MỤC LỤC
Lời nói đầu
I/ Vốn- một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của DN
1. Khái quát về vốn
2. Phân loại vốn
3. Vai trò của vốn đối với các DNVN
II/ Các phương thức tạo vốn của DN
1/ Tạo vốn từ nội bộ DN
2/ Tạo vốn từ bên ngoài DN
· tạo vốn bằng cách vay ngân hàng
· phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK
· Tín dụng thuê mua
III/ Tạo vốn cho DNVN yếu tố quan trọng hàng đầu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1/ Thực trạng vốn của các DNVN
2/ Cơ hội và thách thức đối với DNVN trong quá trình hội nhập
IV/ Các giải pháp nhằm tạo vốn cho DNVN
Kết luận
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1684 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vốn và vấn đề tạo vốn của Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác quy định khác tại mục 1 Chương IV Nghị định số 178/1999/NĐ - CP và Mục 1 Chương IV thông tư số06/2000/TT/NHHH1 ngày 4/4/2000 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định nay; đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lỗ theo kế hoạch do mới đi vào hoạt động tại Việt Nam chưa quá 3 năm nhưng xét thấy có khả năng thực hiện đúng kế hoạch lỗ dự kiến trong dự án đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thì các tổ chức có thẩm quyền xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản phù hợp với các quy định khác tại Mục 1 Chương IV Nghị định số 178/2000/NĐ-CP và Mục 1 Chương IV Thông tư số 06/2000/TTNHNN1 hướng dẫn thực hiện nghị định này .
Ba là, về điều kiện vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp bằng các tài sản bảo lãnh của các bên thứ ba quy định tại Điểm 1.4 Mục 2 Chương III Thông tư số 06 nói trên của Thống đốc ngân hàng nhà nước thực hiện như sau: Có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư tối thiểu bằng 30 % tổng mức vốn đầu tư của dự án; hoặc có giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng một trong các biện pháp cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba tối thiểu bằng 30 % tổng mức vốn đầu tư của dự án .
Bốn là, cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với hộ nông dân, chủ trang trại sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp nuôi trồng thuỷ sản mang tính sản xuát hàng hoá, có phương án sản xuất hiệu quả, có khả năng trả nợ vay, thì tổ chức tín dụng xem xét cho vay 20 triệu đồng không phải thực hiện biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản, chỉ nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy xác nhận của uỷ ban nhân dân xã phường , thị trấn về diện tích đất đang sử dụng không có chanh chấp kèm theo giấy đề nghị vay vốn .
Như vậy so với các quy định cũ , nghị định 178 đã thực hiện một bước tiến lớn về tư duy bảo đảm nợ. Theo đó bảo đảm nợ chỉ là một giải pháp nhằm tránh rủi ro khi người vay mất khả năng thanh toán chứ không phải là điều kiện tiên quyết để cấp tín dụng. Giờ đây việc thẩm định phương án kinh doanh và thẩm định khách hàng trở thành tiêu chuẩn số một để quyết định đầu tư chứ không lệ thuộc chủ yếu vào tài sản cầm cố thế chấp, hoặc bảo lãnh như trước đây. Chính điều này đã giải quyết được phần nào tình trạng ngân hàng thừa vốn không giải ngân được trong khi các doanh nghiệp thiếu vốn để phát triển sản xuất. Mặt khác nghị định 178 cho phép thực hiện bảo đảm nợ trung, dài hạn bằng tài sản hình thành từ vốn vay, điều này mở ra nhiều cơ hội cấp tín dụng cho sản xuất kinh doanh trong điều kiện doanh nghiệp không đủ tiềm lực vốn tự có để triển khai dự án .
Tuy nhiên với điều kiện vay tín chấp như trên (Kết quả SXKD có lẵi 2 năm liền, có tín nhiệm với TCTD về việc sử dụng vốn vay hiệu quả và trả nợ đúng hạn) không
Phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được, chưa kể những DN mới thành lập, hoặc những DN mới vực dậy sau thời gian thua lỗ cần vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Ngay cả các tổng ty 91 với tổng số vốn 44 % tổng số vốn ngân sách của toàn bộ khu vực DNNN nhưng kết quả kinh doanh cũng không khả quan lắm. Chỉ tính riêng 17 tổng công ty 91 trong 3 tháng đầu năm 2002 thì có đến 12 tổng công ty hoạt động không có lãi, hoặc lãi ít. Năm tổng công ty hoạt động có lãi là : TCT Dầu Khí, TCT Bưu chính viễn thông, TCT Điện Lực, TCT Cao Su, TCT Công Nghiệp tàu thuỷ.
