Phát triển kinh tế là một trong những chiến lược lâu dài và quan trọng nhất đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Nó bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy xác định mục tiêu phát triển kinh tế là một vấn đề có tính chất chiến lược, sống còn đối với đất nước ta.
Thứ nhất là thực hiện đồng thời 3 mục tiêu về kinh tế: tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả; ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô. Phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chế.
Thứ hai là tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước.
Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiềm chế và kiểm soát lạm phát, loại trừ các nguy cơ tái lạm phát cao. Mục tiêu trong những năm tới là mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng khả năng cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu tăng, phát triển mạnh du lịch và các dịch vụ thu ngoại tệ.
12 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1151 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vị trí, vai trò của thương mại trong sự phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điểu tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội. Bức tranh kinh tế - xã hội ngày càng sáng sủa lên, nó phản ánh diện mạo của nền kinh tế. Trên lĩnh vực kinh tế tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định, thu nhập bình quân đầu người không ngừng tăng lên, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Trên lĩnh vực chính trị - xã hội cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Để đạt được điều đó, chúng ta không thể không kể đến vai trò của ngành kinh tế khác nói chung. Thương mại cùng với các ngành khác làm thay đổi cơ bản diện mạo của nền kinh tế. Với nỗ lực của mình thương mại ngày càng đóng góp đáng kể vào kết quả của nền kinh tế. Điều này được thể hiện ngay trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với quá trình quốc tế hoá hiện nay, thương mại càng nổi lên như một ngành không thể thiếu được, đóng vai trò là ngành dẫn đầu tham gia vào quá trình hội nhập. Tuy nhiên, ngành thương mại nước ta còn tồn tại nhiều hạn chế, nhược điểm. Chưa thực sự giữ được vai trò dẫn dắt các ngành khác trong quá trình chuyển đổi. Vì vậy để khắc phục nhược điểm, phát huy những mặt tích cực, chúng ta phải không ngừng cải thiện để hoàn thiện chính sách thương mại để nó phát huy được vai trò của nó, một công cụ quan trọng để phát triển kinh tế.
Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề này, cộng với vốn kiến thức đã được học đồng thời nhằm ngày càng hoàn thiện vấn đề này em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Vị trí, vai trò của thương mại trong sự phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. "
Những vấn đề lý luận cơ bản về thương mại
I-/ Tổng quan về thương mại
1-/ Khái niệm về thương mại.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cũng như nền kinh tế thị trường, khái niệm về thương mại có nhiều cách hiểu, song có thể khái quát theo 2 cách chủ yếu sau:
- Theo nghĩa rộng: Thương mại được coi là qúa trình kinh doanh (thương mại đồng nghĩa với kinh doanh). Mọi hoạt động kinh tế nhằm tìm kiếm lợi nhuận dù ở bất kỳ lĩnh vực nào (sản xuất, lưu thông, dịch vụ, đầu tư...cũng đều là thương mại.
- Theo nghĩa hẹp: Thương mại là quá trình mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường. Theo luật thương mại thì: hoạt động thương mại của thương nhân bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội.
2-/ Quan điểm về thương mại.
Trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động của nền kinh tế đều vận động theo những quy luật nhất định nào đó. Thương mại cũng không nằm ngoài sự vận động chung đó. Mặt khác, nhà nước chỉ can thiệp vào nền kinh tế thị trường bằng công cụ thuế và pháp luật. Đây là hai công cụ chủ yếu được Nhà nước ta sử dụng, song để thực hiện được nó thì còn rất nhiều khó khăn nan giải. Do đó để kiểm soát được nền kinh tế nói chung và ngành thương mại nói riêng thì Nhà nước cũng đã đưa ra nhiều chính sách, bộ luật để hướng dẫn điều tiết các hoạt động của nó đi cùng với xu hướng mục tiêu của nền kinh tế.Thương mại là một ngành, một lĩnh vực phức tạp và khó kiểm soát đặc biệt là trong giai đoạn như hiện nay khi mà chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường, đồng thời là mở cửa giao lưu buôn bán với nước ngoài.
Vị trí và vai trò của thương mại trong nền kinh tế thị trường.
