Đề tài Xác định tài sản chung, tài sản riêng đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng trong tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn

MỤC LỤC

Trang

A. LỜI NÓI ĐẦU 1

B. NỘI DUNG 3

1. Khái niệm quyền sử dụng đất 3

1.1. Khái thác đất Nông Nghiệp 3

1.2. Đất lâm nghiệp: 3

1.3. Đất ở: 4

2. Xác định tài sản chung, tài sản riêng là quyền sử dụng đất của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình 4

2.1. Tài sản chung: 4

2.2. Tài sản riêng 11

3. Quy định của pháp luật về quyền sử dụng đất của vợ chồng và chia tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 14

3.1. Quy định của pháp luật về quyền sử dụng đất. 14

3.2. Chia tài sản đất là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 15

4. Việc tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 18

4.1. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn (đối với loại tài sản cố định) 18

5. Thực tiễn xét xử của Tòa án về vấn đề tranh chấp quyền sử dụng đất là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng khi li hôn. 25

C. KẾT LUẬN 32

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2627 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xác định tài sản chung, tài sản riêng đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng trong tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đất phải đảm bảo đúng mục đích luật định thì sẽ không bị Nhà nước thu hồi. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định đối với loại đất gắn liền với mục đích sử dụng, nếu được Nhà nước giao cho vợ chồng thì bắt buộc chủ sở hữu đối với quyền sử dụng đất đó. Nhưng nếu khi ly hôn người không có đăng ký sở hữu đất đảm bảo đúng mục đích luật định thì không được chia đất mà chỉ được tính phần giá trị của mình ra bằng tiền để được thanh toán. 2.2. Tài sản riêng 2.2.1. Tài sản riêng của vợ chồng (Điều 32 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000) Trên cơ sở việc ghi nhận quyền sở hữu riêng của công dân tại Điều 58 hiến pháp năm 1992, kế thừa và phát triển các quy định về tài sản riêng của vợ chồng trong hôn nhân và gia đình năm 1986. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định quyền sở hữu đối với tài sản riêng của vợ chồng cụ thể hơn, tạo cơ sở pháp lý thống nhất trong thực tế áp dụng Khoản 1 Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã ghi nhận với tính chất chắc chắn khẳng định vợ chồng có quyền có tài sản riêng. Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cụ thể căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ chồng rộng hơn, cụ thể hơn, theo đó tài sản riêng của vợ chồng gồm: Tài sản riêng mà mỗi người có được trước khi kết hôn: đó có thể là thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp của bản thân mỗi người: Tài sản riêng này cũng có thể do vợ, chồng được tặng cho, thừa kế. Tài sản được thừa kế, được tặng cho riêng từng thời kỳ hôn nhân, phần tài sản này nếu vợ hoặc chồng không tự nguyện nhập vào khối tài sản chung thì đương nhiên vẫn là tài sản riêng của mỗi người. Tài sản riêng mà vợ, chồng được chia từ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Vấn đề này được Điều 8 - NĐ 70/2007 hướng dẫn như sau: 1. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người trừ trường hợp vợ, chồng có thoả thuận khác. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. 2. Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chống có thoả thuận khác. Tài sản riêng của vợ chồng còn là đồ dùng, tư trang cá nhân. Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định "đồ dùng tư trang cá nhân là gì" và giá trị của nó như thế nào, cần hiểu đồ dùng tư trang cá nhân là những đồ dùng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của mỗi con người (quần áo, giầy dép….) Quyền sử dụng của vợ chồng đối với tài sản riêng không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của họ nên trong những trường hợp cần chia tài sản vợ chồng theo quy định của pháp luật thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc về người đó. Nhưng người có tài sản riêng phải chứng minh được tài sản đó là tài sản riêng của mình. Việc chứng minh có thể thực hiện bằng sự công nhận của bên kia, các giấy tờ, văn tự, chứng cứ khác… Tài sản riêng của vợ, chồng dùng để thanh toán nghĩa vụ tài sản của mỗi người (Khoản 3 Điều 33 - Luật Hôn nhân và gia đình). Tuy nhiên, có một số vấn đề cần lưu ý: - Trong trường hợp vợ chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng đó đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì người có tài sản riêng không có quyền đòi lại hoặc yêu cầu đền bù. - Trường hợp tài sản riêng của một bên đã được tu sửa bằng tài sản chung làm tăng giá trị lên nhiều lần, khi có yêu cầu của Toà án cần xác định phần tăng giá trị đó để nhập vào tài sản chung. 2.2.2. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng Đối với quyền sử dụng đất mà một bên vợ, chồng có trước khi kết hôn hoặc thừa kế riêng, pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu riêng của vợ chồng đối với tài sản này trừ khi họ có thoả thuận nhập quyền sở hữu đất vào khối tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng gồm: Quyền sử dụng đất được Nhà nước giao; quyền sử dụng đất được cho thuê; quyền sử dụng đất được chuyển đổi; quyền sử dụng đất được thừa kế; quyền sử dụng đất được chuyển nhượng; quyển sử dụng đất được thế chấp. Nhìn chung, chế độ tài sản chung của vợ chồng về quyền sử dụng đất trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã tôn trọng và bảo vệ lợi ích cá nhân của vợ chồng, trên cơ sở đó đảm bảo các lợi ích chung của gia đình, xã hội. Đây là yếu tố quan trọng để đảm bảo xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Tóm lại, quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt và có giá trị lớn. Trong thực tế, người chồng thường nắm giữ toàn bộ tài sản của gia đình và đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc quy định quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn cũng là tài sản chung đối với vợ chồng có ý nghĩa đảm bảo sự bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ về tài sản. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hoặc sau khi ly hôn là nhà cửa, quyền sử dụng đất… rất phức tạp do các giấy tờ pháp lý liên quan cho nên quyền sử dụng đất chỉ đứng tên một người và việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung hoặc riêng để đảm bảo hành vi chính đáng đối với mỗi người là rất khó khăn. Việc Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định một cách rõ ràng cụ thể về quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được khi kết hôn, phải thoả thuận là tài sản chung, hoặc là tài sản riêng với vợ chồng là cơ sở pháp lý cần thiết cho vấn đề giải quyết tranh chấp khi chia tài sản chung của vợ chồng. 3. Quy định của pháp luật về quyền sử dụng đất của vợ chồng và chia tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 3.1. Quy định của pháp luật về quyền sử dụng đất. Về vấn đề quyền sử dụng đất của vợ, chồng có rất nhiều văn bản pháp luật quy định theo Luật Đất đai năm 2003 tại Khoản 3 Điều 48 có quy định: "Trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ và chồng thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi cả họ, tên vợ, và họ, tên chồng" điều này đồng nhất với quy định của pháp luật hôn nhân gia đình năm 2000. Khoản 1 Điều 27: "Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. Tài sản chung của vợ chông thuộc sở hữu chung hợp