MỤC LỤC
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ SẢN PHẨM 2
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH WAFER: 2
II. GIỚI THIỆU SẢN PHẨM: 4
PHẦN II: TỔNG QUAN VỀ NGUYÊN LIỆU 6
I. Bột mì 6
II. Đường 7
III. Sữa 8
IV. Nước 9
V. Chất béo 9
VI. Phụ gia: 10
PHẦN III: QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ BÁNH XỐP DẠNG TẤM 11
PHẦN IV: THUYẾT MINH QUY TRÌNH 12
I. Phối trộn: 15
II. Tráng khuôn: 17
III. Nướng bánh 17
IV. Làm nguội: 20
V. Phết cream, tạo lớp bánh 20
VI. Cắt định hình bánh: Sau khi ép cream xong đưa vô máy cắt đề cưa bánh tạo hình cho bánh. 21
VII. Bao gói 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1930 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Wafer biscuit, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ SẢN PHẨM
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH WAFER:
Wafer xuất hiện cách đây từ rất lâu, cuối thời kỳ Trung cổ và đầu thời kỳ Phục hưng.
Hình 1: Wafer thời kỳ đầu thế kỷ 17 với các loại khung nướng sắt.
Wafer tiếp tục là món tráng miệng quan trọng trong các thế kỷ sau đó. Năm 1766, món tráng miệng Pháp bao gồm cả wafer dạng phẳng, dạng cuốn tròn và cannelons (một loại wafer ống) phủ chocolate và mứt trái cây.
Hình 2: Wafer coffee làm từ công thức trong Claremont's The Professed Cook (London: 1769).
Hình 3: Wafer có dùng khối bột nhào lên men theo công thức năm 1724.
Hình 4: Vỉ nướng wafer của người Hà Lan trên than
Hình 5: Lò nướng bánh wafer vào thế kỷ 19.
GIỚI THIỆU SẢN PHẨM:
Wafer không giống như các loại bánh biscuit khác, cả về hình dạng lẫn phương thức sản xuất. Nó là những tấm mỏng, nhẹ. Cone wafer được làm bằng cách cuộn các các tấm hình tròn, trong khi wafer dạng ống cũng là từ dải mỏng cuốn liên tục. Trong tất cả các trường hợp, chúng đều được làm từ khối bột nhão và nướng nhanh giữa hai bề mặt kim loại rất nóng.
Đa số bánh wafer đều được nướng giữa các tấm phẳng và nặng. Kích thước thông thường là 370x240mm, 470x290mm, 470x350mm hoặc 700x350mm và tạo các tấm wafer theo các kích cỡ đó. Các tấm wafer có bề mặt theo hình dạng khuôn. Cấu trúc của tấm wafer rất xốp nhẹ nên một tấm wafer có kích thước 470x290mm, dày 3mm chỉ nặng 50 – 56g.
Người ta ít khi ăn các tấm wafer riêng lẻ mà thường ghép các lớp, giữa mỗi lớp là một lớp cream. Thông thường, các nhà sản xuất hay ghép 3,4 hoặc 5 tấm wafer với 2,3 hoặc 4 lớp cream. Sau đó, chúng được cắt bằng dao hay dây kim loại, tạo hình chữ nhật rồi đóng gói hoặc áo chocolate. Phần trăm cream trong book wafer khá cao.
Dựa theo nguyên tắc trên mà có rất nhiều dạng wafer thành phẩm. Do đó, hình thành các tấm phẳng wafer là điều cần chú ý nhất.
Bánh xốp có thể được phân loại theo nhiều cách:
Theo hình dạng bánh: hình tấm, hình trụ, hình khối vuông, khối chữ nhật, tròn,.v.v..
Theo cấu trúc vỏ ngoài bánh: bánh có phủ kem (chocolate hoặc kem các loại), bánh không phủ kem.
