế trên đang đẩy nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng có dư ngoại tệ nhưng không bán được cho ngân hàng trong khi vẫn phải vay vốn tiền đồng với lãi suất cao hơn trước đây (do các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất cho vay lên 1,1 - 1,4%/tháng). Các doanh nghiệp đang phải chịu lỗ để duy trì sản xuất và thực hiện các đơn hàng đã ký với khách hàng trước đây.
Do thiếu vốn tiền đồng và chịu lỗ về tỷ giá khi thu hồi tiền bán hàng, chi phí tăng cao do vật tư tăng giá, doanh nghiệp buộc phải giảm mua nguyên liệu hoặc mua với giá thấp hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu trong nước. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đối với mặt hàng xuất khẩu thuộc khu vực nông nghiệp.
Ví dụ trong xuất khẩu thủy hải sản, khi vào chính vụ thu hoạch, do quan hệ cung - cầu trên thị trường, doanh nghiệp không thể kéo giá xuất khẩu lên nên không thể mua nguyên liệu với giá cao, trong khi người nuôi phải thu hoạch gấp khiến tiêu thụ nguyên liệu khó khăn và phức tạp. Các chi phí đầu vào ở khâu nuôi và đánh bắt thủy sản như giống, thức ăn, nhiên liệu, chi phí vận chuyển đều tăng khoảng 20%, khiến người nuôi và ngư dân bị lỗ, khó đầu tư vào vụ tiếp theo. Điều này sẽ gây thiếu hụt nguyên liệu cho xuất khẩu trong năm nay, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.
38 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2059 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vị thế đồng USD qua các giai đoạn, tác động đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biết các kho dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu hiện tăng từ 2.000 tỷ USD trong quý II/2002 lên 5.700 tỷ USD đến quý II/2007. Hơn thế nữa, 2/3 trong tổng số quỹ dự trữ ngoại tệ trên toàn thế giới nằm trong tay 6 nền kinh tế như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Nga và Singapore.
Theo các chuyên gia kinh tế, việc nhiều đồng tiền của các nước châu Á tăng giá so với đồng USD trong năm nay đã khiến cho hàng hóa xuất khẩu trở nên đắt đỏ hơn và lượng ngoại tệ dự trữ bị giảm giá trị. Giá trị đồng USD sụt giảm sẽ khiến cho các mặt hàng xuất khẩu của các nước châu Á trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng ở Mỹ. Ấn Độ và Thái Lan là những nước đáng lo ngại nhất, vì tỷ giá hối đoái sẽ tạo lợi thế cho hàng hóa của Trung Quốc so với hàng hóa của hai nước này trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, chính phủ các nước châu Á không quá lo ngại đối với vấn đề giá cả hàng hóa xuất khẩu đắt đỏ hơn, một phần vì đa số các đồng tiền trong khu vực đều tăng giá so với đồng USD. Các chuyên gia cho rằng, sự sụt giảm lượng hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ có thể bù lại bằng việc xuất khẩu sang châu Âu, châu Phi và Mỹ Latinh. Bên cạnh đó, chính phủ các nước châu Á được hưởng lợi từ việc đồng nội tệ tăng giá vì điều này sẽ giúp họ mua dầu mỏ - được bán với giá tính bằng USD - rẻ hơn. Nhiều nước cũng mua được hàng hóa của Mỹ với giá rẻ hơn, giúp những nước phụ thuộc vào nhập khẩu như Singapore có thể bù đắp lại sự gia tăng giá cả của một số mặt hàng nhập khẩu.
Đồng USD yếu khiến các mặt hàng được giao dịch bằng USD như dầu thô trở nên rẻ hơn đối với những khách hàng sử dụng đồng tiền có giá trị hơn và do đó khuyến khích nhu cầu tiêu thụ. Điều này giúp bù đắp giá dầu đang ở mức cao kỷ lục trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, đồng USD yếu sẽ làm giảm giá trị doanh thu từ xuất khẩu dầu của các nước khai thác dầu thô lớn. Thực tế này khiến Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) không vội vã tăng sản lượng một lần nữa, mặc dù nguồn cung trên thị trường thế giới đang eo hẹp. Cho đến nay, nền kinh tế Khu vực đồng Euro vẫn chưa phải hứng chịu tác động của sự bất ổn về tỷ giá hối đoái, nhưng các rủi ro đang tăng lên. Đồng USD tiếp tục giảm giá là mối lo ngại lớn bởi nó làm cho hàng hóa và các dịch vụ của châu Âu trở nên đắt đỏ hơn so với hàng hóa và dịch vụ của Mỹ. Nhiều nhà hoạch định chính sách châu Âu đang lo ngại đồng USD sẽ kìm hãm đà tăng trưởng của Eurozone.
