MỤC LỤC
MỤC LỤC 0
DANH MỤC BẢNG 0
DANH MỤC BIỂU ĐỒ 0
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH LỢI THẾ CẠNH TRANH VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM. 4
I. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU. 4
1. Một vài khái niệm cơ bản. 4
1.1. Cơ cấu. 4
1.2. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 4
1.3. Cơ cấu hàng xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. 6
2. Ý nghĩa của việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. 10
II. VẬN DỤNG LÝ THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ĐỂ ĐÁNH GIÁ LỢI THẾ CẠNH TRANH VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM. 12
1. Vận dụng lý thuyết về hàm lượng các yếu tố của Heckscher – Ohlin. 13
1.1. Lý thuyết H – O. 13
1.2. Vận dụng lý thuyết trên vào Việt Nam. 14
2. Vận dụng lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm – Raymond Vernon. 16
2.1. Lý thuyết vòng đời quốc tế của sản phẩm. 16
2.2. Vận dụng lý thuyết trên vào Việt Nam. 16
3. Vận dụng lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter. 18
3.1. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia. 18
3.2. Vận dụng lý thuyết trên vào Việt Nam. 19
CHƯƠNG II. LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM VÀ TÌNH HÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1996 ĐẾN NAY. 21
I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1996 ĐẾN NAY. 21
1. Bối cảnh chung nền kinh tế thế giới và Việt Nam. 21
2. Quy mô, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. 23
3. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. 24
3.1. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo SITC. 24
3.2. Cơ cấu xuất khẩu theo nhóm hàng. 27
II. PHÂN TÍCH VẬN DỤNG LỢI THẾ CẠNH TRANH VÀO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU TRONG TỪNG NHÓM HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1996 ĐẾN NAY. 29
thieu
1.1. Dầu thô. 29
1.2. Than đá. 30
2. Đối với nhóm hàng nông – lâm – thủy sản. 32
2.1. Gạo. 33
2.2. Cà phê. 33
3. Nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ. 35
3.1. Dệt may. 36
3.2. Da giày. 37
3.3. Thủ công mỹ nghệ. 37
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH LỢI THẾ CẠNH TRANH VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU GIAI ĐOẠN 1996 ĐẾN NAY. 38
1. Những thành tựu đạt được. 38
2. Tồn tại. 40
CHƯƠNG III. SỬ DỤNG LỢI THẾ CẠNH TRANH VÀ ĐỊNH HƯỚNG, GỢI Ý CHÍNH SÁCH. 44
I. XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐỊNH LƯỢNG VÀ GIẢI MÔ HÌNH. 44
1. Các yếu tố quyết định. 44
2. Các nguồn dữ liệu liên quan. 45
3. Giải mô hình và kết luận. 46
II. DỰ BÁO VỀ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM. 49
1. Định hướng phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020. 49
1.1. Đối với nền kinh tế nói chung. 49
1.2. Đối với một số nhóm mặt hàng trong cơ cấu hàng xuất khẩu. 50
3. Dự báo xu hướng tiêu dùng của thị trường thế giới. 51
3.1. Xu hướng. 51
III. VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀO TRƯỜNG HỢP CỦA VIỆT NAM. 54
1. Cơ sở vận dụng. 54
2. Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Nhật Bản, Trung Quốc và Thái Lan. 54
2.1. Nhật Bản. 54
2.2. Trung Quốc. 55
2.3. Thái Lan. 55
3. Vận dụng trong trường hợp của Việt Nam. 56
IV. NHỮNG BIỆN PHÁP VÀ CHÍNH SÁCH VẬN DỤNG HIỆU QUẢ LỢI THẾ CẠNH TRANH VÀO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM. 57
1. Nhóm giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 57
1.1. Chính sách và giải pháp thu hút vốn đầu tư. 57
1.2. Chính sách và giải pháp phát triển khoa học công nghệ. 59
2. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong điều hành chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Nhà nước. 59
3. Nhóm giải pháp phát triển nguồn nhân lực. 60
4. Nhóm giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu. 62
KẾT LUẬN 63
74 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2613 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xác định lợi thế cạnh tranh và định hướng chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất khẩu của chúng ta chủ yếu tập trung vào nhóm hàng lương thực thực phẩm (SITC 0) và nhiên liệu (SITC 3) còn các nhóm hàng khác chiếm tỷ trọng thấp hơn nhiều. Trong hai nhóm sản phẩm này thì sự chuyển dịch về cơ cấu hàng xuất khẩu cũng không thể hiện rõ ràng, thậm chí, giai đoạn 1998-2000, nhóm hàng nhiên liệu có xu hướng tăng tương đối về kim ngạch xuất khẩu.