Theo nhân bánh: nhân kem, nhân chocolate, nhân trái cây…
PHẦN II: TỔNG QUAN VỀ NGUYÊN LIỆU
Bột mì
Bột mì là thành phần chủ yếu trong vỏ bánh xốp. Bột mì được làm từ hạt lúa mì bằng cách loại bỏ lớp vỏ ngoài và phôi, sau đó nghiền tinh thu được bột có màu trắng. Nếu bột mì làm từ lớp alơrong thì sẽ có màu trắng ngà, giàu dinh dưỡng, nhưng lại khó bảo quản.
Có hai loại bột mì là bột mì trắng làm từ hạt lúa mì trắng và bột mì đen làm từ hạt lúa mì đen, hiện nay nước ta chỉ nhập loại bột mì trắng.
Bảng 1: Chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng bột mì (TCVN 4359:1996)
Chỉ tiêu
Vật lý
Kích thước (qua rây 125mm)
>95%
Hoá học
Độ ẩm
Độ acid (oT)
Gluten ướt
Gluten khô
Tạp chất Fe (mg/100g bột)
10.5 – 14.5%
<3.5
24 – 30%
8 – 10%
<3
Hoá lý
Khả năng hút nước
63 – 65%
Cảm quan
Màu
Mùi vị
Tạp chất
Sâu bọ, mốc
Trắng hoặc trắng ngà
Không có mùi mốc, chua, đắng, vị lạ
Không nhiễm đất cát, không bị vón cục
Không có
Phương pháp đánh giá chất lượng bột mì: theo TCVN 18957–76 hoặc TCVN 1874:1995.
Độ ẩm: phương pháp sấy
Độ mịn: sàng trên rây điện vận tốc 180 – 200 vòng/phút với kích thước rây d = 125mm
Màu sắc, mùi vị: phương pháp cảm quan.
Độ nhiễm côn trùng: sàng trên rây và quan sát.
Tạp chất sắt: dùng nam châm
Khối lượng và chất lượng gluten ướt: cân và kiểm tra màu, độ căng, độ đàn hồi.
Độ chua: phương pháp trung hoà
Hàm lượng tro: vô cơ hoá mẫu
Đường
Đường, syrup tạo vị ngọt cho sản phẩm. Đường kết hợp với acid amin tạo phản ứng Maillard, tạo màu đặc trưng cho bánh.
Đường trong sản xuất bánh xốp thường sử dụng đường Saccharose (RE, RS1), đường trong sản xuất chia làm hai loại, hạng A và hạng B. Trong sản xuất thường có yêu cầu vệ sinh của đường theo TCVN 7270:2003.
Bảng 2: tiêu chuẩn kỹ thuật theo TCVN 6959:2001
Chỉ tiêu
Hạng A
Hạng B
Cảm quan
Trạng thái
Mùi, vị
Tinh thể màu trắng, kích thước tương đối đồng đều, khô, không bị vón cục.
Tinh thể đường hoặc dung dịch đường có vị ngọt, không có mùi vị lạ.
Màu sắc
Tinh thể màu trắng, pha trong nước cất cho dung dịch trong suốt.
Tinh thể màu trắng ngà đến trắng, pha trong nước cất cho dung dịch tương đối trong.
Hóa học
Độ Pol (oZ)
Hàm lượng đường khử, %
Tro dẫn điện, %
Tạp chất không tan trong nước (mg/kg)
>99.7
<0.1
<0.07
<60
>99.5
<0.15
<0.1
<90
Bao bì
Bao bì propylen (PP), đóng gói kín.
Sữa
Trong công nghệ bánh xốp sữa thường dùng dưới dạng sữa bột [TCVN 5538:2002]
Bảng 3: chỉ tiêu chất lượng sữa bột theo TCVN 5538:2002
Chỉ tiêu
Sữa bột béo
Sữa bột gầy
Hóa học
Độ ẩm (%)
Độ chua (oT)
Hàm lượng chất béo (%)
Hàm lượng đạm (%)
≤5
≤20
26 – 42
34
≤5
≤20
≤1.5
34
Hóa lý
Chỉ số không hoà tan
≤1ml (50oC)
≤1ml (50oC)
Cảm quan
Độ mịn
Màu sắc
Mùi
Vị
Tạp chất
Hạt đồng nhất, không quá to.