- Vị trí: thương mại có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trước hết thương mại là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất. Thương mại nối liền giữa sản xuất với tiêu dùng. Dòng vận động của sản phẩm hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng phải thông qua khâu phân phối và trao đổi. Thì chính thương mại đã bao gồm cả hai khâu này. ở vị trí cấu thành của tái sản xuất, thương mại được coi như là hệ thống dẫn lưu, tạo ra sự liên tục của quá trình tái sản xuất. Khâu này bị ách tắc sẽ dẫn tới sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất hàng hoá với mục đích là để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng để trao đổi, mua bán hàng hoá và để thực hiện được mục đích này khi và chỉ khi phải thông qua thương mại. Thứ ba là thương mại là lĩnh vực kinh doanh, thu hút trí lực và tiền vốn của các nhà đầu tư để thu lợi nhuận. Bởi vậy kinh doanh thương mại đã trở thành ngành sản xuất vật chất thứ hai theo như nhận xét của một số nhà kinh tế thì thương mại là một ngành sản xuất đặc biệt.
- Vai trò của thương mại: Thương mại đã được coi là công cụ quan trọng, một mũi nhọn đột kích phá vỡ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp để chuyển sang cơ chế thị trường.
Thứ nhất, thương mại thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chấn hưng các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích người sản xuất không ngừng gia tăng khối lượng sản phẩm của mình, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá lớn. Phát triển thương mại cũng có nghĩa là phát triển các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Đó là con đường ngắn nhất để chuyển từ sản xuất tự nhiên thành sản xuất hàng hoá.
Thứ hai, thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, kích thích nhu cầu và gợi mở nhu cầu.Thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế làm cho quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước khác không ngừng phát triển.Thương mại bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường và liên tục. Quá trình tái sản xuất ở đây được khởi đầu bằng việc đầu tư vốn cho mua sắm các yếu tố sản xuất, tiếp theo là quá trình sản xuất ra hàng hoá, rồi khâu cuối cùng là tiến hành tiêu thụ sản phẩm. Trong chu kỳ của quá trình tái sản xuất đó, thương mại có mặt ở hai khâu là phân phối và trao đổi. Thương mại bảo đảm các yếu tố đầu vào cho sản xuất và thực hiện khâu tiêu thụ sản phẩm. Thương mại đảm bảo thực hiện được mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải có lợi nhuận, lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp, để đạt được mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải thực hiện được mục tiêu trung gian là tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, thương mại có vai trò điều tiết, hướng dẫn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Qua hoạt động thương mại sẽ có những thông tin từ phía người mua, từ thị trường. Trên cơ sở đó, nó sẽ hướng dẫn sản xuất phù hợp với nhu cầu thường xuyên thay đổi của thị trường.
Thứ tư, thương mại tác động đến vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
II-/ Thực trạng thương mại nước ta trong thời gian qua.
1-/Trong thời gian qua, cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, thương mại đã cùng các ngành, các địa phương khác nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng, tạo đà, bước để cho những năm tiếp theo. Trên lĩnh vực thương mại, có những chuyển biến rõ nét, góp phần quan trọng vào mục tiêu chung của nền kinh tế.
Thứ nhất, trên lĩnh vực mua bán hàng hoá, chúng ta đã chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu. Nhà nướckhông chi phối hoàn toàn giá cả trên thị trường mà chỉ tác động vào thị trường bằng những công cụ điều tiết của mình để cho thị trường tự điều tiết lấy, tự bình ổn lấy.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, giá cả nói riêng và toàn bộ các hoạt động mua bán trao đổi đều do Nhà nước chi phối quyết định dẫn đến tình trạng cung không đáp ứng nổi cầu, sản xuất cầm chừng, lãi giả lỗ thật, việc hạch toán sản xuất kinh doanh thực hiện theo chế độ hạch toán kinh tế. Thì bây giờ trong cơ chế thị trường, Nhà nước cho phép các thành phần kinh tế tự do sản xuất kinh doanh, do vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để giảm mức tối đa chi phí đầu vào thì từ đó mới có được lợi nhuận. Do đó, các doanh nghiệp phải chuyển sang hạch toán theo chế độ hạch toán kinh doanh, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị.
Thứ hai, một khía cạnh quan trọng của thương mại góp phần làm thay đổi diện mạo của nền kinh tế trong những năm qua và ngày càng có triển vọng trong những năm tới phải kể đến là lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nhờ chính sách đổi mới đa dạng hoá đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại và thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta trong hơn 10 năm qua, đặc biệt từ năm 1991 đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng. Đến nay, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 140 nước trên hầu khắp các châu lục trên thế giới. Chất lượng, số lượng và chủng loại mặt hàng có những cải thiện đáng kể.