nhất". Luật Hôn nhân và gia đình khẳng định "Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất" Đây là qui định mới và hoàn toàn phù hợp với nội dung của Bộ luật dân sự về quyền sở hữu. Theo quy định tại Điều 239,232 Bộ luật dân sự năm 2005 sở hữu chung là sở hữu của nhiều người chủ sở hữu đối với tài sản bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi bên chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung. Chế độ sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng hoàn toàn đúng đắn hoặc phù hợp với truyền thống gia đình Việt Nam, phong tục nét đẹp của dân tộc. Chính sự hợp nhất về tài sản chung của vợ chồng là yếu tố tạo nên sự hài hoà và bền chặt trong quan hệ gia đình. Theo Nghị quyết số 02/2001/NQ - HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 đã hướng dẫn cụ thể hơn về tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, ghi tên của cả vợ và chồng. Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ, cả chồng (ví dụ: nhà ở, quyền sử dụng đất……) Song không phải trong mọi trường hợp đối với các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường ghi tên của vợ hoặc chồng (xe môtô, xe máy, thuyền…) Khoản 1 Điều 32 đã qui định cụ thể về tài sản riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên trong trường hợp do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng; nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng, nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại Khoản 1 Điều 32 3.2. Chia tài sản đất là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là vấn đề phức tạp và có nhiều tranh chấp, đặc biệt việc chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn lại càng phức tạp và khó khăn hơn. Thực tế xét xử nhiều năm qua ở nước ta, để đảm bảo được công bằng và hợp lý trong trường hợp vợ chồng không thể tự thoả thuận được với nhau. Trường hợp cần điều tra về quan hệ tài sản của vợ chồng: xác định đâu là tài sản riêng của mỗi bên của vợ, chồng; những tài sản nào thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng; Xác định nguồn gốc, giá trị, số lượng, công sức đóng góp của mỗi người….Sau đó, Toà án áp dụng các nguyên tắc quy định tại Điều 95 - Luật Hôn nhân và gia đình để chia. Về vấn đề chia tài sản và quyền sở hữu đất thì có rất nhiều văn bản quy định, ngay trong luật cũ của đất đai cũng quy định:"Ruộng đất do hai không tạo ra trong thời kỳ hôn nhân được chia thaàn hai phần bằng nhau. Một phần dành cho vợ chồng làm của riêng, phần còn lại chia theo tỷ lệ: 1/3 dành cho nhà chồng (nhà vợ) để lo thờ cúng, 2/3 dành cho chồng vợ để phụng dưỡng một đời, không được làm của riêng, khi chết giao lại cho gia đình bên chồng( bên vợ). Cũng giống như đối với phu điền sản, thê điền sản - 2/3 điền sản được chia từ điền sản từ chồng thì người vợ phải trả khi tái giá còn đối với người chồng một khi vợ đã chết mà lấy người khác thì vẫn có quyền tiếp tục sử dụng đất được chia đó " ( Lê Thị Sơn “ Quốc Triều hình luật lịch sử hình thành nội dung và giá trị”, NXB Lao động xã hội năm 2004) Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã qui định một chế độ pháp lí riêng về quyền sử dụng đất (Điều 27) và các nguyên tắc chia tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất khi li hôn tại các Điều 97, 98, 99 và được hướng dẫn từ Điều 23 đến Điều 30 NĐ 70/2001/NĐ - CP (03/10/2007) của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình. Qua các quy định này, việc chia tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hôn cần chú ý. - Dù đã ly hôn, mỗi bên đều có quyền có nhà ở, được lao động, sản xuất kinh doanh để tạo thu nhập. Vì vậy, việc giải quyết nhà ở và quyền sử dụng đất phải nhằm tạo điều kiện cho mỗi bên có chỗ ở, hoạt động sản