Vàng
Mùi thơm đặc trưng, không có mùi chua hay mùi lạ.
Vị béo rõ, có vị ngọt.
Không có
Hạt mịn, kết dính tốt.
Vàng nhạt
Mùi thơm đặc trưng
Vị ít béo, không có vị chua hay lạ.
Không có
Vi sinh
Tổng số VSV hiếu khí, CFU/g sản phẩm.
Nhóm Colifom, vk/g sản phẩm
E.coli, VK/g sản phẩm
Salmonella, VK/g sản phẩm
Nấm men, nấm mốc, VK/g sản phẩm
5.104
10
0
0
10
Nước
Nước dùng trong khâu chuẩn bị và trộn bột. Nước là nguyên liệu, là xúc tác, gây thay đổi thành phần nguyên liệu, đảm bảo cấu trúc cho sản phẩm khi nướng. Nước cần đạt tiêu chuẩn nước tiêu dùng. Nước chủ yếu kiểm tra vi sinh vật, độ cứng, cảm quan về màu sắc, độ đục, mùi vị, hàm lượng chất hữu cơ hoà tan và kim loại nặng. Có thể xử lý nước bằng phương pháp lọc, lắng trong, làm mềm nước bằng nhiệt hay hoá chất, khử sắt trong nước và khử mùi nước.
Chất béo
Shortening, bơ, bột phô mai đều có thể sử dụng trong sản xuất bánh xốp để tăng thêm chất lượng cảm quan. Hầu như rất ít sử dụng hoặc không có, nếu có chỉ dùng để phết lên khuôn (không có trong vỏ bánh)
Bảng 4: Chỉ tiêu chất lượng của Shortening và bơ
Chỉ tiêu
Shortening
[TCVN 6048:1995]
Bơ
[TCVN 7400:2004]
Cảm quan
Màu sắc
Mùi vị
Trạng thái
Tạp chất
Màu trắng, trắng ngà
Không có vị lạ
Dạng paste, mịn
Không có tạp chất lạ
Vàng đặc trưng
Mùi vị đặc trưng
Mềm, đồng nhất
Không có tạp chất
Hoá học
Độ ẩm, %
Hàm lượng lipid, %
Chỉ số AV
Chỉ số PV
Hàm lượng chất khô không béo, %
<0.1
>96
<0.3
<5
< 16
>80
<0.3
<2
Vi sinh
Số vi khuẩn hiếu khí
Coliform
Max104 CFU/g
Max10 VK/g s.phẩm
Max104 CFU/g
Max10 VK/g s.phẩm
Phụ gia:
Chất tạo màu, tạo mùi, thuốc nở: chủ yếu kiểm tra cảm quan, độ tinh khiết, sử dụng theo sự cho phép của Bộ y tế.
Phụ gia tạo nở: Natri bicarbonat hoặc amoni cacbonat (có thể không cần sử dụng vì nườc bốc hơi nhanh sẽ giúp nở bánh)
Hương liệu: vanillin, tinh dầu…
Chất tạo nhũ: monoglycerid, lecithin, trứng
Chất bảo quản: vitamin C, BHA, BHT
Chất tạo màu: sunset yellow, tartrazine.