Bảng 2.2. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo phân loại SITC
Đơn vị: %
Năm
1996
2000
2001
2002
2003
2004
Kim ngạch
100
100
100
100
100
100
Hàng sơ chế
67,2
55,7
53,3
40,1
46,6
47,4
Thực phẩm và động vật tươi sống
37,9
26,1
27,0
19,9
22,0
19,9
Đồ uống và thuốc lá
0,1
0,1
0,3
0,4
0,8
0,7
Nguyên liệu
6,8
2,6
2,7
2,5
3,1
3,1
Nhiên liệu
22,2
26,4
23,1
17,3
20,6
23,5
Dầu mỡ động, thực vật
0,3
0,5
0,2
0,1
0,1
0,1
Hàng chế biến hoặc tinh chế
32,8
44,3
46,7
59,9
53,4
52,6
Hoá chất
0,6
1,1
1,5
1,3
1,7
1,6
Các sản phẩm chế tác
6,4
6,3
6,6
5,4
6,7
7,1
Máy móc, thiết bị giao thông
1,6
8,8
9,3
6,5
8,9
9,7
Các sản phẩm chế tác khác
24,4
28,0
29,3
46,7
36,0
34,2
Các hàng hoá khác
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 345 – Tháng 2/2007.
Trong nhóm sản phẩm đã qua chế biến, tình trạng tương tự cũng diễn ra với cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tỷ trọng của các nhóm hàng công nghiệp phân loại theo nguyên liệu chủ yếu ( SITC 6) và máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải ( SITC 7) đều không cao và không có dấu hiệu chuyển dịch đáng kể trong giai đoạn nghiên cứu. Nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao nhất là sản phẩm thủ công nghiệp (SITC 8). Nhưng đây lại là nhóm mặt hàng không thể đại diện cho xu hướng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tích cực.
Nếu xem xét chỉ tiêu RCA Chỉ số RCA càng cao thì mặt hàng càng có lợi thế cạnh tranh; nếu RCA 2,5 thì mặt hàng có lợi thế cạnh tranh cao.
cho từng nhóm mặt hàng theo SITC thì chỉ có 3 trong 9 nhóm mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có lợi thế so sánh. Đó là lương thực thực phẩm (SITC 0), nhiên liệu (SITC 3) và thủ công nghiệp. Đây đều là những mặt hàng chúng ta có lợi thế về điều kiện tự nhiên và giá nhân công rẻ. Đây cũng là những nhóm mặt hàng bất cập nhất về mặt cơ cấu xuất khẩu do đều có giá trị gia tăng thấp. Thậm chí, nhóm hàng lương thực thực phẩm và nhiên liệu đang có hệ số RCA giảm dần, chỉ có nhóm hàng thủ công nghiệp có lợi thế so sánh tăng lên chút ít trong giai đoạn này.
Bảng 2.3. Hệ số RCA các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam theo SITC giai đoạn 1999-2003.
Nhóm hàng
1999
2000
2001
2002
2003
Trung bình
SITC 0
4,3
4,4
4,4
4,0
3,6
4,1
SITC 1
0,1
0,1
0,3
0,4
0,8
0,3
SITC 2
0,8
0,8
0,9
1,0
1,0
0,9
SITC 3
2,7
2,5
2,3
2,3
2,4
2,4
SITC 4
0,3
1,3
0,6
0,2
0,2
0,5
SITC 5
0,1
0,1
0,1
0,1
0,1
0,1
SITC 6
0,5
0,4
0,5
0,5
0,5
0,5
SITC 7
0,2
0,2
0,2
0,2
0,2
0,2
SITC 8
2,4
2,4
2,4
2,7
2,9
2,6
Nguồn: Tác giả tổng hợp Theo Vũ Thắng Bình, “Cơ cấu và lợi thế so sánh của hàng xuất khẩu Việt Nam”, Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại Việt Nam 20 năm đổi mới”.