xuất, kinh doanh ổn định. Bất kỳ trường hợp nào cũng không được để một bên, nhất là vợ và các con ra khỏi nhà hoặc không còn đất để lao động sản xuất khi họ thực sự chưa có chỗ ở hoặc đất để lao động sản xuất. - Phải xác định rõ nguồn gốc nhà ở và quyền sử dụng đất đang có tranh chấp có thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng hay không về nguyên tắc, toà chỉ phân chia nhà ở, quyền sử dụng đất khi không có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp được sự công nhận của chính quyền nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, nhu cầu cấp thiết về chỗ ở và hoạt động sản xuất kinh doanh của vợ, chồng Toà có thể phân định tạm thời nơi ở để sản xuất cho các bên tiền nhà ở và đất mà vợ chồng không có hoặc chưa có quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp. Đối với nhà ở và quyền sử dụng đất thuộc quyền sở hữu riêng của vợ chồng thì khi ly hôn của bên nào thì cần thuộc về bên đó. Bên có nhà phải thanh toán cho bên kia phần giá trị nhà và quyền sử dụng đất, căn cứ vào công sức bảo dưỡng, nâng cấp, tu sửa tài sản (Điều 97, 98 - Luật Hôn nhân và gia đình 2000) Trong trường hợp việc giao nhà cho bên có quyền sở hữu riêng mà gây khó khăn cho bên kia về chỗ ở, thì Toà án có thể yêu cầu bên vợ hoặc chồng sở hữu nhà có nghĩa vụ hỗ trợ cho bên kia tìm chỗ ở mới, nếu bên kia có khó khăn và không tự tìm được chỗ ở mới. Bên chưa có chỗ ở được lưu cư trong thời hạn 6 tháng để tìm chỗ ở khác (Điều 30 NĐ 70/2001/NĐ - CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ) - Với quyền sử dụng đất mà vợ chồng được nhà nước giao trong thời kỳ hôn nhân, kể cả giao khoán là tài sản chung của vợ chồng khi lên hôn, căn cứ vào Điều 97 và Điều 24 NĐ70/NĐ - CP có đường lối giải quyết như sau: + Đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối nên cả hai vợ chồng đều có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng thì chia theo sự thoả thuận của hai vợ chồng. Khi vợ chồng không thoả thuận thì Toà án quyết định chia theo các nguyên tắc chia tài sản chung tại Điều 95 Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì có quyền tiếp tục sử dụng toàn bộ đất đó sau khi đã thoả thuận với bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà bên đó được hưởng theo mức và hai bên thoả thuận hoặc Toà án quyết định. Trong trường hợp một bên có nhu cầu và có điều kiện tực tiếp sử dụng đất nhưng không thể thanh toán cho bên kia một phần giá trị quyền sử dụng đất mà bên đó được hường, thì bên kia có quyền nhượng quyền sử dụng đất của mình cho người thứ ba, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. + Đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở được Nhà nước giao, đất chuyên dùng là tài sản chung của vọ chồng, khi ly hôn việc chia tài sản này áp dụng các nguyên tắc quyết định tại Điều 95 - Đối với quyền sử mà vợ chồng được Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn việc chia quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại Điều 25 NĐ70/NĐ - CP như sau: Trong trường hợp vợ chồng đã trả tiền thuê đất hàng năm mà khi ly hôn cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện tiếp tục sử dụng đất đó, thì chia theo các nguyên tắc tại Điều 95; nếu chỉ có một bên vợ chồng có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì giao đất cho người đó, đồng thời người được giao đất phải ký lại hợp đồng thuê đất, nếu hợp đồng thuê đất trước đây do bên kia hoặc cả hai vợ chồng đứng tên và thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản đã đầu tư trên đất mà người đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn căn cứ vào tài sản và công sức đầu tư của bên kia Trong trường hợp vợ chồng đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê mà