PHẦN III: QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ BÁNH XỐP DẠNG TẤM
Hình 5: Quy trình sản xuất bánh xốp dạng tấm
PHẦN IV: THUYẾT MINH QUY TRÌNH
Thành phần khối bột nhào đề nghị:
Đặc điểm khối bột:
Trộn tạo bột lỏng, độ ẩm lên tới 35%
Muốn cho thêm chất béo: hầu như rất ít hoặc không có, nếu có chỉ dùng để phết lên khuôn
Không cần cho bột nở vì nước bốc hơi quá nhanh sẽ lam nở bánh
Nước và bột mì là thành phần chính của bột nhào wafer, ngoài ra còn có các nguyên liệu khác. Carey (Processing of wafer biscuits) cho rằng bánh xốp thương mại có phối hợp một số thành phần nhưng không phải tất cả trong các công thức bột nhào wafer. Đối với một số người muốn làm bánh wafer căn bản, Carey cũng cung cấp công thức ban đầu như bảng sau:
Bảng 5: Công thức bột nhào wafer
Thành phần
Tỉ lệ
Công thức cơ bản
Công thức tham khảo
Bột mì
100
100
Chất béo
2.25
0.8 – 3.4
Lecithine (bột)
0.95
0.75 – 1
Lecithine (lỏng)
0.05 – 0.6
Bột trứng
≤ 1
Trứng tươi
0.75 – 4
Đường
1.05 – 3.5
Muối
0.25
0.16 – 0.25
Soda
0.32
0.3 – 0.6
Amm.bic
0.75 – 1
Bột đậu nành
1.4 – 3
Nước
137
128 - 147
Nấm men (lên men 1h)
0.35 – 0.63
Lượng nước hấp thu trong bột ảnh hưởng trực tiếp đến lượng nước cần thiết thêm vào để có độ đặc quánh thích hợp. Tốt nhất là sử dụng bột mì có độ mạnh từ yếu đến trung bình.
Wafer có vị nhạt do đó chất lượng dầu hoặc chất béo sử dụng nên tốt về mặt mùi vị và không bị ôi. Một vài người cho rằng thêm một lượng nhỏ bột ca cao hoặc đường giúp ổn định mùi vị wafer và kéo dài thời gian bảo quản.
Sử dụng bột sữa hoặc đường khử sẽ tạo màu nâu cho tấm bánh, do đó nên tránh dùng nếu yêu cầu tấm wafer có độ trắng nhất định. Có thể thêm chất tạo màu để tấm bánh có màu như ý.Magie carbonate thỉnh thoảng được thêm vào để tấm wafer dễ lấy ra khỏi khuôn. Cơ chế chưa được hiểu rõ.
Các thành phần trên có thể được so sánh với một vài công thức thương mại ở bên dưới:
Bảng 6: Các thành phần công thức thương mại của bánh xốp
Thành phần làm cream:
Cream chiếm lượng rất lớn trong bánh wafer thành phẩm: đối với bánh thành phẩm có 4 lớp bánh 3 lớp cream thì lương cream chiếm 70% khối lượng toàn bánh.
Kem cho wafer thì có công thức tương tự như bánh biscuit ngoại trừ nó bao gốm một lượng đáng kể “nguyên liệu tái chế”(vụn bánh).
Khi kem được quét lên mặt bánh, các mảnh vụn này sẽ trộn lẫn với kem và tạo ra hương vị cho bánh. Thành phần này có thể chiếm đến 25% lượng kem.
Cream phết bề mặt có thể chọn tùy theo sở thích và điều kiện sản xuất. Ví dụ:
Bảng 7: Công thức phối trộn cho từng loại bánh xốp
Công thức kem
Wafer socola
Wafer dừa
Wafer cam
Wafer vanila
Wafer cà phê
Béo
28,04
30
30
28,57
31,58
Đường
42,05
45
45
42,86
47,37
SMP
3,27
4,76
Chất tạo hương*
0,1
0,1
0,1
0,1
0,1
Acid citric*
0,1
0,1
0,1
0,1
Bột côca
3,27
Chất màu*
0,1
0,1
0,1
Vụn wafer
23,37
25
25
23,81
21,05
Khối lượng tổng
100
100
100
100
100
Lượng béo tổng
33,41
35,4
35,4
33,72
36,13
* Những nguyên liệu này mang tính ước lượng.
Phối trộn:
Mục đích: Khuấy trộn tạo điều kiện để đạt hàm lượng chất khô tối ưu và độ đặc quánh của khối bột để có chất lượng tấm wafer như ý. Không khí có thể lẫn vào khối bột và nó sẽ từ từ đi ra khi quá trình phối trộn ngừng lại. Điều này gây khó khăn trong việc xác định độ đặc quánh và độ nhớt của khối bột, cũng như việc xác định lượng nước cần thiết.