Đồng USD yếu sẽ khiến hàng hóa Mỹ cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Thâm hụt thương mại của Mỹ sẽ giảm khi xuất khẩu tăng, hạn chế ảnh hưởng của thâm hụt đối với tăng trưởng. Đồng USD yếu cũng giúp cải thiện tình hình việc làm vì các công ty đa quốc gia sẽ chọn thuê người Mỹ với chi phí thấp hơn. Khi đồng USD giảm giá, hàng nhập khẩu sẽ đắt lên, đẩy giá cả đắt đỏ lên theo và như vậy sức ép lạm phát sẽ tăng. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng nền kinh tế quá lớn và cạnh tranh đến mức phần lớn các công ty không có cơ hội tăng giá bán.
Vai trò của đồng USD so với các đồng tiền khác
Một số quốc gia ngoài Hoa Kỳ sử dụng đồng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ chính thức như Ecuador, El Salvador và Đông Timor, các cựu thành viên trong nhóm Lãnh thổ Tín nhiệm Các đảo Thái Bình Dương (Trust Territory of the Pacifi Islands), kể cả Palau, Micronesia và Quần đảo Marshall... Thêm vào đó, đơn vị tiền địa phương của Bermuda, Bahamas, Panama và một số quốc gia khác có thể hoán đổi với đồng USD với tỷ giá 1:1. Đơn vị tiền tệ của Barbados được hoán đổi với tỷ giá 2:1. Argentina đã dùng tỷ giá hoán đổi 1:1 giữa đồng peso Argentina và đô la Mỹ từ 1991 đến 2002. Tại Lebanon, 1 đô la được đổi thành 1500 lira Lebanon, và cũng có thể được sử dụng để mua bán như đồng lira. Tại Hồng Kông, đồng đô la Mỹ và đô la Hồng Kông đã được ràng buộc với giá HK$7,8/USD từ năm 1983. Đồng Pataca của Macao, được ràng buộc với đô la Hồng Kông với giá MOP1,03/HKD, được gián tiếp hoán đổi với đô la Mỹ với tỷ giá khoảng MOP8/USD. Đồng Nhân dân tệ của CHND Trung Hoa đã được ổn định giá với đô la Mỹ từ giữa thập niên 1990 với giá Y8,28/USD cho đến ngày 21 tháng 7, 2005.Malaysia cũng đã ổn định giá của đồng ringgitt với giá MR3,8/USD từ 1997. Ngày 21 tháng 7, 2005, cả hai quốc gia đã thả giá tiền họ để theo giá thị trường.
Đồng đô la còn được dùng làm đơn vị tiêu chuẩn trong các thị trường quốc tế cho các mặt hàng như vàng và dầu hỏa. Ngay cả các công ty ngoại quốc ít buôn bán tại Hoa Kỳ, như Airbus, liệt kê và bán sản phẩm của họ bằng đô la (tuy trong trường hợp này một số người cho rằng lý do là vì các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang thống trị ngành hàng không).
Vào thời điểm này, đồng đô la Mỹ vẫn là đơn vị tiền dự trữ hàng đầu, hầu hết trong đơn vị $100. Phần đông tiền giấy Hoa Kỳ đang ở ngoài Hoa Kỳ. Theo kinh tế gia Paul Samuelson, nhu cầu cho tiền đô la cho phép Hoa Kỳ giữ sự thiếu hụt trong xuất-nhập khẩu mà không dẫn đến sự suy sụp của đồng tiền.
Không lâu sau khi đồng euro (€; mã ISO 4217 EUR) được ra mắt như tiền mặt trong năm 2002, đồng đô la đã bị từ từ giảm giá trên thị trường quốc tế. Sau khi đồng euro lên giá trong tháng 3 năm 2002, việc thiếu hụt trong chi tiêu và thương mại của Hoa Kỳ ngày càng gia tăng. Đến Giáng Sinh năm 2004 đồng đô la đã tụt giá thấp nhất đối với các đơn vị tiền quan trọng khác, đặc biệt là đồng euro. Đồng euro lên giá cao hơn $1,36/€ (dưới 0,74€/$) lần đầu tiên cuối năm 2004, khác hẳn với đầu năm 2003 ($0,87/€). Bắt đầu từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 năm 2005 đồng đô la lại lên giá nhanh chóng so với đồng euro sau khi nền kinh tế các nước châu Âu đang ứ đọng và Hiến pháp Liên minh châu Âu không được phê chuẩn trong cuộc trưng cầu dân ý ở hai nước Pháp và Hà Lan. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp tại các nước sử dụng euro và sự phát triển kinh tế bị chậm lại tại các nước thuộc Liên Minh, đồng euro có thể bị xuống giá so với đồng đô la, tuy đồng euro vẫn giữ sức mạnh.