.
Đối với các nhóm hàng công nghiệp (SITC 6 và SITC 7), Việt Nam đều không có lợi thế so sánh. Điều này cho thấy những khó khăn của Việt Nam trong việc cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng bền vững nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh việc chuyển cơ cấu mặt hàng như đã phân tích ở trên, giai đoạn 1996-2008, chúng ta cũng đã xây đựng được một số mặt hàng chủ lực. Nếu như năm 1996, Việt Nam mới có 9 mặt hàng có kim ngạch trên 100 triệu USD (Trong đó chỉ có dầu thô và dệt may có kim ngạch trên 1 tỷ USD) thì đến năm 2005, số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD là 17 hàng, trong đó 7 mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD. Trong số những mặt hàng này, có một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng khá nhanh như điện tử, sản phẩm gỗ, … Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực nay đã đóng vai trò quyết định đến tốc độ tăng trưởng mạnh của kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của những mặt hàng này cũng thể hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu nước ta. Từ chỗ chỉ bao gồm những mặt hàng nhiên liệu (dầu thô), nông sản (gạo, thuỷ sản…) đến nay đã xuất hiện một số mặt hàng công nghiệp như sản phẩm điện tử, giày dép.
Tuy nhiên, các mặt hàng xuất khẩu này chưa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2005, chỉ có 7 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất đã chiếm 69% tổng kim ngạch của nước ta. Điều đó thể hiện sự phụ thuộc của hoạt động xuất khẩu vào một số mặt hàng chủ lực, chưa thực sự đa dạng hoá cơ cấu mặt hàng.
Ngoài ra, hiệu quả của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực này chưa cao. Ngoài những sản phẩm nhiên liệu hay nông lâm thuỷ sản thì những mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực cũng chủ yếu dưới hình thức gia công hay lắp ráp như dệt may có tỷ lệ gia công lên đến 90%, giày dép có tỷ lệ đầu vào nhập khẩu 60-65% hay điện tử chủ yếu là lắp ráp linh kiện.
3.2. Cơ cấu xuất khẩu theo nhóm hàng.
Cơ cấu xuất khẩu trong giai đoạn 1996-2005 vủa Việt Nam đã được cải thiện nhất định. Theo phân loại của Niên giám thống kê (theo kế hoạch Nhà nước), tỷ trọng nhóm hàng nông lâm thuỷ sản đã giảm từ 42,3% năm 1996 xuống còn 26,2% năm 2004, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng từ 28,7% lên 32,6% và nhóm hàng công nghiệp nhẹ và TTCN tăng từ 29% lên 41,2% trong cùng kỳ. Điều đó cho thấy xu hướng chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu từ những sản phẩm nông nghiệp sang những sản phẩm công nghiệp.
Nếu xét theo nhóm hàng thì sự chuyển dịch trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn này là chậm và không ổn định qua các năm. Trong đó, tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản giảm dần từ 23,9% năm 2000 xuống còn 21,1% năm 2005; nhóm hàng nguyên liệu khoáng sản giảm dần từ 24,9% năm 2000 xuống còn 19,9% năm 2003 nhưng đã tăng trở lại trong năm 2004-2005 và chiếm tỷ trọng 24,7% năm 2005; nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ có xu hướng tăng nhẹ nhưng không đều và chiếm tỷ trọng 38,4% trong cơ cấu hàng xuất khẩu năm 2005 Tổng hợp báo cáo Bộ Công Thương các năm, www.moit.gov.vn.
.
Biểu đồ 2.4. Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo nhóm mặt hàng.
Đơn vị: %
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 345 – Tháng 2/2007.
Tóm lại, tuy cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự chuyển dịch nhất định theo hướng gia tăng tỷ lệ chế biến, gia tăng tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp nhưng những chuyển dịch này chưa rõ ràng và chưa đem lại giá trị gia tăng cao.
II. PHÂN TÍCH VẬN DỤNG LỢI THẾ CẠNH TRANH VÀO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU TRONG TỪNG NHÓM HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1996 ĐẾN NAY.
Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu trong từng nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam trong một giai đoạn dài từ 1996 đến nay là một quá trình tương đối tỉ mỉ và kỹ lưỡng. Do vậy, phần này chỉ đi sâu phân tích thực trạng Việt Nam áp dụng lợi thế cạnh tranh vào chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu trong khoảng 10 năm trở lại đây.
1. Nhóm hàng khoáng sản và nguyên liệu.
Trong giai đoạn này, nhóm hàng nguyên nhiên liệu chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhóm hàng này có xu hướng giảm dần xuống 19,9% năm 2003, sau đó lại tăng lên 27,4% năm 2005. Trong nhóm hàng này, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, sau đó là than đá và hầu như không có mặt hàng nguyên liệu nào khác.
1.1. Dầu thô.
Xuất khẩu dầu thô trong những năm qua đạt tốc độ bình quân rất cao (khoảng 22,8%/ năm) Trang thông tin điện tử Bộ Công thương www.moit.gov.vn.
. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kim ngạch dầu thô có xu hướng giảm. Bên cạnh đó, nếu khối lượng xuất khẩu dầu thô của Việt Nam tăng đều trong những năm 1996 – 2004 thì kim ngạch xuất khẩu vẫn có những biến động nhỏ (các năm 1998, 2001), trong một vài năm trở lại đây, mặc dù khối lượng xuất khẩu giảm nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng do giá thị trường tăng. Điều đó thể hiện sự phụ thuộc của kim ngạch xuất khẩu vào diễn biến giá dầu thô trên thị trường thế giới.
Thị trường xuất khẩu chính của dầu thô Việt Nam hiện nay là các nước Australia, Nhật Bản, Singapore, chiếm 64,83% tổng kim ngạch xuất khẩu dầu thô của Việt Nam. Ở thị trường Nhật Bản, Đài Loan và Australia, sản phẩm này của Việt Nam đều không phải chịu thuế. Tuy các thị trường xuất khẩu chủ yếu đều ở châu Á và mức độ tập trung tương đối cao nhưng hiện nay Việt Nam vẫn chỉ là một nhà cung cấp dầu nhỏ chiếm khoảng 0.6% so với nhu cầu toàn thế giới.
Các giếng dầu ngoài khơi của Việt Nam có rất nhiều, có nhiều giếng được coi là lớn nhất nằm ngoài các quốc gia Trung Đông. Theo ước tính, trữ lượng tại vùng biển Đông là 0,4 tỷ tấn dầu thô và 0,7 tỷ tấn khí đồng hành. Việc phát triển sản xuất dầu thô của Việt Nam như hiện nay chủ yếu là nhờ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động khai thác dầu thô ở Việt Nam hiện nay thực chất là kết hợp giữa công nghệ và vốn của nước ngoài với tài nguyên thiên nhiên của nước ta. Hoạt động này không phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, cũng như chưa phát huy được lợi thế của đất nước. Việc nhà máy lọc dầu Dung Quất đã bắt đầu đi vào hoạt động là tín hiệu tích cực, giúp cho khối lượng xuất khẩu dầu thô và nhập khẩu dầu đã qua chế biến giảm, góp phần lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
1.2. Than đá.
Trong những năm qua, than đá là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên, phần lớn sự gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu than của Việt Nam là do tăng về sản lượng khai thác, do đó, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tài nguyên thiên nhiên của đất nước và khó có khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng này.
Chất lượng than của Việt Nam được đánh giá vào loại tốt hàng đầu thế giới với những tính năng ưu việt hoàn toàn có thể cạnh tranh được với các nước xuất khẩu khác như có nhiệt lượng cao (7350-8200kcal/Kg), tỷ lệ cacbon ổn định (80-90%), độ ẩm và tro thấp, rất phù hợp cho ngành sản xuất nhựa, xi măng, công nghệ luyện kim, đóng tàu.
Cơ cấu than khai thác đã có sự chuyển dịch, tỷ trọng khai thác lộ thiên giảm dần (giai đoạn 1996-2000 chiếm 67,3% sản lượng toàn ngành, đến nay còn khoảng 60%) trong khi tỷ trọng khai thác than hầm lò tăng dần Website Tập đoàn than - khoáng sản Việt Nam, www.vinacomin.vn.