Cách tiến hành:
Đối với bánh wafer, trong quá trình phối trộn, người ta khuấy khối bột với tốc độ cao. Lý do: phân tán các thành phân vào nước, ngăn cản việc hình thành khung gluten. Nếu khung gluten hình thành, nó sẽ làm nghẹt lưới lọc và van tại thời điểm rót vào khuôn. Có thể ngăn cản hình thành mạng gluten nếu sử dụng nước lạnh và bột không bị hút ẩm trước khi quá trình khuấy trộn bắt đầu.
Sau khi khuấy trộn, khối bột được lọc qua lưới để loại bỏ thành phần không tan hoặc vón cục và các mạng gluten đã hình thành. Từ bồn này, khối bột sẽ được bơm vào một bồn chứa nhỏ gần lò nướng hoặc bơm thẳng vào lò nướng và trở về bồn chứa. Độ đặc quánh sẽ giảm theo thời gian nên thời gian ủ không nên quá lâu. Hiện tượng đóng cặn cũng xảy ra, do đó bồn chứa luôn được khuấy liên tục một cách nhẹ nhàng.
Bản chất của quá trình trộn:
Trộn lẫn nhiều thành phần khác nhau để tạo một khối đồng nhất.
Phân tán rắn trong lỏng hoặc lỏng trong lỏng.
Sự hoà tan rắn vào lỏng
Thiết lập chế độ nhiệt độ cho hỗn hợp.
Thông khí khối bột để giảm tỉ trọng.
Trộn bột nhào nhão trong thiết bị thẳng đứng, cho nhiều nước và bơm đi bằng ống bơm.
Các biến đổi của nguyên liệu diễn ra trong quá trình trộn:
Quá trình trộn bột là một quá trình cơ lý, do vậy biến đổi về vật lý sẽ là chủ yếu, ngoài ra còn có những biến đổi về hoá học, hoá sinh, hoá lý, cảm quan.
Biến đổi vật lý
Biến đổi về hình thức: từ một hỗn hợp các vật liệu rời ban đầu tạo thành một khối đồng nhất không tách rời, dẻo, đàn hồi.
Sự giảm về thể tích do các nguyên liệu liên kết chặt chẽ với nhau, giảm khối lượng riêng, sự tăng nhiệt độ do ma sát trong quá trình trộn bột.
Sự thẩm thấu các chất tạo màu, hương, vị vào khối bột.
Trong khối bột nhào có pha khí do tích luỹ bọt không khí trong quá trình nhào.
Biến đổi hoá lý
Sự hoà tan của nguyên liệu đường.
Sự trương nở của hạt tinh bột lúa mì do hút nước.
Các thành phần rời rạc liên kết với nhau tạo khối đồng nhất, khối lượng riêng tăng, độ nhớt tăng.
Biến đổi hoá sinh:
Dưới tác dụng của hệ enzim amylase, protease, lipase sẽ thuỷ phân tinh bột, protein, lipid tạo thành các phần tử đơn giản hơn.
Biến đổi cảm quan:
Thay đổi trạng thái nguyên liệu từ rời rạc thành khối dẻo dai, thay đổi mùi vị do bổ sung các nguyên liệu tạo mùi vị, thay đổi màu sắc.
Hình 6: Thiết bị trộn
Tráng khuôn:
Mục đích: Tạo hình cho tấm bột trên khuôn nướng
Thiết bị: Kích thước thông thường 370x240mm, 470x290mm, 470x350mm, 700x350mm
Hình7: Một số bề mặt khuôn nướng
Cách thực hiện: phun bột thành từng dây lên bề mặt dưới của khuôn nướng, bề mặt trên ép lại tạo thành tấm.
Nướng bánh
Mục đích công nghệ:
Nướng bánh là giai đoạn phức tạp và cũng là khâu quan trọng nhất của kỹ thuật sản xuất bánh. Nướng bánh có mục đích chế biến, giúp làm chín bánh, giúp bánh có màu sắc đẹp, Ngoài ra khi nướng bánh, độ ẩm của bánh giảm xuống thuận lợi cho quá trình bảo quản. Do đó nướng bánh cũng có mục đích bảo quản.