Giá một số mặt hàng chủ lực của nước ta trên thị trường thế giới tăng nhanh. Cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, nhiều mặt hàng xuất khẩu của ta đã có mặt trên nhiều thị trường khu vực và thế giới và ngày càng khẳng định được chỗ đứng của mình. Những mặt hàng chủ lực có thể kể đến là gạo, cà phê, dầu thô, hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản... Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam.
Về thị trường: Chúng ta đã có quan hệ mua bán với tất cả các châu lục: á, úc, Âu, Mỹ và Phi trong đó châu á vẫn là thị trường đứng đầu. Quan hệ buôn bán giữa nước ta với các nước khác ngày càng xiết chặt, với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” thì chúng ta đã, đang và sẽ ngày càng có nhiều đối tác làm ăn, buôn bán hơn. Đối với thị trường trong nước, sau hơn 10 năm đổi mới, thị trường đã chuyển từ trạng thái chia cắt khép kín theo địa giới hành chính kiểu “tự cấp tự túc” sang tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo điều tiết các thành phần kinh tế khác hoạt động theo đúng pháp luật.
Một số doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, phát huy được vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa, bước đầu tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Một số doanh nghiệp đang chuyển đổi tổ chức, thực hiện quá trình liên kết và tích tụ đầu tư vào sản xuất và chế biến, qua đó tạo nguồn hàng và mở rộng thị trường là lực lượng kinh tế mạnh của Nhà nước trong việc điều hoà cung cầu, ổn định giá cả.
Hàng hoá trong nước phong phú, giá cả tương đối ổn định, lạm phát được kiềm chế, ngày càng có nhiều mặt hàng Việt Nam có mặt trên thị trường thế giới.Do đó thúc đẩy các ngành đổi mới công nghệ, cải tiến cơ cấu sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho sản xuất từng bước gắn với nhu cầu thị trường bước đầu phát huy được lợi thế so sánh giữa các vùng, các miền, giữa thị trường nước ta với thị trường thế giới, tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Đạt được những thành tự bước đầu rất quan trọng này là do có đường lối và chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của các ngành, các cấp, tinh thần khắc phục khó khăn, hoạt động năng động của các doanh nghiệp, gắn liền với sự chuyển biến tích cực của toàn bộ nền kinh tế.
2-/Những hạn chế của hoạt động thương mại trong thời gian qua.
Bên cạnh những thành tựu và kết quả đã đạt được, thương mại nước ta vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, thiếu sót, phát sinh những vấn đề phức tạp mới, cần có chủ trương và biện pháp giải quyết đúng đắn nhằm đảm bảo định hướng của sự phát triển, phát huy những mặt tích cực và hạn chế, giảm thiểu mức tối đa những mặt yếu kém.
Thứ nhất, thị trường hàng hoá và số lượng doanh nghiệp bung ra kinh doanh phát triển với tốc độ nhanh, nhưng mang nặng tính tự phát. Nếu thương nghiệp về cơ bản vẫn là một nền thương nghiệp nhỏ, tổ chức phân tán, manh mún, buôn bán theo kiểu chụp giựt qua nhiều tầng nấc, dẫn đến tình trạng ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra ở thị trường trong nước, bị chèn ép ở thị trường nước ngoài.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong những năm qua số lượng các doanh nghiệp tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh ngày càng nhều. Bên cạnh đó hệ thống pháp luật của nước ta còn yếu kém, không kiểm soát được thị trường trong nước và số lượng thương nhân kinh doanh nên về cơ bản nền kinh tế nước ta đứng trước bối cảnh thị trường chưa khả quan, còn nhiều khó khăn, bất ổn định.Trong khi đó hàng lậu, hàng giả còn đầy rẫy, chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả. Tình hình buôn bán còn diễn ra theo kiểu từng phi vụ, vấn đề tổ chức quản lý thị trường chưa chặt chẽ, Nhà nước chưa kiểm soát được số lượng hàng hoá bày bán trên thị trường.