Còn 90 % doanh nghiệp hiện có ở Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ ( doanh nghiệp có vốn điều lệ nhỏ hơn 5 tỷ đồng, số lao động bình quân hàng năm dưới 200 người ) thì điều kiện về tài sản thế chấp vẫn là vấn đề nan giải . Quy chế cho vay và nghị định bảo đảm tiền vay cần chú ý tới nhu cầu, khả năng, thực trạng của DN vừa và nhỏ để có tín dụng phù hợp đối với họ, nhất là loại tín dụng trung và dài hạn . Ngoài ra cơ sở pháp lý về việc xác nhận, định giá tài sản dùng để thế chấp ,cầm cố còn phức tạp
Để tận dụng được nguồn vốn này
Về phía các doanh nghiệp.
- Phải năng động tìm kiếm cơ hội đầu tư và thị trường của mình, thông tin về DN phải được cung cấp đầy đủ ,vì chính sự hạn chế về thông tin và mức chi phí để có được mức thông tin này quá cao đã làm tăng rủi ro khi ngân hàng cho vay .
- Phải lập kế hoạch sử dụng vốn vay một cách hiệu quả, đảm bảo tiết kiệm để tạo niềm tin cho các ngân hàng thương mại .
Về phía các ngân hàng thương mại: Nên cho vay dựa vào thực trạng doanh nghiệp, thẩm định chắc chắn dự án đầu tư, coi trọng thông tin kinh tế và kiểm toán tài chính , tức là cho vay dựa vào năng lực thực tế của doanh nghiệp. Trong quá trình xét duyệt cán bộ ngân hàng phải có điều kiện sử dụng các dịch vụ tư vấn có liên quan và có thẩm quyền ( về pháp lý, về công nghệ, về thẩm định dự án ... ) để làm giảm rủi ro ngay từ ban đầu .
Thời gian gần đây cùng với sự mở cửa của nền kinh tế đã xuất hiện nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh (ngân hàng á Châu ACB ...), các ngân hàng thương mại được chủ động lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Khách hàng được tự lựa chọn ngân hàng. Một khách hàng được giao dịch tại nhiều ngân hàng khác nhau... Tất cả đã thúc đẩy không khí cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại. Điều này mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng là những doanh nghiệp do sự đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, thực thi chính sách lãi xuất thấp, phí dịch vụ linh hoạt. Với các chính sách khuyến khích đầu tư của chính phủ, (NĐ 165 ,178) sự thông thoáng của các ngân hàng, các doanh nghiệp phải biết tận dụng cơ hội của mình. Làm thế nào để huy động và sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả nhất ? Đó là câu hỏi của chính các doanh nghiệp Việt Nam.
Tín dụng thuê mua .
Theo quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính ban hành kèm theo Nghi định số 64/ CP ra ngày 9/10/1995 của Chính phủ, điều 1 quy định như sau :” Tín dụng thuê mua là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Bên thuê sử dụng tài sản và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện thoả thuận trong các hợp đồng thuê “
Thực chất phương thức tín dụng thuê mua là một kênh dẫn vốn vô cùng quan trọng, qua đó các doanh nghiệp được tài trợ 100 % nhu cầu về vốn cho các DN có nhu cầu sử dụng tạm thời tài sản hoặc các doanh nghiệp có khó khăn găy gắt về tài chính mà lại muốn sử dụng tải sản, thiết bị hơn là mang quyền chủ sở hữu . Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp rất nhiều khó khăn về vốn trung và dài hạn, nếu đi vay ở các ngân hàng thương mại lại thiếu tài sản thế chấp cũng như rất khó thoả mãn các điều kiện chống rủi ro của các tổ chức này. Vì vậy phương thức tín dụng thuê mua có thể giúp doanh nghiệp đi thuê gia tăng năng lực sản xuất (do được đầu tư công nghệ hiện đại mà không ảnh hưởng đến vốn kinh doanh của doanh nghiệp ), không bị đọng vốn trong tài sản cố định. Mặt khác theo đánh giá của các chuyên gia đánh giá công nghệ asean, mức độ công nghệ, trang thiết bị của Việt Nam lạc hậu từ hai đến ba thế hệ so với các nước đang phát triển trong khu vực. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm ở Việt Nam chỉ khoảng 5-7 %, trong khi đó của thế giới hiện nay là khoảng 20 % năm. Thực tế đáng buồn này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước trên thị trường quốc tế. Vì vậy, đầu tư cho dây chuyền công nghệ, thiết bị hiện đại để tăng hàm lượng chất xám, tăng chất lượng sản phẩm là điều kiện tiên quyết của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập.