Nướng bánh trong sản xuất bánh xốp còn có mục đích tạo hình sản phẩm (vì khung gluten hình thành ngay trong quá trìng nướng), sau khi nướng bằng thiết bị nướng đặc biệt bột bánh sẽ trở thành những tấm mỏng để sẵn sàng giai đoạn phết cream.
Đưa vào lò nướng : nướng trực tiếp
Qúa trình nướng gồm hai giai đoạn: làm chín bánh và sấy khô bánh
Các biến đổi của nguyên liệu:
Vật lý:
Nhiệt độ: Nhiệt độ bánh thay đổi không ngừng trong quá trình nướng. Nhiệt độ ở bề mặt bánh tăng dần, sau đó giảm đi và đến cuối giai đoạn nướng nhiệt độ bánh đạt 105oC.
Độ ẩm: Song song với sự thay đổi nhiệt độ trong quá trình nướng còn xảy ra sự thay đổi độ ẩm.
Thể tích: Có sự thay đổi thể tích là do tác dụng của các khí được tạo ra khi phân huỷ thuốc nở ở nhiệt độ nướng. Khi nhiệt độ bánh tăng thì áp suất và thể tích của các khí tăng lên, dẫn đến kích thước các lỗ hỗng trong bánh tăng và làm cho thể tích bánh tăng.
Hoá học:
Giai đoạn làm chín bánh: nhiệt cần phải đi vào bánh để quá trình chín xảy ra, không nên cho quạt hoạt động
Protein: biến tính ở 60-70oC(nhả nước, tái tạo cấu trúc tạo ra mạng khung của bánh)
Glucid (tinh bột): chín khi nó bắt đầu hồ hóa và đạt độ nhớt tối đa vì khi nó hút nước sẽ trương nở dẫn đến vỡ hạt và giải phóng ra phân tử tinh bột và bám vào khung gluten
Qúa trình chín kết thúc khi mức độ hồ hóa tại tâm bánh đạt mức tối đa
Giai đoạn sấy khô bánh: biến đổi chính là quá trình mất nước
Giai đoạn ngưng tụ ẩm: khi mới cho bánh vào lò, ẩm ngưng tụ trên bề mặt bánh, ẩm có khuynh hướng di chuyển từ ngoài vào trong hơn là trong ra ngoài. Qúa trình này có lợi vì tinh bột cần hấp thu nước.
Giai đoạn di chuyển ẩm: xảy ra khi bánh nóng đều
Hoá lý
Sự thoát hơi ẩm: Ở trung tâm miếng bột được làm nóng chủ yếu bằng sự dẫn nhiệt từ bề mặt, nếu bề mặt bánh được đốt nóng nhanh không những làm cho lớp giữa của bánh khó khô hơn mà còn làm cho màu bánh bị thay đổi nhanh hơn.
Nếu tiếp tục tăng nhiệt độ nướng thì màu bánh sẽ thay đổi trước khi lớp giữa của bánh được làm khô. Do đó việc nướng bánh đòi hỏi phải có những điều kiện về nhiệt độ và thời gian nướng thích hợp cho phép sự thay đổi về cấu trúc, màu sắc bề mặt, độ khô của lớp giữa bánh đạt yêu cầu. Những loại bánh dày hơn cần thời gian nướng lâu hơn ở nhiệt độ thấp hơn để đạt được độ khô thích hợp. Những loại bánh nhỏ hơn và mỏng hơn được nướng ở nhiệt độ cao hơn và thời gian ngắn hơn.
Sự mất nước của bánh có liên quan đến nhiệt độ, dòng nhiệt đi qua và độ ẩm bề mặt. Khi nhiệt độ trong lò trên 100oC, có sự chuyển pha của nước, hơi ẩm sẽ thoát ra từ bề mặt bánh.
Hoá sinh: Không đáng kể do nhiệt độ cao.
Sinh học: Không đáng kể do nhiệt độ cao.