Hiện tượng trên bắt nguồn từ ba nguyên nhân chính
- Thâm hụt cán cân thương mại và ngân sách quốc gia và kèm theo đó là tăng nợ của Mỹ.
- Chuyển đổi trong dự trữ ngoại tệ của các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Nga và các quốc gia khác.
- Các nước xuất khẩu dầu mà trước tiên là Nga ngày càng sẵn sàng chấp nhận đồng Euro như là phương tiện thanh toán cho dầu mỏ.
Về cơ bản, logic kinh tế của việc dự trữ bằng USD, dù không mạnh như trước đây, vẫn còn đúng. Nó tiếp tục khiến nhiều nước tích lũy bằng loại ngoại tệ mà họ thường gọi là nợ nước ngoài và điều khiển ngoại thương của họ. Nói cách khác, các ngân hàng trung ương sử dụng quỹ đó để trả nợ và thanh toán ngoại thương, cũng như can thiệp vào các thị trường ngoại hối.
Một trong những vấn đề được quan tâm lớn nhất thời gian qua trên thị trường tiền tệ thế giới là sự lên giá không ngừng của đồng Eur so với USD. Kể từ khi suy yếu năm 1999, liên tục từ năm 2002 và cho đến nay Eur luôn tăng giá trước USD.
Bảng tỷ giá Euro trên USD giai đoạn 1999 - 2010
Năm
Euro trên Đô la Mỹ 1999–2010
Cao nhất
Thấp nhất
Ngày
Tỷ giá
Ngày
Tỷ giá
1999
03/12
€0.9985
05/01
€0.8482
2000
26/10
€1.2118
06/01
€0.9626
2001
06/07
€1.1927
05/01
€1.0477
2002
28/01
€1.1658
31/12
€0.9536
2003
08/01
€0.9637
31/12
€0.7918
2004
14/05
€0.8473
28/12
€0.7335
2005
15/11
€0.8571
03/01
€0.7404
2006
02/01
€0.8456
05/12
€0.7501
2007
12/01
€0.7756
27/11
€0.6723
2008
27/10
€0.8026
15/07
€0.6254
2009
04/03
€0.7965
03/12
€0.6614
2010
08/01
€0.8374
13/01
€0.6867
Nguồn: Euro exchange rates in USD, ECB
USD đã mất giá trên 50% so với thời điểm đồng EUR ra đời và đã giảm 20% tính đến thời điểm cuối năm 2004. Tỷ giá yên Nhật với USD cũng ở mức thấp nhất kể từ bốn năm qua, còn giá vàng cuối năm 2004 đã tăng khoảng 90.000 đồng/chỉ so với đầu năm 2004(trên 10%).
Tuy nhiên, những ảnh hưởng của nó thì chưa dừng hẳn. Các DN đã nhập khẩu hàng hóa từ EU chưa thanh toán hết bằng Euro đang lâm vào hoàn cảnh mất cả lãi và thâm hụt vốn bởi giá Euro hiện tăng quá cao so với thời điểm 1 tháng trở về trước, khi đồng tiền này được các DN lựa chọn làm đồng tiền thanh toán hàng hóa với đối tác. Các DN xuất khẩu còn bị nợ tiền bằng USD cũng thiệt hại không nhỏ.
Và nhiều quốc gia tiếp tục cho vay và trao đổi ngoại thương bằng đồng đôla Mỹ, bất chấp sự nổi lên của EUro và các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng khác. Đến cuối năm 2008, khoảng 45% trái phiếu quốc tế là bằng USD, trong khi chỉ 32% bằng EURO. Và theo thăm dò năm 2007 của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), USD vẫn được sử dụng trong 86% trao đổi ngoại hối, so với chỉ 38% bằng euro.