. Hầu hết sản lượng khai thác và sản xuất than là do các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện. Mặc dù đã có nhiều chương trình hợp tác với các công ty nước ngoài nhằm chuyển giao công nghệ nhưng trình độ công nghệ khai thác của ngành than vẫn còn rất lạc hậu dẫn tới việc khai thác than xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dưới dạng thô và còn lãng phí trong khai thác, ảnh hưởng tới an ninh năng lượng và quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu lâu dài của đất nước.
Hình 2.4. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu trong nhóm nguyên, nhiên liệu.
Đơn vị: %
Nguồn: Tổng hợp báo cáo Bộ Công thương các năm Thông tin lấy từ Website Bộ Công thương, www.moit.gov.vn.
.
Tóm lại, thực trạng xuất khẩu hai mặt hàng chính trong nhóm này đều là những mặt hàng thô, chưa mang lại hiệu quả cao trong xuất khẩu. Những mặt hàng này đạt được tốc độ tăng trưởng cao dựa trên những biến động của thị trường thế giới, giá dầu thô tăng cao và nhu cầu tiêu thụ than đá gia tăng. Do đó, nhóm hàng nguyên nhiên liệu chưa có sự dịch chuyển rõ ràng, chưa có được sự tăng trưởng bền vững và còn tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro.
2. Đối với nhóm hàng nông – lâm – thủy sản.
Trong giai đoạn từ 2001 đến 2005, tỷ trọng nhóm hàng này trong tổng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm dần từ 24,3% năm 2001 xuống còn 21,1% năm 2005. Nếu so sánh kết quả này với mục tiêu đặt ra trong định hướng chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta là giảm dần tỷ trọng nhóm hàng nông – lâm – thủy sản xuống còn 22% vào năm 2005 thì sự dịch chuyển này là phù hợp.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong nhóm này là thủy sản, gạo, cà phê, rau quả, chè (chiếm khoảng 90% tổng kim ngạch của nhóm) Cổng thông tin xuất khẩu Việt Nam, www.ngoaithuong.vn.
Cổng thông tin điện tử Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, www.agroviet.gov.vn.
.
Hình 2.5. Cơ cấu xuất khẩu nhóm hàng nông – lâm – thủy sản (2001-2005)
Đơn vị: %
Nguồn: Bộ Công thương Số liệu từ Website Bộ Công thương. www.moit.gov.vn.
.
2.1. Gạo.
Hiện nay, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới, là nước trồng lúa có năng suất cao. Tuy nhiên, do chất lượng gạo Việt Nam chưa cao nên chủ yếu mới được bán trên các thị trường dễ tính (Phillipin, Indonesia, Malaysia) và một số thị trường châu Phi. Trên phân đoạn thị trường này, chúng ta đã thâm nhập được và có năng lực cạnh tranh khá tốt, thể hiện ở những trường hợp chúng ta thắng thầu cung cấp gạo cho các nước Phillipin, Irắc … Lợi thế cạnh tranh đó chủ yếu được tạo nên từ chi phí lao động thấp và nguồn đất đai màu mỡ sẵn có. Tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam còn nhiều nhược điểm về độ đồng đều, tạp chất nhiều, tỷ lệ gạo đặc sản thấp so với gạo của một số nước như Thái Lan xuất phát từ một số nguyên nhân như: người dân thường sử dụng những giống gạo đem lại năng suất cao mà chưa chú ý nhiều đến chất lượng gạo; sản xuất gạo còn manh mún và phân tán nên chât lượng gạo thường không đồng nhất; tổn thất sau thu hoạch thường cao do công nghệ lạc hậu.
2.2. Cà phê.
Cà phê là mặt hàng xuất khẩu quan trọng thứ hai trong số các nông sản. Không giống như gạo, hầu hết sản lượng cà phê sản xuất được đều dành cho xuất khẩu (khoảng 95%).