Cảm quan:
Màu sắc: Trong suốt quá trình nướng, màu bánh sẽ chuyển dần sang màu vàng nâu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi màu này nhưng chủ yếu là do phản ứng Maillard xảy ra ở nhiệt độ khoảng 150-160oC và xảy ra nhanh hơn ở môi trường kiềm nhẹ. Ngoài ra màu bánh còn do phản ứng Caramen.
Mùi: Do hai phản ứng Maillard và Caramen cũng tạo ra mùi thơm đặc trưng cho bánh.
Phương pháp nướng bánh xốp
Nhào trộn xong phết bột nhào lên khuôn (vỉ nướng)
Lò nướng trực tiếp bằng lửa: ga (thường sử dụng), dầu,…
Nhiệt độ lò nướng : lửa xanh, nhiệt độ lò khoảng 1000oC, thời gian nướng tối đa 2 phút
Lò nướng dạng tấm được đốt nóng trước đến 200oC (phụ thuộc tính chất bột nhào mà nhiệt độ nướng có thể thay đổi trong khoảng 100-250oC).
Bột bánh được dẫn theo băng tải đi vào lò.
Nướng thông thường trong 15 giây.
Hình 8: Lò nướng
Làm nguội:
Vỏ bánh sau khi nướng được đưa qua hệ thống làm nguội: buồng, tủ làm nguội để chuẩn bị tráng cream và xếp lớp tạo hình. Trong quá trình làm nguội phải điều khiển độ ẩm không khí thấp để tránh tìng trạng hút nước trở lại làm mền bánh
Hình 9: Thiết bị làm nguội
Phết cream, tạo lớp bánh
Nhân bánh có thể được làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau tùy theo thị hiếu tiêu dùng. Cream làm nhân được trộn riêng trước ở một thiết bị riêng sau đó được phủ lên vỏ bánh. Số lớp bánh có thể nhiều hay ít tùy thuộc vào nhà sản xuất. Tối thiểu là một lớp cream và dĩ nhiên lớp cuối cùng phải là lớp vỏ bánh.
Có thể trộn cream phết lên bề mặt bánh với tì lệ: 40% chất béo, 40% đường, 20% nước
Có khay cho cream chảy xuống, ép cream và đưa vô máy cắt
Hình 10: Máy phếch cream, tạo lớp bánh
Cắt định hình bánh: Sau khi ép cream xong đưa vô máy cắt đề cưa bánh tạo hình cho bánh.
Bao gói
Tùy theo nhà sản xuất mà có thể đóng gói lớn nhỏ tùy ý. Thường dùng bao bì plastic tráng bạc hoặc bao bì bọc thiếc.
Hình 11: thiết bị bao gói
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THƯỜNG GẶP:
Lớp áo chocolate của wafer bị nứt vỡ - tại sao – giải pháp:
Lí do gây ra vấn đề này là sự hấp thụ nước bởi banh xốp và sự giãn nở của nó sau này. Cho nên phải chú ý chất lượng của việc phủ lớp áo chocolate vì những vùng không được phủ hết hay thậm chí những lỗ châm kim trong lớp áo cũng tạo ra những vị trí cho nước từ không khí vào.
Hàm ẩm của bánh wafer rất thấp tạo cho bánh có độ giòn nhất định. Độ ẩm cân bằng tương đối (ERH) của bánh xốp cũng rất thấp và thấp hơn nhiều với độ ẩm tương đối của hầu hết điều kiện không khí. Điều này nghĩa là truyền lực tự nhiên là nước từ không khí sẽ ngưng tụ lên bề mặt bánh, ở đó nó được hấp thụ và khuếch tán qua các lớp. Khi độ ẩm tăng lên, bánh sẽ bắt đầu phồng lên và gây ra áp lực lên lớp áo chocolate không đàn hồi làm nó sau đó sẽ bị nứt ra. Barron (1977) chỉ ra rằng mỗi 1% độ ẩm tăng lên, những lớp bánh sẽ bị phồng lên khoảng 0,33 đến 0,42% so với đường kính ban đầu.