Nhận thức được tầm quan trọng của TDTM, 2/ 5/ 2001 Chính phủ đã ban hành nghị định số 16/2001/NĐ-CP’’ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính “. So với NĐ 64/CP, nghị định mới đã cơ bản tháo gỡ được những vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính. Qua đó thoả mãn tối đa nhu cầu về tài sản, thiết bị, dây chuyền công nghệ của các doanh nghiệp đi thuê:
- Thứ nhất nghị định mới quy định không chỉ các doanh nghiệp mà các tổ chức và cá nhân hoạt động tại Việt Nam đều là đối tượng cho thuê của các công ty CTTC. Trước đây cá nhân muốn thuê máy móc, thiết bị (ôtô, máy xúc, máy đào) từ phía công ty CTTC phải”lách luật” bằng cách đội lốt doanh nghiệp nào đó. Cho nên khi rủi ro xảy ra thì việc thu nợ xử lý tài sản sẽ trở nên rất phức tạp.
- Thứ hai cho phép các công ty CTTC được nhập khẩu trực tiếp những máy móc, thiết bị để cho thuê, tạo điều kiện cho các công ty CTTC chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu của người đi thuê và giảm chi phí đầu vào , hạ lãi xuất cho thuê.
- Thứ ba, nếu trước kia, nghị định 64 CP quy định công ty CTTC không được nhân tiền gửi dưới mọi hình thức thì nay các công ty này được huy động tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở nên. Với quy định này, phần nào giải quyết được khó khăn về vốn cho các công ty CTTC liên doanh vay 100 % vốn nước ngoài, cũng như các công ty CTTC thuộc các NHTM , tạo điều kiện cho các công ty chủ động về nguồn vốn với chi phí thấp hơn.
- Thứ tư, các doanh nghiệp có sẵn cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc, thiết bị tốt, làm ăn hiệu quả, nhưng lại thiếu vốn lưu động có thể tận dụng nguồn vốn cố định của mình bằng cách bán máy móc, thiết bị cho các công ty CTTC rồi thuê lại.
- Thứ năm, thuế đối với máy móc thiết bị, các phương tiện vận chuyển và các động sản khác mà công ty CTTC mua trong nước hoặc nhập khẩu để cho thuê được áp dụng như trường hợp bên thuê trực tiếp mua hoặc nhập khẩu các tài sản này, quy định này khắc phục được tình trạng cả người thuê và người cho thuê đều phải có nghĩa vụ nộp lệ phí trước bạ trên gía trị tài sản nhằm xác định nhân quyền sở hữu của các bên vì đặc điểm của hoạt động CTTC là trong quá trình cho thuê tài sản, quyền sở hữu tài sản thuộc về tổ chức tin dụng cho thuê, hết thời hạn thuê, bên thuê được mua lại tài sản đó với giá danh nghĩa . Mặt khác họ phải chịu thuế GTGT tính trên giá trị sản phẩm. Nên chi phí thuê thực tế rất lớn. Với quy định này, đã tạo sự bình đẳng cho khách hàng giữa đi vay các NHTM và đi thuê của các công ty CTTC .
-Thứ sáu, công ty CTTC không được mua, đầu tư vào tài sản cố định của mình quá 50 % vốn tự có ( nghị định cũ qui định không quá 25 %). Tạo điều kiện cho các công ty CTTC trang bị cơ sở vật chất, mua sắm TSCĐ .
- Thứ bảy, tài sản CTTC phải đăng ký tại trung tâm đăng ký giao dịch có bảo đảm, quy định này nhằm đảm bảo an toàn tài sản cho thuê của các công ty CTTC tránh sang nhượng mua bán khi chưa được sự đồng ý của bên cho thuê.