Đồng thời với chính sách bảo hộ cao, thì hoạt động buôn lậu gian lận thương mại cũng gia tăng. Việc đánh thuế nhập khẩu cao và vào một mặt hàng nào đó thì buôn lậu mặt hàng đó phát triển bởi lẽ thuế cao, thuế cao cùng các chính sách hạn chế nhập khẩu sẽ đẩy giá hàng nhập khẩu hợp phấp lên quá cao so với những mặt hàng nhập lậu cùng loại. Với ưu thế giá rẻ, chất lượng tốt, hàng nhập lậu lại quay lại cạnh tranh với chính những mặt hàng được bảo hộ sản xuất trong nước, làm cho hàng trong nước bị ứ đọng, không tiêu thụ được. Vì thế đối với các doanh nghiệp, cách bảo hộ tốt nhất là phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh, giá rẻ chất lượng tốt.
Thứ hai là công tác quản lý thị trường nói chung chưa đạt được kết quả theo yêu cầu đặt ra, tình trạng buôn lậu, hàng giả, gian dối trong thương mại không những không suy giảm mà ngày càng trầm trọng. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta vẫn đưa ra phương hướng phát triển là “giảm dần nhập siêu, hạn chế nhập những hàng tiêu dùng chưa vào loại thiết yếu. Có chính sách bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý”. Song trên thực tế thì chúng ta vẫn chưa thực hiện được chủ trương đó, do Nhà nước chưa quản lý được hết hoạt động nhập khẩu nên nạn nhập lậu vẫn diễn ra thường xuyên, với tốc độ nhanh khiến cho sản xuất trong nước ế thừa, tồn đọng không tiêu thụ được.
Ngoài ra về lĩnh vực xuất nhập khẩu: Mặc dù tốc độ tăng xuất khẩu không ngừng tăng cao nhưng trên thực tế khả năng cạnh tranh của sản phẩm nước ra trên thị trường thế giới vẫn còn yếu kém.Thị trường xuất nhập khẩu tuy đã được mở rộng hơn trước nhưng vẫn còn rất hạn chế, ta chưa đứng chận được trên một số thị trường tiêu thụ trực tiếp của ta mà còn phải thông qua thị trường trung gian do đó hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu nói chung vẫn còn rất hạn chế.
3-/Nguyên nhân của những hạn chế đó.
Sở dĩ trong thời gian qua, hoạt động thương mại nước ta còn tồn tại nhiều khuyết điểm, yếu kém hạn chế sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ công nông, quan hệ thành thị nông thôn, dẫn đến sự tiến bộ và công bằng xã hội là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế đã gây ra những khó khăn và mât cân đối lớn trong nền kinh tế. Nhận thức về cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu chuyển đổi còn nhiều lúng túng, còn những lệch lạc, kiến thức và năng lực quản lý điều hành còn yếu. Cơ chế quản lý còn mang nặng tính tập trung, quan liệu cửa quyền, đội ngũ cán bộ chưa được sắp xếp lại đào tạo rèn luyện kịp với tình hình và nhiệm vụ mới, một bộ phận thoái hoá biến chất không được xử lý kịp thời và kiên quyết.
Công nghệ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, lạc hậu mấy thế hệ, không thích hợp với nền kinh tế thị trường.
Tuy có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu hàng chế biến nhưng nhìn tổng thể thì hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam phần lớn còn ở dạng nguyên liệu và thô.
Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại trong lĩnh vực thương mại. Để cho thương mại nước ta trong thời gian tới phát huy được vai trò lãnh đạo của nó, đặc biệt là trong giai đoạn quốc tế hoá như hiện nay, thì Đảng và Nhà nước ta trên cơ sở thực tiễn đã phân tích những mặt tốt và những mặt yếu kém của nó đã đưa ra các giải pháp nhằm ngày càng hoàn thiện các chính sách thương mại.
Những giải pháp nhằm phát triển thương mại nước ta trong thời gian tới
I.Mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian tới.
Phát triển kinh tế là một trong những chiến lược lâu dài và quan trọng nhất đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Nó bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy xác định mục tiêu phát triển kinh tế là một vấn đề có tính chất chiến lược, sống còn đối với đất nước ta.
Thứ nhất là thực hiện đồng thời 3 mục tiêu về kinh tế: tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả; ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô. Phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chế.
Thứ hai là tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước.
Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiềm chế và kiểm soát lạm phát, loại trừ các nguy cơ tái lạm phát cao. Mục tiêu trong những năm tới là mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng khả năng cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu tăng, phát triển mạnh du lịch và các dịch vụ thu ngoại tệ.