Đến tháng 4/2008, theo IMF, 66 quốc gia sử dụng USD làm mốc tỷ giá hối đoái của mình, trong khi con số này chỉ là 27% đối với euro. Lý do khiến một ngân hàng trung ương đưa ra lựa chọn là tầm ảnh hưởng lớn của ngoại tệ đó trong quỹ dự trữ quốc gia. Các ngân hàng trung ương muốn không chỉ tối ưu hóa sự trở lại hoạt động bình thường của mình, mà còn giảm thiểu nguy cơ. Ví dụ tại một quốc gia kiềm chế tỷ giá của nội tệ với USD, lạm pháttrong nước họ có xu hướng đi theo diễn biến lạm phát ở Mỹ, và như vậy trong trường hợp này quỹ dự trữ USD sẽ ít dao động so với giá trị nội tệ của họ.
Các đánh giá về việc trộn lẫn các đồng tiền nào sẽ giúp tối ưu hóa một sự kết hợp đặc biệt giữa nguy cơ và lợi nhuận cho thấy, tất cả các ngoại tệ đều rất dễ mua và bán – tức là tất cả các thị trường trái phiếu đều có tính thanh khoản như nhau, bất kể loại ngoại tệ nào mà chủ đạo. Đặc tính này rất quan trọng. Nếu các quỹ dự trữ không sẵn sàng được chuyển thành tiền mặt, chúng không được sử dụng dễ dàng trong các hoạt động thị trường. Như vậy, thị trường buôn bán trái phiếu Kho bạc Mỹ hấp dẫn vì đây là thị trường trái phiếu chính phủ duy nhất có tính thanh khoản cao nhất trên thế giới nhờ mức chênh lệch giá đặt mua/bán rất ít của nó. Tính thanh khoản cao nói trên là một đặc tính tự củng cố. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng ý thực hiện các giao dịch và tập trung cổ phiếu của mình vào các thị trường Mỹ vì các thị trường này có tính thanh khoản cao, và chính hoạt động này khiến thị trường càng dễ thanh toán hơn. Giống như trong chính trị, trong cuộc cạnh tranh để trở thành trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu và giữ vị trí là đồng tiền dự trữ hàng đầu, thì thách thức cũng là cơ hội.
Các ngoại tệ khác cũng cố gắng cạnh tranh. Bảng Anh và franc Thụy Sỹ cũng từng là loại ngoại tệ dự trữ quan trọng, nhưng nền kinh tế hai nước này ngày nay quá nhỏ để các nội tệ của họ tiếp tục giữ vị trí này; không quốc gia nào khác có thể cung cấp các công cụ ghi nợ mà hệ thống tài chính toàn cầu cần đến. Và như vậy, cuối năm 2007, bảng Anh chỉ còn chiếm không đến 3% quỹ dự trữ toàn cầu, trong khi franc Thụy Sĩ chỉ chiếm dưới 1%.
Nền kinh tế Nhật Bản đang mở rộng, nhưng chính phủ nước này từ lâu đã không đủ can đảm sử dụng đồng yên trong các giao dịch quốc tế vì sợ điều này sẽ phá hủy khả năng duy trì một tỷ giá hối đoái thấp và mang tính cạnh tranh, cũng như làm phức tạp thêm cách quản lý chính sách công nghiệp của họ. Nếu người nước ngoài có thể mua và bán chứng khoáncủa Nhật với số lượng lớn, Chính phủ Nhật sẽ gặp khó khăn hơn trong việc sử dụng hệ thống tài chính để chuyển hướng các nguồn vốn đến cho các công ty trong nước.
Giờ đây, Nhật Bản dường như cũng nóng lòng muốn đồng yên đóng một vai trò quốc tế lớn hơn, đặc biệt là ở châu Á. Nhưng chính sách trước đây của họ đã hạn chế tính thanh khoản bằng đồng tiền này của thị trường. Gần đây, tình trạng trì trệ kinh tế Nhật và mức lãi suất 0% đã khiến dự trữ bằng đồng yên trở nên ít hấp dẫn. (Cuối năm 2007, yên chiếm gần 3% tổng trái phiếu nước ngoài). Dân số ngày càng già đi của Nhật sẽ đồng nghĩa với việc nền kinh tế của họ, cũng như đồng tiền của họ, khó có được một vai trò lớn hơn trên thế giới.
2.3. Ảnh hưởng của đồng USD đối với kinh tế Việt Nam
2.3.1. Ảnh hưởng bởi đồng USD mất giá
- Tỷ giá VND/USD đứng yên
Về phương diện cạnh tranh việc USD mất giá so với nhiều đồng tiền khác trong khi tỷ giá VND/USD đứng hoặc yếu đi một chút là có lợi cho xuất khẩu của Việt Nam.