Sau khi NĐ 16/2001/NĐ-CP đi vào thực tế hoạt động tín dụng thuê mua đã sôi động hơn rất nhiều. Thực tế cho thấy, nghiệp vụ cho thuê tài chính đã góp phần giảm bớt những khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam về nguồn vốn đầu tư dài hạn vào máy móc thiết bị, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ hiện đại. CTTC tỏ ra rất thích hợp đối với các doanh nghiệp trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây chuyền sản xuất.
Tuy vậy, hoạt động CTTC hiện nay vẫn chưa phát triển ngang tầm với ưu thế vốn có của nó, còn nhiều bất cập trong cơ chế chính sách và điều hành thực tiễn, những bế tắc trong thị trường đầu ra.
Hiện nay cả nước có 9 công ty CTTC trong đó có 5 công ty CTTC nhà nước, 3 công ty liên doanh, và 1 công ty 100 % vốn nước ngoài với tổng giá trị tài sản lên đến hàng nghìn tỷ đồng, chiếm 62 % so với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 0,5 % so với các ngân hàng thương mại. Như vậy tỷ trọng của khối cho thuê tải chính trong hệ thống tài chính tín dụng hiện nay về mặt số lượng và giá trị tài sản có còn đang ở mức rất khiêm tốn .
Xét về nguồn vốn của các công ty cho thuê tài chính năm 2001 thì vốn tự có của chính công ty là 823,4 tỷ đồng chiếm 79 % so với tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 3,5 % so với các ngân hàng thương mại. Còn việc huy động vốn đang ở mức thấp, hầu hết các công ty CTTC mới hoạt động bằng nguồn vốn điều lệ .Về tình hình sử dụng vốn, tổng dư nợ CTTC đạt gần 581 tỷ chiếm 89% so với tổng dư nợ trung và dài hạn của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 2,2% so với các ngân hàng thương mại.
Nhìn chung hầu hết các công ty CTTC đều đã có lợi nhuận trước thuế. Tuy nhiên nếu tính cả thuế vốn thì một số công ty CTTC của các NHTM còn lỗ. Còn đối các công ty CTTC có vốn đầu tư nước ngoài thì trong những năm đầu hầu hết là bị lỗ.
Nguyên nhân nào làm cho hoạt động CTTC lỗ và hầu hết các công ty CTTC chỉ mới sử dụng đến vốn điều lệ của mình, chiếm thị phần rất nhỏ (0,2%) và dư nợ cho thuê cũng rất khiêm tốn trong hoạt động tín dụng của cả nước (0,9%). Nguyên nhân chủ yếu sau đã cản trở sự phát triển hình thức huy động vốn này:
- Mặc dù đã ra đời gần 6 năm nhưng loại hình dịch vụ này còn rất mới mẻ đối với các DNVN do vậy sự hiểu biết vè nghiệp vụ này của các doanh nghiệp ,thậm chí của các công ty CTTC còn rất mơ hồ. Điều này làm giảm “ cầu “ về hoạt động CTTC .
Phí thuê còn quá cao, cao hơn lãi xuất đi vay khoảng 20% vì các công ty CTTC phải chịu thuế trước bạ và thuế giá trị gia tăng cao. Ngoài ra còn chi phí bảo hiểm, quảng cáo, thẩm định dự án ... đã làm tăng phí thu. Tất cả điều đó đã gây nên những bất lợi khiến cho các công ty CTTC không hấp dẫn người thuê.
- Chi phí cho việc mua máy móc thiết bị cao vì hầu hết là hàng nhập khẩu .
- Các công ty CTTC xem trọng lịch sử người thuê hơn là xem xét phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có khả thi không. Ngoài ra thủ tục cho thuê của các công ty CTTC quá chặt chẽ, phức tạp, chưa có nhiều hình thức thích ứng với điều kiện hiện tại của các DNVN như bán và cho thuê lại, bảo lãnh đối với khách hàng trong các giao dịch cho thuê tài chính. Bên cạnh đó vốn điều lệ của các công ty CTTC quá thấp (5 công ty CTTC trực thuộc NHTMQD chỉ có vốn điều lệ khoảng 60 tỷ đồng) không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư dây chuyền công nghệ lớn.
- Để phát triển được hình thức tạo vốn này cần có các giải pháp thiết thực từ cả hai phía nhà nước và doanh nghiệp:
+ Về phía nhà nước: Cần có các chính sách thuế phù hợp đối với các công ty CTTC cũng như các doanh nghiệp đi thuê. Tại một số nước có hoạt đông này phát triển, bên thuê được phép tính toàn bộ số tiền thuê phải trả vào chi phí kinh doanh của mình nên thuế thu nhập doanh nghiệp giảm đánh kể, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư. Nên chăng VN có chính sách tương tự trong một số ngành ưu tiên đầu tư trước như máy móc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, máy móc sản xuất cong nghệ chế biến thực phẩm, hay các máy móc thiết bị xử lý môi trường...