II-biện pháp phát triển thương mại ở nước ta trong thời gian tới.
1.Những biện pháp chủ yếu.
1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách và công cụ quản lý. Xây dựng và ban hành luật Thương mại nhằm điều chỉnh mọi việc mua bán, lưu thông hàng hoá và các hoạt động dịch vụ trên thị trường. Đồng thời xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật các chính sách thị trường, bao gồm chính sách giá cả, các định chế về thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, về kiểm tra, kiểm soát...ban hành quy chế đại lý nhằm thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế và ban hành các kênh lưu thông.Chấn chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng khuyến khích mạnh xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu vật tư cho sản xuất, hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống, bảo đảm cân đối cung - cầu, ổn định giá cả.
1.2.Cơ chế kế hoạch hoá và các công cụ tài chính, tín dụng:Kế hoạch hoá thương mại trong nền kinh tế thị trường phải thể hiện các nội dung: xây dựng chiến lược thị trường và quy hoạch phát triển thương mại đáp ứng yêu cầu của kinh tế hàng hoá tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế, phát triển thị trường vốn, hiện đại hoá ngành ngân hàng, đổi mới công nghệ . 1.3. Tổ chức lại thị trường trên từng địa bàn theo các định hướng sau đây:Tổ chức hệ thống thương mại dịch vụ gắn với quy hoạch phát triển trên từng địa bàn, bảo đảm mua bán thuận tiện, xác lập trật tự thị trường.Phát huy vai trò phát luồng hàng, khả năng định hướng và điều tiết thị trường xã hội trong khu vực của thị trường đô thị, đặc biệt là các trung tâm thương mại lớn.
1.4. Về thị trường xuất nhập khẩu: Hết sức coi trọng thị trường trong nước. Xem việc nắm và ổn định thị trường trong nước là một trong những mục tiêu hàng đầu của chính sách thương mại. Thị trường ngoài nước là quan trọng đối với xuất khẩu của mọi quốc gia trong xu thế hội nhập hiện nay nhưng không bao giờ thị trường nước ngoài có thể thay thế thị trường trong nước nhất là đối với nền kinh tế thị trường chưa phát triển của nước ta hiện nay.
1.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực thương mại. Hoàn thiện sự lãnh đạo của các ban cán sự, các cấp uỷ đảng trong các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại. Ngăn chặn và đáu tranh với các biểu hiện tiêu cực nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò chủ đạo của thương nghiệp Nhà nước trên thị trường.
Kết luận
Trong điều kiện hiện nay, khi mà nền kinh tế nước ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn bất cập, đối với thị trường trong nước, sức mua của người dân có phần chững lại, thậm chí có thời điểm giảm nhiều. Thì việc phát triển một hệ thống thương nghiệp là điều hết sức quan trọng. Đứng trước một nền kinh tế mà tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm, thu nhập bình quân đầu người còn rất thấp, bên cạnh đó cùng với xu hướng hội nhập thế giới, thực hiện việc cắt giảm thuế quan vào năm 2000 trong cam kết với AFTA tiến hành đàm phán để được gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì thách thức đặt ra cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng nặng nề hơn. Trong nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế mà Đảng đã đề ra ở nước ta trong những năm tới thì Đảng đã nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của ngành thương mại và trên cơ sở đó đã đưa ra những biện pháp, chủ trương để phát triển nó dựa trên cơ sở phân tích những thuận lợi và khó khăn của ngành trong giai đoạn hiện nay. Thương mại được khẳng định như một ngành có tầm quan trọng chiến lược trong giai đoạn hiện nay và trong những năm tới, đặc biệt là trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới hiện nay.Để cho thương mại phát huy được vai trò to lớn của nó trong cơ cấu tổng thể các ngành kinh tế quốc dân thì chúng ta phải không ngừng đưa ra những chính sách, giải pháp để hoàn thiện nó, làm cho nó trở thành ngành then chốt, dẫn đầu trong xu thế hội nhập hiện nay và cả những năm sau này.
tài liệu tham khảo
1-/ Tạp chí Thời báo kinh tế - Số 1999 - 2000
2-/ Tạp chí Tài chính tháng 11/ 1999.
3-/ Tạp chí Thương mại - Số 24 năm 1999.
4-/ Giáo trình thương mại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0663.doc