MỤC LỤC
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
3.1 Sản phẩm của Handy
3.2 Nhóm khách hàng của Handy
4.Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu và Phân tích (Research & Analysis)
5.2 Chiến lược (Strategy)
5.3 Thiết kế (Design)
5.4 Bảo hộ (Trademark protection)
5.5 Ứng dụng (Application)
5.6 Sản xuất dự án ( Implementation)
Phần nội dung
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Tổng quan lịch sử của đề tài:
1.1.1 Lịch sử đề tài nghiên cứu
1.1.1.1 Lịch sử nguồn gốc hamburger
1.1.1.2 Lịch sử phát triển mô hình thức ăn nhanh
1.1.2 Hiện trạng đề tài
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC SÁNG TÁC
2.1. Trình bày cách thức tổ chức sáng tác
2.1.1 Các giai đoạn tổ chức sáng tác
2.2 Mô tả phương pháp và kỹ thuật thiết kế
2.2.1 Đề tài nghiên cứu
2.2.2 Hình thức thiết kế
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU SÁNG TÁC
3.1. Những kết quả đạt được về mặt lý thuyết
3.2. Những kết quả sáng tạo cái mới
3.3. Giá trị của những sáng tác
Kết luận
Tài liệu tham khảo
48 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2443 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng bộ định dạng thương hiệu cho nhà hàng thức ăn nhanh Handy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịt xay, thịt gà, cá, hay cả các món chay ở giữa, nhưng vẫn có lát mì hình tròn.
Tại Hamburg mọi người thường bỏ 1 miếng thịt heo nướng vào giữa 1 cái bánh cuộn gọi là bánh nóng Rundstück, nhưng khi đó nó vẫn thiếu 1 điều cơ bản mà tất cả các hamburger hiện nay đều làm đó là miếng thịt kẹp phải được nấu chính trước khi cho vào miếng bánh. Thời Trung Cổ, thành phổ cảng Hamburg là nơi giao thương quan trọng giữa các lái buôn người Ả Rập và Châu Âu. Một lý thuyết được nhiều người thừa nhận là chính các lái buôn Ả Rập đã du nhập món Kibbeh được kẹp với miếng thịt cừu tẩm nhiều loại gia vị và thường được ăn sống, nhưng người dân bản xứ đã có công chế biến lại món ăn đó bằng cách thay thế thịt cừu bằng thịt heo hay thịt bò, và một điều thay đổi quan trọng nữa là miếng thịt kẹp được nấu hoặc nướng chính, khi đó bánh "Hamburg Steak" hay "Hamburger" đã trở thành một loại bánh nóng Rundstück độc nhất vô nhị và được mọi người tán thưởng.
Úc và New Zealand
Hamburgers ở Úc và New Zealand thường có cà chua, rau diếp, pho mát và một ít thịt (có tẩm nước sốt BBQ hoặc nước sốt cà chua), và thường có củ cải đường, hành tây, trứng, thịt hun khói và dứa (aka "burger with the lot). "BLT" có nghĩa là hamburger dùng kèm với thịt hun khói, rau diếp, và cà chua.
Đông Á
Trong một số nước Đông Á như Đài Loan, Nhật Bản hay Hàn Quốc, một số quán ăn nhanh bán một loại "biến thể" của hamburger với miếng bánh kẹp (bun) là cơm thay vì bánh mì. "Bánh kẹp" (The "bun") được làm từ loại một loại gạo nếp có độ kết dính đủ để cho phép tạo ra hình dáng miếng bánh mà không làm nó bị rã ra.
1.1.1.2 Lịch sử phát triển mô hình thức ăn nhanh:
Một trong những người sáng lập nên ngành công nghiệp fast-food là Carl Karcher, sinh trưởng tại Ohio (Mỹ). Năm 1939, ông đến California và mua một chiếc xe ngựa để đi bán xúc xích dạo cho khách ngồi trong xe hơi. Công việc rất phát triển, Carl đã mở một quầy ăn di động chuyên phục vụ cho các thực khách ngồi trong ô tô với tên gọi “Quầy thịt nướng lưu động dành cho thực khách xe hơi Carl” (Carl’s Drive-in Barbecue).
Cũng trong thời gian đó, hai anh em nhà McDonald, Richard và Maurice, đã rời quê nhà New Hampshire, đến California mở một rạp hát nhưng thất bại. Biết dân Mỹ đang rất thích ăn trong quầy hàng drive-in, họ đã mở một quầy hàng như thế tại Pasadena, California vào năm 1939 với tên gọi “Thịt băm viên nổi tiếng của McDonald” (McDonald’s Famous Hamburgers).
Cuối những năm 1940, anh em nhà McDonald cảm thấy mệt mỏi với việc phải thay những đĩa, đồ thủy tinh, đồ bạc nên đã quyết định đóng cửa quầy hàng và mở một quầy hàng McDonald mới với thức ăn được để trong túi, bao nhựa hoặc giấy. Nhiều doanh nghiệp trên khắp nước Mỹ đã tìm đến quầy hàng McDonald ở California để xem quầy hàng hoạt động như thế nào.