Khi cân nhắc một giao dịch CTTC, một trong những điểm quan trọng mà các bên tham gia CTTC muốn biết là giá trị còn lại của tài sản cho thuê và khả năng bán lại nó trên thị trường. Đối với một số máy móc thiết bị công nghiệp, các loại phương tiện giao thông vận tải,thị trường máy móc cũ tương đối phổ biến.Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa co một cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền, có uy tín nào cung cấp các dịch vụ giám định, định giá giá trị máy móc một cách chuyên nghiệp. Việc định giá chỉ thực hiện theo cảm tính, dễ nảy sinh nhiều vấn đề tranh chấp do thiếu tính khách quan, khoa học trong định giá. Vì vậy nhà nước nên thành lập cơ quan giám định ,xác định giá trị máy móc, thiết bị mới và cũ.
+ Về phía doanh nghiệp : phải nhận thức được rằng hình thức này hết sức hữu hiệu để đầu tư thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay việc đi thuê chưa hoàn toàn thuận lợi. Vì vậy phải tính toán kỹ lợi ích, chi phí của việc đi vay để mua máy móc thiết bị hay đi thuê.
Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty trên thị trường chứng khoán
Một phương thức tạo vốn hết sức nhạy bén và hiệu quả của doanh nghiệp là thông qua TTCK . Nếu trước đây, việc tìm ra nguồn vốn tài trợ cho hoạt động SXKD của DN chủ yếu dựa vào ngân hàng hay tổ chức tín dụng khác, thì nay qua TTCK các DN huy động vốn trung và dài hạn từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước bằng cách phát hành cổ phiếu,trái phiếu công ty và bán ra công chúng.
Cổ phiếu là một loại chứng khoán ( giấy tờ có giá ) được phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở huữ và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ đông. Thu nhập của cổ phiếu đem lại cho cổ đông thường không cố định, nó phụ thuộc vào tình hình SXKD (lãi, lỗ ) của DN.
Cũng như cổ phiếu, trái phiếu công ty cũng là một loại chứng khoán được phát hành để vay vốn dài hạn nhưng xác định nghĩa vụ trả nợ (bao gồm cả vốn và lãi) của công ty cổ phần đối với người sở hữu trái phiếu. Thực chất trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ, con nợ giữa người phát hành và người đầu tư. Trái chủ là chủ nợ của người đầu tư. Trên cương vị là chủ nợ,trái chủ có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành.
Thực chất, thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường CK, việc huy động vốn được tiến hành trực tiếp với những người có ý định đầu tư bằng cách tạo ra hangf loạt các lựa chọn khác nhau.
20/07/2000 TTCK tập trung chính thức của Việt Nam ra đời tại TPHCM đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam , mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn mới đầy hiệu quả đối với các DN. Nhưng việc đưa vào vận hành TTCK vừa tạo ra cơ hội, đồng thời cũng là thách thức lớn đối với các DN, các nhà đầu tư , đòi hỏi các chủ thể tham gia phải tư minh đổi mới,phát triển phù hợp với thể chế phức tạp và vô cùng hiện đại này.
Để có thể tạo vốn thông qua TTCK, DN phải thỏa mãn các điều kiện sau:
- Thứ nhất: Công ty cổ phần là chủ thể duy nhất được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Các loại hình doanh nghiệp khác bao gồm DNNN, công ty trách nhiệm hữu hạn ...chỉ được huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu.
- Thứ hai : Bất cứ một loại CK nào muốn giao dịch trên sở GDCK đều phải đáp ứng tiêu chuẩn đặt ra và phải được sự phê chuẩn của hội đồng quản trị sở GDCK như: có sổ sách rõ ràng, đạt quy mô tối thiểu về vốn 10 tỷ đồng, hoạt động có lãi trong hai năm gần nhất, 20% vốn cổ phần dược bán cho trên 100 nhà đầu tư bên ngoài DN, cổ đông sáng lập phải nắm giữ 20% vốn cổ phần trong thời gian tối thiểu 3 năm.