Thời tiết và môi trường thuận lợi đã tạo nên lợi thế của Việt Nam trong sản xuất cà phê. Năng suất cây trồng cao là điều kiện tiên quyết cho việc hạ giá thành sản phẩm, tạo thế cạnh tranh cao hơn. Một lợi thế cạnh tranh nữa trong sản xuất cà phê Việt Nam là khả năng mở rộng diện tích cây cà phê chè (Arabica). Đây là những điều kiện quan trọng để Việt Nam tăng khối lượng xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu trong thời gian tới. Bên cạnh đó, do giá nhân công thấp nên cà phê Việt Nam có tính cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Tuy vậy, chất lượng cà phê Việt Nam còn thấp do công nghệ chế biến, các thiết bị sấy khô và kỹ thuật sau thu hoạch.Vì vậy, năm 1999, giá xuất khẩu cà phê Robusta Việt Nam thấp hơn giá thị trường thế giới 250 USD/tấn, tương đương gần 20%. Cho đến nay, Việt Nam gần như là nhà sản xuất cà phê Robusta duy nhất và bán ra thị trường thế giới với giá thấp hơn giá cà phê Arabica. Tuy nhiên, theo đánh giá của WB, chỉ có 2% sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt loại 1 Theo Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam, www.vifoca.gov.vn.
. Bên cạnh đó, cà phê Việt Nam chưa có được thương hiệu lớn cho riêng mình, gây lãng phí những nguồn lực mà chúng ta sẵn có Số liệu báo cáo các năm của Bộ Công thương, www.moit.gov.vn.
.
2.3. Thủy sản.
Thủy sản là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, là một trong những động lực lớn thúc đẩy xuất khẩu của cả nước. Trong những năm qua, xuất khẩu thủy sản có được tố độ tăng trưởng tương đối cao (xấp xỉ 20%/năm). Tỷ trọng xuất khẩu thủy sản so với tổng kim ngạch xuất khẩu dao động trong khoảng 8,27% dến 12,11% Số liệu báo cáo các năm của Bộ Công thương, www.moit.gov.vn.
.
Việt Nam có đường bờ biển dài, vùng đặc quyền kinh tế rộng, lao động ven biển dồi dào, khả năng đánh bắt và nuôi trồng thủy sản là rất lớn. Tuy nhiên, các hoạt động chế biến chủ yếu vẫn là sơ chế với năng suất thấp, yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa cao, hạn chế việc phát huy lợi thế cạnh tranh của sản phẩm thủy sản trên thị trường quốc tế.
Nhìn chung, tuy đã có những bước tiến mạnh mẽ, nông nghiệp Việt Nam về cơ bản vẫn còn lạc hậu, cản trở trực tiếp quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. So với các nước trong khu vực, Việt Nam có những nét tương đồng về điều kiện tự nhiên và cơ cấu nông nghiệp nhưng trình độ khoa học và công nghệ lại thua kém xa. Nhiều sản phẩm nông sản của Việt Nam đã tạo dựng được vị trí trên thị trường thế giới nhưng lại tập trung nhiều về số lượng và chưa đáp ứng được nhu cầu của các thị trường khắt khe.
Bảng 2.4. Tổng hợp đánh giá về xuất khẩu nhóm hàng nông – lâm - thuỷ sản.
Mặt hàng
Gạo
Cà phê
Thủy sản
Kim ngạch xuất khẩu
Cao, không ổn định.
Tăng trưởng cao.
Tỷ trọng lớn.
Năng lực sản xuất
Lợi thế về tự nhiên, lao động. Hạn chế về công nghệ.
Lợi thế về tự nhiên, lao động. Hạn chế về công nghệ.
Điều kiện tư nhiên thuận lợi
Hiệu quả
Giá trị không cao.
Hiệu quả chưa cao vì chất lượng chế biến.
Tương đối cao.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.
3. Nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ.
Trong giai đoạn 2000-2005, nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ là nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhất (khoảng 20%/năm), chiếm 38,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tỷ trọng của nhóm hàng này tăng khá mạnh qua các năm với nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, điện tử và linh kiện máy tính. Năm 2001, tỷ trọng của nhóm này là 33,9% đã tăng lên 38,3% vào năm 2005 với kim ngạch trên 12,3 tỷ USD. Đây là nhóm hàng có quy mô và tốc độ tăng trưởng cao nhất và cho thấy nhiều tiềm năng phát triển trong thời gian tới.
Hình 2.6. Cơ cấu xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp và TCMN (2001-2005).
Nguồn: Bộ Công thương Số liệu từ Website Bộ Công thương, www.moit.gov.vn.
.