Đứng ở góc độ xuất khẩu, một khi đồng tiền của nước nào lên giá so với USD thì đều gây khó khăn cho xuất khẩu. Tuy nhiên, khi USD chỉ mất giá khá mạnh so với những đồng tiền chủ chốt. Đối với đồng tiền của các nước trong khu vực vốn là đối thủ cạnh tranh của Việt Nam thì tỷ lệ mất giá không nhiều (đồng nhân dân tệ của Trung Quốc và ringit Malaysia gần như không thay đổi; tỷ giá giữa HKD (đôla Hongkong) và USD vẫn được cố định.
Việc mất giá của đồng đôla Mỹ trên thị trường thế giới thực ra ảnh hưởng không nhiều lắm về mặt tỷ giá đối với tình hình xuất nhập khẩu của doanh nghiệp Việt Nam. Vì phần lớn doanh nghiệp, ngay cả doanh nghiệp nước ngoài vẫn chọn đồng đôla Mỹ là đồng tiền thanh toán. Chỉ khi ở nước có đồng tiền tăng giá đề nghị doanh nghiệp Việt Nam (nhà xuất khẩu) đổi sang thanh toán bằng tiền của họ thì mới có thể có thiệt thòi.
Ví dụ ở doanh nghiệp Casumina, một số khách hàng châu Âu có đề nghị thanh toán bằng đồng euro khi Casumina xuất hàng cho họ. Trong bối cảnh euro tăng giá, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sau khi nhận euro phải chuyển ngược lại thành đô la Mỹ thì sẽ bị lỗ về tỷ giá.Tuy nhiên theo thông lệ, nếu giá nguyên vật liệu đột xuất bỗng tăng đến 5% thì các đối tác mới đàm phán lại với nhau. Còn đối với tỷ giá đồng tiền, dù biến động đến 5%, các bên cũng chưa đặt thành vấn đề.
- Tỷ giá VND/USD giảm
Các doanh nghiêp sản xuất các mặt hàng xuất khẩu thực hiện việc thanh toán các lô hàng xuất khẩu của doanh nghiệp phần lớn dựa trên đồng USD, trong khi nguyên liệu, vật tư chủ yếu cho sản xuất đa phần lại dựa vào các nguồn trong nước và thanh toán bằng tiền đồng. Khi USD bị mất giá trên thị trường, tiền đồng bị thiếu hụt trong lưu thông khiến các doanh nghiệp rất khó bán ngoại tệ thu về sau xuất khẩu để thu hồi vốn, trang trải chi phí sản xuất. Các ngân hàng lúc này sẽ chủ trương hạn chế mua USD và mua với tỷ giá thấp đã tác động đến dòng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Ví dụ khi tỷ giá từ trên 16.000 đồng/USD giảm xuống chỉ còn 15.700 đồng/USD, chưa kể nhiều ngân hàng còn thu thêm phí (2%) khi mua USD khiến các doanh nghiệp bị thiệt đơn thiệt kép.
Thực tế trên đang đẩy nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng có dư ngoại tệ nhưng không bán được cho ngân hàng trong khi vẫn phải vay vốn tiền đồng với lãi suất cao hơn trước đây (do các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất cho vay lên 1,1 - 1,4%/tháng). Các doanh nghiệp đang phải chịu lỗ để duy trì sản xuất và thực hiện các đơn hàng đã ký với khách hàng trước đây.
Do thiếu vốn tiền đồng và chịu lỗ về tỷ giá khi thu hồi tiền bán hàng, chi phí tăng cao do vật tư tăng giá, doanh nghiệp buộc phải giảm mua nguyên liệu hoặc mua với giá thấp hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu trong nước. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đối với mặt hàng xuất khẩu thuộc khu vực nông nghiệp.
Ví dụ trong xuất khẩu thủy hải sản, khi vào chính vụ thu hoạch, do quan hệ cung - cầu trên thị trường, doanh nghiệp không thể kéo giá xuất khẩu lên nên không thể mua nguyên liệu với giá cao, trong khi người nuôi phải thu hoạch gấp khiến tiêu thụ nguyên liệu khó khăn và phức tạp. Các chi phí đầu vào ở khâu nuôi và đánh bắt thủy sản như giống, thức ăn, nhiên liệu, chi phí vận chuyển đều tăng khoảng 20%, khiến người nuôi và ngư dân bị lỗ, khó đầu tư vào vụ tiếp theo. Điều này sẽ gây thiếu hụt nguyên liệu cho xuất khẩu trong năm nay, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.