- Thứ ba: Sau khi CK được chấp nhận niêm yết công ty có nhiệm vụ thường xuyên cung cấp thông tin một cách công khai, nhanh chóng chính xác về tình hình tài chính của mình.
- Thứ tư: hàng năm công ty phải nộp một chi phí niêm yết.
Căn cứ theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán (văn bản pháp lý cao nhất hiện nay), TTGDCK thành phố HCM chỉ tổ chức và quản lý giao dịch các loại cổ phiếu phát hành ra công chúng có đủ tiêu chuẩn và ddược cấp giấy phép niêm yết trên Trung tâm. Để được cấp giấy phép niêm yết, cổ phiếu của công ty phải đủ tiêu chuẩn niêm yết, công ty phải lập hồ sơ theo đúng qui trình mà Thông tư 02/2001/TT-UBCK ngày 28/9/2001 hướng dẫn phát hành cổ phiếu trái phiếu ra công chúng quy định : Bước 1 Tổ chức họp Hộị đồng quản trị để đánh giá tình hình của công ty theo các điều kiện phát hành ra công chúng. Bước 2 Tổ chức họp đại hội đồng cổ đông . Bước 3 Chuẩn bị cho việc phát hành ra công chúng /đăng ký lại để niêm yết .Bước 4 Nộp hồ sơ xin phép phát hành ra công chúng/đăng ký lại để niêm yết. Bước 5 Phân phối chứng khoán (chỉ áp dụng cho trường hợp phát hành ra công chúng để niêm yết). Bước 6 Đăng ký niêm yết với Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Qua các điều kiện trên cho thấy, không phải công ty nào cũng có đủ tiêu chuẩn để được niêm yết trên SGDCK . Chỉ riêng yêu cầu về lượng vốn tối thiểu đã là rất khó khăn đối với hầu hết các DNVN (90% DNVN là các DNV&N). Tính đến ngày 31/12/2001 Việt Nam có hơn 720 DNNN đã thực hiện cổ phàn hoá và khoảng hơn 1000 CTCP thành lập công ty và luật doanh nghiệp . Trong số đó , chỉ có gần 120 công ty có đủ tiêu chuẩn niêm yết xét về mặt quy mô vốn ( khoảng 100 DNNN được cổ phần hoá và 20 công ty cổ phần thành lập mới). Trong số 120 công ty kể trên chỉ có hơn 40 công ty đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn niêm yết và chỉ có 12 công ty niêm yết cổ phiếu trên TTCK với tổng số vốn diều lệ khoảng 500 tỷ. Phải chăng tiêu chuẩn niêm yết trên TTGDCK là quá cao so với thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam ? Nhưng nếu hạ thấp tiêu chuẩn niêm yết đương nhiên sẽ phải chấp nhận một thị trường cổ phiếu có chất lượng vừa phải đi kèm với tính rủi ro cao hơn, khả năng bảo vệ lợi ích của người đầu tư thấp hơn và rất khó để có thể duy trì tính hiệu quả và ổn định của thị trường. Giải pháp nào để cho các DNV&N có thể huy động vốn thông qua TTCK? Thực tế, trong gần 2 năm qua, hoạt động giao dịch ngoài TTGDCK đối với các loại cổ phiếu của các công ty CP chưa niêm yết đã diễn ra khá sôi động vì ngoài những CTCP đã có CK niêm yết trên TTCK tập trung, rất nhiều công ty với những quy mô khác nhau luôn có nhu cầu huy động vốn hoặc là đa dạng hoá nguồn vốn thông qua phát hành CK ra công chúng. Mặt khác,mặc dù CK của các công ty này chưa được niêm yết chính thức trên TTGDCK tập trung nhưng những chủ sở hữu các cổ phiếu này vẫn cố trao đổi mua bán cổ phiếu tuỳ theo mục đích kinh tế riêng của họ. Hoạt động trao đổi tự do này dã tạo cơ hội cho mọi DN có thể thu hút được vốn từ những nguồn nhanf rỗi trong dân cư, mặt khác quan trọng hơn là tạo khả năng lưu thông các cổ phiếu làm linh hoạt các luồng vốn.Tuy nhiên nó bộc lộ những rủi ro cao xuất phát từ tình trạng thiếu thông tin trong giao dịch, dễ xảy ra ép giá, lừa gạt,...Vì vậy nhất thiết phải thành lập một thị trường cho các loại cổ phiếu này(thị trường phi tập trung OTC) bằng các văn bản pháp luật cụ thể.