Thời gian để những vết nứt trở nên rõ ràng thì khác nhau tùy thuộc tính chất của lớp áp phủ và hàm ẩm bánh ban đầu. Độ ẩm tương đối của không khí xung quanh cũng sẽ ảnh hưởng đến mức độ phồng nở của bánh: độ ẩm tương đối càng cao, chênh lệch độ ẩm càng lớn và sự dịch chuyển độ ẩm càng nhanh. Một cách để hạn chế ảnh hưởng này là đảm bảo việc bao gói sản phẩm phải chặt và vì thế có thể hạn chế tối thiểu thể tích không khí trong sản phẩm.
Vấn đề với sự hình thành gluten trong bột wafer:
Sự hình thành gluten không mong muốn trong bột làm bánh wafer vì nó có thể dẫn đến sự tắc nghẽn trong đường ống của hệ thống phân phối bột. Điều này có thể dẫn đến sự phân phối bột không đều trên băng tải và hình thành những tấm wafer không hoàn thiện.
Sự hình thành gluten phụ thuộc 3 nhân tố chính: sự có mặt của protein trong bột, sự hydrate hóa protein (do cho thêm nước vào bột) và năng lượng truyền vào suốt quá trình khuấy. Trong khối bột nhào, tỉ lệ nước với chất khô thường đủ cao để giảm độ nhớt khối bột đến mức độ mà sự hình thành gluten không thể diễn ra (Cauvain and Young, 2000). Dù vậy, khối bột nhào thường được bơm tuần hoàn qua những bể chứa để ngăn cản việc chất khô bị phân tách khi nó đứng yên và điều này có thể gây ra sự biến dạng ở một số vùng trong hệ thống ống dẫn.
Sự tuần hoàn của bột nhào là cần thiết, trong trường hợp đó đặc tính nguyên liệu hay thành phần khối bột sẽ phải được thay đổi để giảm thiểu vấn đề. Hạ thấp hàm lượng protein trong bột sử dụng là cách rõ ràng nhất để làm giảm khả năng hình thành gluten. Điều này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng bột mì nghiền mềm hơn hay yếu hơn. Cũng có thể sự dụng phân đoạn giàu tinh bột, ít protein từ bột tách bằng không khí.
Ngoài ra có thể thay thế tỉ lệ bột tiêu chuẩn với bột xử lí nhiệt. Quá trình xử lí nhiệt sẽ làm biến tính protein và hạn chế khả năng hình thành mạng gluten nhưng sẽ ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ nước, và tăng lượng nước thêm vào là cần thiết để giữ độ nhớt khối bột theo đúng tiêu chuẩn. Một cách khác để làm giảm sự hình thành gluten là thay thế một tỉ lệ bột chuẩn với tinh bột mì hay tinh bột khác phù hợp.
Hạ thấp hàm lượng protein của bột sử dụng trong khối bột nhào có thể gây ra những ảnh hưởng bất lợi lên độ bền của wafer, làm chúng yếu ớt hơn và dễ xảy ra những biến đổi vật lí hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Đức Hợi, “Kỹ thuật sản xuất bánh và kẹo – T2”, NXB ĐH Công nghiệp nhẹ, 1975.
Lê Ngọc Tú (Chủ biên), “Hoá học thực phẩm”, NXB KH&KT, 2003.
Lê Ngọc Tú (Chủ biên), “Hoá sinh công nghiệp”, NXB KH&KT, 2000.
Lê Bạch Tuyết (Chủ biên), “Các quá trình công nghệ cơ bản trong sản xuất thực phẩm”, NXB GD, 1996
Duncan J.R Manley, “ Buiscuit, cookie and cracker manufacturing manuals – Manual 1”, Woodhead Publishing Limited, England, 1998.
Duncan J.R Manley, “ Buiscuit, cookie and cracker manufacturing manuals – Manual 2”, Woodhead Publishing Limited, England, 1998.
Duncan J.R Manley, “ Buiscuit, cookie and cracker manufacturing manuals – Manual 3”, Woodhead Publishing Limited, England, 1998
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- wafer biscuit.doc