3.1. Dệt may.
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, cũng như nhiều nước khác, Việt Nam khởi động ngành công nghiệp từ ngành may mặc hướng vào xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam liên tục tăng, tuy nhiên cũng có những năm chững lại như năm 1998 (0,07%), 2001(4,3%). Ngành dệt may là nguồn thu hút lao động chính, khoảng 1/4 số lượng nhân công trong tất cả các ngành công nghiệp.
Việt Nam cạnh tranh trong lĩnh vực dệt may chủ yếu là nhờ vào mức tiền công thấp. Mặc dù có kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng hàng xuất khẩu dệt may đa phần được sản xuất theo các hợp đồng gia công, thầu phụ cho các hãng nước ngoài. Năng lực thiết kế sản phẩm yếu kém; chưa xây dựng được sản phẩm có thương hiệu trên thị trường; năng suất lao động kém, giá thành đơn vị sản phẩm cao; công nghiệp phụ trợ cũng yếu kém. Bởi vậy, giá trị gia tăng tạo ra cho nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào lực lượng lao động và hàm lượng nhập khẩu là rất cao (lên đến 80%). Tỷ lệ này qua nhiều năm vẫn không thay đổi, là thách thức cho quá trình chuyển dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp nói riêng và cơ cấu hàng xuất khẩu nói chung.
3.2. Da giày.
Mặt hàng giày dép là sản phẩm xuất khẩu có tầm quan trọng lớn đối với kim ngạch xuất khẩu, năm 2001 (1,5tỷ USD), 2005 (3 tỷ USD), tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1996-2006 là 24% Theo Hiệp hội Da – Giày Việt Nam, www.lefaso.org.vn.
.
Xuất khẩu giày dép cũng đã thâm nhập được nhiều thị trường trên thế giới, trong đó có cả những thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU. Tuy nhiên, ngành công nghiệp da giày Việt Nam đang phải đối mặt gay gắt với vấn đề kiện chống bán phá giá ở EU và nguy cơ giảm kim ngạch khi bị áp mức thuế chống bán phá giá này.
Yếu tố quyết định sự dịch chuyển trong ngành công nghiệp da giày là chi phí sản xuất. Trong khi đó, ngành công nghiệp này của Việt Nam đang dựa chủ yếu vào các hợp đồng thầu phụ, bởi vậy nó phụ thuộc mạnh mẽ vào nhập khẩu. Tuy được xếp vào nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhưng hiệu quả trong xuất khẩu hàng ngành da giày không cao, gây lãng phí nguồn lực nhân công trong nước.
3.3. Thủ công mỹ nghệ.
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống đang trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (năm 2005, kim ngạch xuất khẩu là 566 triệu USD). Hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu với nhiều loại mặt hàng khác nhau, tập trung chủ yếu vào 5 nhóm mặt hàng, trong đó mặt hàng gốm sứ chiếm tỷ trọng lớn, năm 2000 chiếm 49,5% và năm 2004 chiếm 43,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Cơ cấu thị trường hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu có chiều hướng phát triển tốt, theo hướng đa dạng hoá, mở rộng được nhiều thị trường mới với gần 100 nước. Các điều kiện thâm nhập thị trường trong lĩnh vực này đối với Việt Nam tương đối thuận lợi, Việt Nam được tự do xuất khẩu vào thị trường EU và được ưu đãi tại Canada và Malaysia.
Hiệu quả xuất khẩu của hàng thủ công mỹ nghệ rất cao. Nếu như mặt hàng dệt may, giày dép có kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng tỷ lệ thực thu ngoại tệ thấp (60%). Trong khi đó, hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có với một lực lượng lao động đơn giản, tạo ra tỷ lệ thực thu ngoại tệ cao (98%).
Tóm lại, trong nhóm mặt hàng thủ công mỹ nghệ, Việt Nam đã bước đầu phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình, sự chuyên môn hóa trong sản xuất mặt hàng này cũng đang được phát triển.
Ngoài những mặt hàng nêu trên, nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ còn bao gồm một số mặt hàng chủ lực khác như gỗ, điện tử, sản phẩm nhựa, dây cáp điện và một số mặt hàng mới. Tuy nhiên, những mặt hàng này trong thời gian qua cũng mắc phải tình trạng chung đó là còn phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện sẵn có, quy mô nhỏ lẻ, khó khăn về công nghệ… Đây là một vấn đề lớn nổi lên trong quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu trong thời gian qua.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH LỢI THẾ CẠNH TRANH VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU GIAI ĐOẠN 1996 ĐẾN NAY.