chỉ có hai bên được tiếp tục sử dụng toàn bộ diện tích đất thì phải thanh toán cho bên kia một nửa về tiền thuê đất tương ứng với thời gian thuê đất còn lại, kể từ thời điểm chia tài sản khi ly hôn trừ trường hợp có thoả thuận khác. Ngoài ra, bên được tiếp tục sử dụng đất phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản đã đầu tư trên đất và thời điểm chia tài sản khi ly hôn. - Đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng được chuyển đổi, nhượng quyền, thừa kế chung được thực hiện theo quyết định Điều 95, trong trường hợp vợ chồng nhận thế chấp quyền sử dụng đất củ người thứ ba khi ly hôn, quyền nhận thế chấp cũng được chia theo quyết định tại Điều 95 và Điều 26 NĐ 70 có yêu cầu được chia nhà thuộc sở hữu của người káhc do đang ở nhờ, thuê, Toà án không phân chia nhà. Trong trường hợp các bên thực sự có lý do chính đáng về chỗ ở mà vẫn chưa thoả thuận giữa vợ chồng với chủ sở hữu nhà , Toà án có thể phân định tạm thời nơi ở của vợ chồng. 4. Việc tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 4.1. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn (đối với loại tài sản cố định) - Điều 95: Luật Hôn nhân và gia đình Khoản 1 Đảm bảo nguyên tắc tự do thoả thuận của vợ chồng về tài sản (Khoản 1 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình). Như vậy Pháp luật tôn trong và thừa hưởng sự thoả thuận của vợ chồng là căn cứ đầu tiên, quyết định trong giải quyết trong chấp tài sản khi ly hôn. Quyết định này có ý nghĩa rất quan trọng tạo cơ sở pháp lý đòi quyền bình đẳng, quyền tự định đoạt của vợ chồng về tài sản, tránh được những bất đồng sau ly hôn, tạo điều kiện cho công tác thi hành án dân sự cũng như sự ổn định cuộc sống cho các đương sự ngay sau khi ly hôn, góp phần phát huy sự đoàn kết trong nội bộ gia đình và nhân dân. Các bên có thể tự thoả thuận theo sự hướng dẫn gián tiếp, giúp đỡ và giám sát của Toà án Nhân dân. Toà án Nhân dân sẽ không công nhận các thoả thuận về tài sản nếu thuộc một trong các thỏa thuận Thoả thuận đạt được do một bên bị cưỡng ép, bị lừa dối, hoặc xâm hại nghiêm trọng đến lợi ích chính đáng của người vợ và con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự. Thoả thuận có liên quan đến tài sản thuộc sở hữu của người khác và người này đã yêu cầu Toà án không công nhận trường hợp đó. Thoả thuận liên quan đến tài sản có được do hành vi trái pháp luật mà có Thoả thuận liên quan đến tài sản vợ chồng đang có tranh chấp hoặc chưa đủ căn cứ để xác lập quyền sở hữu Thoả thuận nhằm mục đích trốn thuế, giảm tiền nộp án phí Thoả thuận nếu trường hợp thực tế sẽ xâm hại đến quyền và lợi ích của những người khác và những người này yêu cầu không công nhận thoả thuận của vợ chồng VD: Thoả thuận của vợ chồng về nhà và đất nếu thể hiện trên thực tế có thể gây thiệt hại cho người có Bất động sản liền kề… Thoả thuận dựa trên mục đích lý hôn giả, vợ chồng yêu cầu được ly hôn không phải để chấm dứt ly hôn nhanh mà để nhằm tẩu tán, phá tán tài sản, gây thiệt hại đến quyền lợi của người có quyền (chủ nợ) Đối với những thoả thuận này, ngoài việc tuyên bố không công nhận Toà án căn cứ vào tính chất, mục đích của hành vi vi phạm có thể yêu cầu các chính quyền Nhà nước có thẩm quyền pháp lý đối với các đương sự theo quyết định của pháp luật. Tài sản riêng của bên nào thuộc quyền sở hữu của bên đó, việc xác định tài sản riêng của vợ chồng căn cứ vào Điều 22 Luật Hôn nhân và gia đình. Nếu vợ chồng không chứng minh được đó là tài sản riêng của minh thì đó là tài sản chung của vợ chồng để chia. Trong trường hợp nếu vợ chồng tự nguyện nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng đã được chi dùng cho gia đình mà khồng còn nữa thì người có quyền có tài sản riêng không có quyền đòi