Cho đến nay văn bản pháp luật cao nhất là NĐ48/ 1998ND-CP của chính phủ, sau một thời gian đi vào hoạt động nghị định này đã bộc lộ những hạn chế thiếu sót cần được tu sưả. Hiện nay luật doanh nghiệp không quy định về việc phát hành các cổ phiếu ra công chúng mà do các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán điều chỉnh nhưng tại nghị định 48 chỉ quy định phát hành ra công chúng tại TTGDCK hoặc sở GDCK, do vậy việc phát hành khác thì không biét điều chỉnh theo văn bản pháp lý nào ? Một hiện tượng nữa là còn thiếu bình đẳng về thuế trong đầu tư chứng khoán. Thi trường đang tồn tại nghịch lý: Khi các cá nhân đầu tư vào chứng khoán được hưởng ưu đãi miễn thuế thu nhập thì nhà đầu tư chứng khoán là tổ chức lại phải chịu gánh nặng về thuế thu nhập, lên tới 32%, đối với phần lợi nhuận thu từ lãi cổ tức, lãi trái phiếu, chênh lệch mua bán chứng khoán...do đó làm giảm khả năng cung ứng vốn cho các doanh nghiệp .v.v.
Thị trường mới ra đời cho nên cung pháp lý chưa thể đầy đủ, đồng bộ và thống nhất nên chưa tạo điều kiện cho việc thu hút vốn của các công ty tham gia niêm yết tuy nhiên qua gần 2 năm đi vào hoạt động thị trường đã có những thành tựu bước đầu: Lượng chứng khoán giao dịch đạt 1090 tỷ VND (Năm 2001 là 997 tỷ) chiếm khoảng 0,7%GDP.Phiên có giá trị cao nhất đạt 30,45 tỷ với 424300 cổ phiếu được khớp lệnh vào ngày 11/6/2001. Qua TTGDCK các công ty tham gia niêm yết đã thu hút được lượng vốn lớn, đảm bảo quá trình SXKD tăng trưởng liên tục,tạo điều kiện để các công ty đầu tư công nghệ phát triển sản xuất như HAP, REE,...Tuy nhiên thị trường trái phiếu công ty vẫn đang ở tình trạng “đông cứng”. Tính đến ngày 29/3/2001 số lượng trái phiếu được giao dịch trên thị trường chiếm tỷ lệ rất thấp so với tổng số giao dịch. Diều này do nhiều nguyên nhân chủ yếu do lãi suất trái phiếu quá thấp, tính thanh khoản kém...
Để phát triển khả năng huy động vốn cho các DNVN thông qua TTCK cần phối hợp thực hiện các biện pháp sau:
- Hoàn thiện môi trường pháp lý:
+ Nghị định 48/1998-CP sau một thời gian hoạt động đã có những vấn đề phát sinh không phù hợp với thực tiễn ví dụ như : các tiêu chuẩn về phát hành, niêm yết trên thị trường chứng khoán còn chưa được phân điịnh rỏ ràng, nguyên tắc và cơ chế giao dịch chưa thể hiện rõ, một số chính sách về tài chính và hạch toán kế toán đối với công ty cổ phần chưa đồng bộ
Xuất phát từ những yêu cầu đó đòi hỏi phải nghiên cứu , sửa chữa, bổ xung nghị điịnh này cho phù hợp với các luật khác cũng như nghiên cứu các văn bản pháp lụât khác như : QĐ139/TTG, 145/1999/QĐ-TTG... đẻ làm căn cứ cho việc xây dựng các văn bản pháp quy cao hơn như pháp lệnh hoặc luật chứng kháon nhằm tạo ra môi trường, khung pháp lý tốt, an toàn cho những nhười niêm yết.
+ Cần có những chính sách ưu đãi về thếu đối với các công ty cổ phần cũng như các doanh nghiệp khi tham gia niêm yết cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường như: tăng thời hạn thuế thu hnập 50%sau 3-5 năm niêm ết điieù này sẽ khiến các công ty tham gia ít lo nhại hơn cũng như khuyến khích họ manhj dạn trong việc thu hút vốn đầu tư. Đồng thời cũng cần có các biện pháp giảm chi phí phát hành, phí lưu ký, phí niêm yétt ... đối với các công ty niêm yết trên thị trường. Cho phép các nhà đầu tư mua trái phi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 69.doc