1. Những thành tựu đạt được.
Trong vòng hơn 10 năm, nhìn chung việc áp dụng lợi thế cạnh tranh vào quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu đã có những chuyển biến tích cực và đã đạt được một số kết quả sau:
Thực hiện thành công chủ trương của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với nguồn lực trong nước.
Trong thời gian vừa qua, cơ cấu hàng xuất khẩu đã dịch chuyển một cách hợp lý, theo đúng như chủ trương mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đề ra, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, ngoài dầu thô còn có dệt may, thuỷ sản, giày dép, hàng điện tử, linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ… Với cơ cấu này, chúng ta đã bước đầu thực hiện được mục tiêu cải biến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, chất lượng hàng xuất khẩu từng bước được nâng lên, năng lực cạnh tranh được cải thiện theo hướng công nghệp hoá, hiện đại hoá.
Vận dụng lợi thế về nguồn lao động trong chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu đã có tác động mạnh mẽ tới phân công lao động trong nước theo hướng ngày càng hợp lý hơn, góp phần tích cực vào việc xây dựng xã hội văn minh, hiện đại.
Những tiến bộ về cải biến cơ cấu đã đưa kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người từ 99,2USD/người năm 1996 lên 360USD/người năm 2005 Niên giám thống kê các năm 1996 và 2005, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê 1997 và 2006.
. Đây là nhân tố quan trọng góp phần giải quyết tình trạng mất cân đối giàu nghèo, tạo ra hàng triệu việc làm với thu nhập ổn định.
Ngoài ra, lợi thế về các thành phần kinh tế trong tham gia sản xuất hàng xuất khẩu đã giúp chúng ta có một lượng hàng xuất khẩu phong phú, nguồn hàng dồi dào và không bị động trước những nhu cầu bất thường của thế giới.
Vận dụng lợi thế trong các mặt hàng truyền thống giúp cho kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng.
Những mặt hàng truyền thống như thủ công mỹ nghệ, cà phê, chè…vẫn giữ được thế chủ động và quyết định trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Giữ vững được quy mô và tốc độ xuất khẩu của nhóm hàng này còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc, duy trì sản xuất trong nước và phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam.
Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam đang dần chuyển dịch theo hướng khai thác ngày càng có hiệu quả các lợi thế so sánh về đất đai, tài nguyên.
Mặc dù nhóm hàng nông sản và khoáng sản có giảm trong cơ cấu xuất khẩu nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Lợi thế này giúp cho Việt Nam dễ dàng chiếm lĩnh được thị trường và có thể cạnh tranh với những quốc gia khác.
2. Tồn tại.
Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu chưa có tính đột phá, gây lãng phí những lợi thế sẵn có.
Mặc dù cơ cấu hàng xuất khẩu có chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng chế biến và chế tạo. Nhưng tới nay, xuất khẩu sản phẩm thô vẫn là chủ yếu. Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dựa vào lợi thế tự nhiên sẵn có, chi phí thường cao và sẽ ngày càng cao do những lợi thế so sánh này bị xói mòn, đóng góp cho tăng trưởng không đáng kể.
Sự chuyển dịch cơ cấu vùng, ngành chưa có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu.
Cơ cấu hàng xuất khẩu thường được xác định theo lợi thế của vùng kinh tế. Tuy nhiên, điều này là chưa đủ trong một thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt như hiện nay mà thiếu đi những dự báo mang tính khoa học, sự kết hợp giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ.
Các ngành công nghiệp cơ bản và phụ trợ chưa được hình thành một cách chắc chắn.
Nhiều ngành công nghiệp mang tính chất nền tảng cho các ngành khác chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng như luyện kim, hoá dầu, chế tạo máy, do vậy các sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng chế biến cao lại phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu và linh kiên nhập khẩu.
Cơ cấu xuất khẩu còn manh mún, quy mô nhỏ, phụ thuộc quá nhiều vào tài nguyên thiên nhiên.
Những mặt hàng chủ lực của Việt Nam chủ yếu thuộc diện c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xác định lợi thế cạnh tranh và định hướng chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam.doc