lại hoặc yêu cầu đền bù. Trường hợp tài sản riêng của một bên đã được tu sửa bằng tài sản chung làm tăng giá trị lên nhiều lần, khi có yêu cầu chia tài sản, Toà án cần xác đinh phần tăng lên đó, nhập vào tài sản chung để chia. - Nếu các bên không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết: + Điểm a Khoản 2 Điều 95: Nguyên tắc của việc chia tài sản chung của vợ chồng là chia đôi vì sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất. Tuy nhiên, để đền bù, tính công bằng, sự phù hợp với nguyên tắc phân phối theo pháp luật, không phải mói trường hợp khi giải quyết Toà án đều chia đôi tài sản chung của vợ chồng cho mỗi bên. mà vẫn cần cân nhắc và xem xét đến "công sức" đóng góp hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên cho thấu tình đạt lý. Toà án chỉ quyết định chia đôi tài sản chung của vợ chồng cho mỗi bên khi xét thấy công sức tạo lập, tăng tài sản chung của vợ chồng là ngang nhau. Ngược lại, Toà án vẫn có thể chia phần nhiều hơn, phần ít hơn cho mỗi bên vợ chồng khi ly hôn. + Điểm b Khoản 2 Điều 95: Nguyên tắc này nhằm xoá bỏ triệt để quan niệm của chế độ Hôn nhân và iga đình phong kiến trước đây: cỏi rẻ quyền lợi của vợ con. Cần hiểu rằng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình phải dựa trên cơ sở pháp lý, tránh tuỳ tiện. Toà án có thể kết hợp trong việc chia tài sản cụ thể. VD: Khi chia tài sản chung của vợ chồng là nhà ở, xét thấy cả hai bên vợ chồng đều có yêu cầu cấp bách về chỗ ở, người vụ lại được giao nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên… có thể chia ngôi nhà cho người vợ sở hữu người chồng được chia những tài sản khác theo công sức đóng góp của họ. + Điểm c Khoản 2 Điều 95 Tuỳ theo khả năng, tính chất nghề nghiệp chứng minh của vợ, chồng khi chia tài sản của vợ chồng phải được đảm bảo giá trị, công dụng, nghề nghiệp và phát huy được công dụng của tài sản, phù hợp với nghề nghiệp của vợ chồng, tạo sự ổn định nghề nghiệp và phát huy được giá trị, công dụng của tài sản vợ chồng trong sản xuất, kinh doanh cần tránh việc chia tài sản của vợ chồng làm mất đi công dụng, giá trị của tài sản. Đảm bảo được lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp của mỗi bên hoặc tài sản đó do một bên vợ chồng đnag cùng phối hợp cho công việc sản xuất kinh doanh của mình mà lại quyết định chia tài sản đó cho bên kia. Thực tế khi ly hôn, vợ chồng ly tán, cần bảo đảm ổn định nghề nghiệp, chứng minh của vợ, chồng tiếp tục lao động tạo thu nhập, ổn định cuộc sống. + Điểm d Khoản 2 Điều 95 Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng tạo sự ổn định cuộc sống, ổn định nghề nghiệp. phù hợp cuộc sôngs chứng minh, đảm bảo công dụng, phát huy giá trị tài sản trong sản xuất kinh doanh của vợ, chồng thì theo nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được chia bằng hiện vật, nếu không được chia bằng hiện vất mới tính theo giá trị ( giá giao dịch thực tế thời điểm xét xử) và chia bằng tiền, phù hợp với cuộc công sức vợ chồng và cả hai vợ chồng vay nợ khắc nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình. (Điều 25,27 Luật Hôn nhân và gia đình), tài sản chung của vợ chồng được bảo đảm để vợ chồng thanh toán trả món nợ đó. Sau khi ly hôn, việc vợ chồng ly tán thường gây nhiều khó khăn, trở ngại cho việc thanh toán nghiệp vụ chung làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ 3 (chủ nợ. người được hưởng lợi ích về tài sản) + Khoản 3 Điều 95: Xác định khi ly hôn vợ chồng thanh toán nghiệp vụ chung về tài sản, nếu không thanh toán được thì yêu cầu Toà án giải pháp để nhằm hạn chế những hậu quả tiêu cực do sự kiện ly hôn gây ra nhằm bảo đảm quyền lợi của người thứ 3. Khi vợ chồng thoả thuận với nhau về thanh toán nghiệp vụ chung về tài