2.3.2. Ảnh hưởng bởi đồng USD tăng giá
Đồng USD tăng giá cũng khiến việc nhập khẩu, mua vào của các nước trên thế giới trở nên đắt đỏ hơn: Thị trường sắt, thép quốc tế mới hạ nhiệt được giờ đây lại trở nên đắt hơn do đồng USD tăng giá các nhà nhập khẩu phải chi nhiều tiền hơn cho các hợp đồng thanh toán bằng USD.
Mỹ hiện là thị trường số 1 của các nhà sản xuất khu vực trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất. Chính vì thế việc đồng USD tăng giá trong tương lai sẽ giúp người tiêu dùng Mỹ, các nhà NK Mỹ mua được nhiều hàng hơn từ những đồng tiền sẵn có của mình, còn các nhà XK khu vực nhờ đó mà đẩy mạnh XK vào Mỹ. Cũng trong xu hướng đó, các nhà Xk Việt Nam sẽ xuất khẩu được nhiều hàng hóa hơn.
Thông thường, khi tỷ giá tăng tăng giá các DN xuất khẩu sẽ có lợi, tuy nhiên, không ít DN không hoạt động trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu cũng thường nhân dịp này, tự ý tăng giá.Khi tỷ giá tăng, các DN cung ứng nguyên liệu trong nước thường hay tăng giá và mức tăng giá này luôn cao hơn mức tăng của tỷ giá, khiến chi phí đầu vào của DN sản xuất hàng xuất khẩu tăng. DN sẽ gặp khó khăn, vì hợp đồng đã ký từ trước, muốn thương lượng lại với đối tác để điều chỉnh giá bán cũng rất khó.
Trong khi tỷ giá tăng, DN nhập khẩu nguyên vật liệu về sản xuất hàng để bán ở thị trường trong nước sẽ bị thiệt hơn so với những DN chuyên xuất khẩu. Nếu chỉ có một số loại nguyên liệu tăng giá thì ảnh hưởng không đáng kể, nhưng nếu nhiều loại nguyên liệu cùng đồng loạt tăng giá thì sẽ ảnh hưởng nhất định tới DN xuất khẩu.
Dự báo, giá nguyên liệu trong nước (những nguyên liệu có thể xuất khẩu) sẽ tăng, nên các DN đang tính tới việc sẽ đàm phán với khách hàng tăng giá bán sản phẩm. Tuy nhiên, điều này là rất nguy hiểm, bởi việc đàm phán tăng giá bán sẽ đồng nghĩa với việc giảm tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, kèm theo nguy cơ bị mất đơn hàng.
Các DN nên tính toán kỹ lại giá thành sản phẩm. Trong cơ cấu giá thành, nên có kinh phí dự phòng rủi ro về tỷ giá, nhằm hạn chế tác động của việc tăng, giảm tỷ giá (trong thời gian tới) đến sản xuất - kinh doanh. Tiếp đó, DN nên chủ động dự trữ nguyên nhiên liệu, để khi giá cả biến động thì cũng không ảnh hưởng nhiều đến sản xuất - kinh doanh.
PHẦN III: NHỮNG DỰ BÁO VỀ ĐỒNG USD TRONG TƯƠNG LAI
VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Dự báo về vị thế đồng USD trong tương lai
Dự báo về một số đồng tiền mới nổi
Dự báo đồng Euro – đối trọng của đồng USD
Euro là một đồng tiền mạnh hiếm hoi đứng ở thế đối trọng với đồng USD. Tuy nhiên với cuộc khủng hoảng nợ Hy lạp vừa qua và nguy cơ về nợ công ngày càng lớn của các nước thành viên thì tương lai của đồng tiền này được dự báo là sẽ khó có thể tồn tại hết nhiệm kỳ của Nghị viện châu Âu trong 5 năm tới. Thậm chí có những ý kiến cho rằng đồng euro sẽ chấm dứt mô hình tồn tại hiện nay trong một vài tuần tới chứ chưa nói tới nhiệm kỳ nghị viện 5 năm.