sản vợ chồng, cần phải có sự công nhận của chủ nợ, người được hưởng lợi ích về tài sản…. Trường hợp vợ chồng thoả thuận với nhau thanh toán nghiệp vụ chung về tài sản nhằm trốn tránh nghiệp vụ tài sản hoặc tẩu tán tài sản quyết định dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của người thứ 3. Toà án (có thể) quyết định mỗi bên có nghĩa vụ trả một nửa món nợ chung đó. 4.2.1. Đối với quyền sử dụng đất thuộc sở hữu riêng của vợ chồng Quyền sử dụng đất riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó (Khoản 1 Điều 97 Luật Hôn nhân và gia đình) Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ chồng mà mỗi bên vợ chồng có khi kết hôn do chuyển nhượng, chuyển đổi, được nhận thế chấp, do đuợc thừa kế hoặc quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ chồng được Nhà nước giao hoặc cho thuê.Trước khi kết hôn thì khi vợ chồng ly hôn, quyền sử dụng đất đó của bên nào vẫn thuộc về bên đó. (Điều 23 NĐ số 70/2001/NĐ - CP). Tuy nhiên, theo nguyên tắc chung để chia tài sản thì tài sản riêng của vợ chồng có đuowcj trước thời kỳ hôn nhân được vợ chồng tự nguyện nhập vào khối tài sản chung (do thoả thuận) hoặc đã thực hiện một công việc nào đó mà không còn nào nữa (VD: bán đi để mua một mảnh đất khác hoặc để thực hiện một nghiệp vụ tài sản khác, một công việc khác…) để chi dùng cho gia đình không còn nữa thì không có gì yêu cầu chia tài sản riêng nữa. 4.2.3. Trong trường hợp nhà gắn liền với đất Về mặt pháp lý, quyết định của pháp luật là chặt chẽ, cụ thể. Song trên thực tế thì nhiều giao dịch dân sự có liên quan đến quyền sở hữu tài sản, nhất là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất lại không được thể hiện đúng cùng thủ tục. VD: mua bán nhà, chuyển nhượng đất chỉ viết giấy tay, không qua công chứng hoặc chứng thực. Có trường hợp hai vợ chồng mua nhà đất nhưng không có hộ khẩu ở thành phố, thị xã nên nhờ bố, mẹ, anh, chị em đưng tên trên cơ sở tình cảm và lòng tin, không có giấy uỷ quyền. Khi vợ chồng ly hôn đã xảy ra tranh chấp về quyền sở hữu nhà đất đối với bố mẹ, anh chị, em. Khi nhà gắn liền với đất mà nhà ở là một nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, là tư liệu sở hữu quan trọng nhất trong khối tài sản chung của vợ chồng. Dù đã ly hôn, mỗi người đều có quyền có chỗ ở, vì vậy giải quyết nhà nhằm tạo điều kiện cho mỗi bên, ổn định cuộc sống, nhất là đối với con. Bất kỳ trong trường hợp nào cũng không được để vợ con ra khỏi nhà khi họ thực sự chưa có chỗ ở một cách thoả đáng. Trong trường hợp chưa có biện pháp giải quyết riêng mỗi người một nơi thì vẫn phải để ở chung một nhà, sau đó qua mọi thời gian thực tế (thời hạn tối đa là 6 tháng) hai bên sẽ tự bố trí sắp xếp ổn định hợp lý. Như đã phân tích ở trên (phần khái niệm quyền sử dụng đất ở đâu): Đất ở là đất trên đó là nơi cư trú các cá nhân, hộ gia đình và cọng đồng con người,… Đất này chiếm phần lớn trong đất khu dân cư, là thành phần quan trọng nhất trong khu dân cư. Việc tranh chấp nhà gắn liền với đất: - Là đất ở của các hộ gia đình , cá nhân gồm đất để làm nhà ở và các công trình phục vụ cho đời sống của gia đình. Vì vậy, khái niệm đất ở của hộ gia đình ở nông thông còn gọi là đất "thổ cư" gồm nền nhà, sân phơi, nơi đánh đống rơm rạ, nhà bếp, nhà tắm, giếng nước, chuồng nuôi, gia sức, nhà vệ sinh, hàng rào, lối đi và diện tích đất vườn, ao liền nhà. - Nếu nàh ở do hai vợ chồng tạo lập trong thời gian chung sống thì đó là tài sản chung. Khi ly hôn việc chia nhà cho bên vợ hay bên chồng cần phải xem xét toàn diện đó là: + Trong trường hợp người chồng thoát ly gia đình, công tác xa, không có cha mẹ ở chung, chỉ có một mình vợ quản lý, sử dụn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35998.doc
Tài liệu liên quan