Cách đây chưa đầy 1 năm, rất ít chuyên gia trong Khu Tài chính London đưa ra dự đoán về sự kết thúc của đồng euro. Tuy nhiên, những khoản nợ kếch xù của Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và sự thừa nhận của Thủ tướng Đức Angela Merkel rằng đồng euro đang đối mặt với “cuộc khủng hoảng về sự tồn tại” đã làm thay đổi mạnh mẽ quan điểm của giới chuyên gia kinh tế. Chuyên gia Andrew Lilico, nhà kinh tế cấp cao thuộc Viện Policy Exchange của Anh cho rằng “cơ hội hiện nay gần như số 0 đối với sự tồn tại của đồng euro”. Chuyên gia Douglas McWilliams từ Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh (CEBR) (Anh) còn dự đoán đồng euro “thậm chí không sống nổi sau tuần tới”. Trong khi đó, ông Tim Congdon thuộc Tập đoàn Nghiên cứu Tiền tệ Quốc tế (IMR) cho rằng “khu vực đồng euro sẽ phải mất khoảng 3 hoặc 4 thành viên như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Ireland và có thể sẽ đổ vỡ toàn khối bởi xích mích ngày càng gia tăng giữa Pháp và Đức”. Chuyên gia Peter Warburton thuộc Công ty Tư vấn Triển vọng Kinh tế lạc quan hơn khi phát biểu: “Đồng euro có thể sẽ vẫn tồn tại nhưng ở dưới một hình thức khác” và “nhiều khả năng Đức sẽ rút lui trong khi có thể một số nước Tây Âu và Trung Âu khác - cộng thêm Đan Mạch - sẽ tham gia khu vực đồng euro”.
Những quan ngại gần đây về số phận của đồng euro đã nổi lên sau quyết định cứu trợ khẩn cấp 750 tỷ EUR hồi tháng trước nhằm ngăn ngừa những đổ vỡ trong tương lai. Mặc dù quỹ cứu trợ khổng lồ đã giúp trấn an tâm trạng hoang mang của dư luận, nhưng các chuyên gia cho rằng nó không mang lại những thay đổi cơ cấu cần thiết trong nội bộ khu vực đồng euro, đơn giản là vì bất đồng giữa các nước trong khu vực - về vấn đề phát triển kinh tế, nợ và quan trọng hơn là khả năng phục hồi kinh tế - quá lớn. Tuy nhiên cũng có một tín hiệu khá khích lệ khi Cơ quan thống kê châu Âu (Euroostat) cho hay trong quý 1-2010, tất cả các nước thuộc EU đã thoát ra khỏi suy thoái kinh tế (ngoại trừ Hy Lạp tiếp tục giảm 0,8%). Những nước tăng trưởng mạnh là Bồ Đào Nha (+1%), Slovakia (+0,8%) và Italia (+0,5%). Kinh tế Đức tuy chỉ tăng 0,2% nhưng lại là quý thứ 4 liên tiếp đạt mức tăng trưởng, trong khi đó Pháp chỉ tăng +0,1%.
.Giới phân tích cũng đang quan ngại về cuộc suy thoái kép một cách toàn diện ở châu Âu, với những căng thẳng tài chính mới. Điều này có thể là một vấn đề nghiêm trọng đối với tất cả các khu vực khác, làm suy yếu đà phục hồi kinh tế. Ở hầu hết các nước, kể cả phát triển và đang phát triển, khả năng kích thích tài chính là không còn, do đó các nhà hoạch định chính sách cũng không còn khả năng giải quyết một đợt suy thoái mạnh mới. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng tài chính châu Âu đã làm tăng nguy cơ đối với các nước có mức thâm hụt ngân sách cao, kể cả Mỹ và Nhật, phải đột ngột thắt chặt chính sách tài chính.
10 năm trước, người ta đã kỳ vọng vào một đồng euro mạnh mẽ có khả năng vượt qua đồng đô la Mỹ. Nhưng giờ đây, đồng tiền này đã đánh mất vị thế đối trọng với đồng USD của mình.
Dự báo đồng NDT – một trong những đồng tiền dự trữ của thế giới trong tương lai
Trung Quốc đang thực hiện những bước đầu tiên để đưa Nhân dân tệ thành một trong số những đồng tiền dự trữ của thế giới, sánh ngang với những đồng tiền như USD hay Euro. Có thể ngày đó còn xa, nhưng dường như Trung Quốc rất quyết tâm để đạt mục tiêu này. Bắc Kinh đang thúc đẩy việc sử dụng đồng Nhân dân tệ bên ngoài biên giới Trung Quốc. Điều này khẳng định ý chí của Trung Quốc nhằm tạo ảnh hưởng lớn hơn trong các vấn đề tài chính quốc tế. Những người tin tưởng ở sự vươn xa của đồng Nhân dân tệ càng có cơ sở để củng cố thêm niềm tin này khi vào ngày 17/6 vừa qua, Trung Quốc đã mở rộng một chương trình thử nghiệm cho phép sử dụng Nhân dân tệ trong thanh toán xuất nhập khẩu, thay thế cho USD và các ngoại tệ khác. Chương trình này đã được mở rộng tới các doanh nghiệp tại 20 tỉnh thành ở Trung Quốc, thay vì chỉ 5 thành phố như ban đầu, và được áp dụng với đối tác thuộc mọi quốc gia và vùng lãnh thổ, thay vì chỉ các đối tác ở Hồng Kông, Macau và Đông Nam Á như trước.
Việc thử nghiệm sử dụng Nhân dân tệ cho xuất khẩu đã bắt đầu từ tháng 7/2009, ban đầu khá chậm nhưng về sau đã tăng tốc. New York Times cho hay, trong thời gian từ cuối tháng 3 tới cuối tháng 5/2010, tổng kim ngạch thương mại được thanh toán bằng Nhân dân tệ đã tăng gấp đôi, lên mức 44,6 tỷ Nhân dân tệ, tương đương 6,6 tỷ USD. So với kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc, con số trên chẳng thấm vào đâu. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc tiếp tục tăng cường tính linh hoạt cho tỷ giá Nhân dân tệ đúng như cam kết đưa ra hôm 19/6, nhu cầu của các công ty ở nước này muốn tránh những rủi ro về tỷ giá bằng cách thanh toán bằng đồng nội tệ chắc chắn sẽ tăng lên. Đối với các công ty xuất khẩu hàng vào Trung Quốc, ý nghĩ cho rằng Nhân dân tệ sẽ tăng giá là một động lực lớn để họ nhận thanh toán bằng đồng tiền này. Thậm chí các chuyên gia kinh tế của HSBC tại Trung Quốc còn dự báo trong vòng 3 - 5 năm tới, hơn một nửa tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc, chủ yếu là trong quan hệ thương mại với các thị trường mới nổi, sẽ được thanh toán bằng Nhân dân tệ.
Nếu gửi Nhân dân tệ vào các ngân hàng ở Hồng Kông, nơi hiện được xem là đầu mối chính cho hoạt động thanh toán thương mại bằng đồng tiền này, thì mức lãi suất nhận được khá eo hẹp. Các công ty vì thế đã đa dạng hóa các phương thức đầu tư Nhân dân tệ ở Hồng Kông. Vào tuần trước, một công ty thu phí đường bộ mang tên Hopewell Highway Infrastructure đã công bố phát hành trái phiếu doanh nghiệp bằng Nhân dân tệ tại Hồng Kông
Các hợp đồng bảo hiểm tính theo Nhân dân tệ cũng được kỳ vọng sẽ sớm xuất hiện. Các nhà chức Hồng Kông hiện còn đang đưa ra kế hoạch, cho phép các công ty môi giới nhận tiền gửi Nhân dân tệ và đầu tư vào thị trường vốn ở đại lục.
Trong chương trình này, một số quỹ đầu tư ngoại được phép chuyển đổi 30 tỷ USD sang Nhân dân tệ, để đầu tư vào Trung Quốc đại lục.New York Times nhận xét, “sốt ruột” trước những “đặc quyền” mà nước Mỹ có được trong việc phát hành đồng tiền dự trữ hàng đầu, Trung Quốc có thể sẽ tìm cách gây ảnh hưởng với phần còn lại của thế giới thông qua đồng Nhân dân tệ.
Tháng 3/2009, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc Chu Tiểu Xuyên đã vạch ra một kế hoạch dài hơn, nhằm thay thế đồng USD bằng một đồng tiền siêu chủ quyền tương tự như quyền rút vốn đăc biệt (SDR) của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Trung Quốc ra dấu cho thấy, họ muốn Nhân dân tệ là một phần của đồng tiền siêu chủ quyền này. Hiện SDR của IMF bao gồm các đồng tiền USD, Euro, Yen Nhật và Bảng Anh.
IMF đã cam kết sẽ chuyển ít nhất 5% trong quyền bỏ phiếu tại định chế này sang cho các thành viên là các nền kinh tế mới nổi. Giám đốc IMF, ông Dominique Strauss-Kahn, thì muốn bổ sung thêm các đồng tiền khác vào rổ tiền tệ của SDR, mà khởi đầu sẽ là đồng Nhân dân tệ.
Bên cạnh việc xem Hồng Kông như một trung tâm cho việc thúc đẩy sự phổ biến của đồng Nhân d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Dự báo về đồng USD trong tương lai và các giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá đồng.doc