Sau đó họ đã trở về địa phương và dựng lên những quầy hàng giống McDonald của riêng mình như Burger King, Taco Bell, Wendy’s Old – Fashioned Hamburgers, Dunkin’ Donuts, Kentucky Friend Chicken (KFC)... Ngay cả Carl Karcher, cha đẻ của ngành thức ăn nhanh đã khởi nghiệp bằng việc bán xúc xích trên xe ngựa, cũng mở một loạt các quầy hàng thức ăn nhanh với tên gọi là Carl Jr.’s
Câu chuyện của McDonald's bắt đầu ở San Bernadio, bang California. Ray Kroc là một người bán hàng, chuyên cung cấp “milkshake - sữa lắc trước khi uống và thức ăn trộn” cho một cửa hàng thức ăn phục vụ lái xe và khách hàng qua đường của hai anh em Dick và Mac McDonald. Kroc ước tính rằng cửa hàng này chắc chắn bán được trên 2,000 hộp milkshake hàng tháng và từ đó, Kroc tò mò muốn biết nhiều hơn lí do tại sao công việc kinh doanh của 2 anh em nhà McDonald lại phát đạt đến thế.
Ông ta tới thăm cửa hàng “phục vụ nhanh” này và cực kỳ kinh ngạc trước tốc độ phục vụ món Hamburger ở đây: 15 giây cho một chiếc bánh hamburger 15 cent với khoai tây và sữa lắc. Kroc nhìn thấy tiềm năng phát triển của công việc kinh doanh này và quyết định tham gia vào. Anh em nhà McDonald đã đồng ý với lời đề nghị của Kroc về việc mua lại bản quyền “quán ăn nhanh”. Và ngày 15 tháng 4 năm 1955, Kroc khai trương cửa hàng McDonald’s phục vụ thức ăn nhanh đầu tiên tại Des Plaines, ngoại ô phía bắc Chicago.
Với tốc độ phát triển cực nhanh, hệ thống các cửa hàng McDonald’s bán được hơn 100 triệu chiếc bánh hamburger trong vòng 3 năm đầu tiên và cửa hàng McDonald's thứ 100 được khai trương 4 năm sau đó, năm 1959. Tới năm 1961, Kroc trả 2.7 triệu đô la Mỹ mua hết toàn bộ quyền lợi từ anh em nhà McDonald và năm 1963, việc bán chiếc bánh hamburger thứ một tỉ đã được truyền hình trực tiếp trên tivi vào giờ quảng cáo cao điểm.
McDonald’s không chỉ phổ biến ở trong nước Mỹ mà còn nhanh chóng có được những thành công trên thị trường quốc tế như Canada, Nhật Bản, Úc và Đức. Ngày nay, có khoảng 1.5 triệu người làm việc cho McDonald’s trên toàn thế giới. Khởi đầu McDonald’s chỉ là một hiện tượng của nước Mỹ nhưng nay nó đã trở thành một thương hiệu quốc tế đích thực.
Từ một cửa hàng gia đình phục vụ đồ ăn rất nhỏ, McDonald’s đã phát triển thành một hệ thống các cửa hàng phục vụ nhanh với giá trị hàng tỉ đôla Mỹ. Khi mà bánh hamburger và khoai tây chiên vẫn là chỗ dựa chính cho hoạt động kinh doanh của McDonald's thì khả năng đoán trước và đáp ứng được nhu cầu thực sự của khách hàng chính là thành công lớn nhất của họ.
Một ví dụ rõ nhất là bánh sandwich File-O-Fish, được làm bởi Lou Groen, chủ cửa hàng chi nhánh ở Cincinati, khu vực tập trung phần lớn người theo đạo Thiên Chúa giáo. Groen nhận thấy công việc kinh doanh của mình hoạt động không tốt vào các ngày thứ 6 – ngày mà người theo đạo Thiên Chúa Giáo không ăn các món có thịt. Groen đã đưa ra món bánh sandwich nhân cá, đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương. Loại bánh xăng-uých “File-O-Fish” này được bán đầu tiên năm 1963 và đã nhanh chóng trở thành một món trong thực đơn được ưa thích ở tất cả các cửa hàng McDonald’s khắp thế giới.
Tiếp theo đó, năm 1968 thì Big Mac, món bánh sandwich thành công nhất của McDonald được làm bởi nhà hàng Jim Deligatti thuộc Pittsburg. Và 9 năm sau, cũng nhà hàng trên, họ phục vụ thực đơn bữa sáng cho những người lái xe. Và điều này đã làm thay đổi thói quen ăn sáng của hàng triệu người Mỹ.
McDonald’s thành công vẻ vang nhờ vào óc thực tế, sáng tạo (innovation) cũng như sự linh hoạt, biết thích ứng vào khung cảnh xã hội và của từng quốc gia riêng biệt.Món chủ lực chính của McDonald’s là bánh mì hamburger ăn với khoai Tây chiên (French fries) kèm theo Coke. Để đáp ứng với nhu cầu của thị trường ăn uống, McDonald’s ngày nay đã thêm vào menu nhiều món mới lạ, làm từ cá, thịt gà, gan, thịt cừu, McRib, và họ còn chơi luôn cả món pizza nữa… Đầu tháng 8 năm 2006, McDonald’s cho tung ra món Snack wrap, gồm có thịt gà, salade, sauce, và tất cả được cuốn lại trong một loại bánh mềm tortilla. Theo quảng cáo, thì đây là một món ăn nhanh, rất tiện và rất bổ với giá bán chỉ có 1,29$
Những điều có thể bạn chưa biết về Mc Donald
·
McDonald’s phục vụ khoảng 45 triệu người mỗi ngày trên toàn thế giới - với doanh thu trên 20 triệu đôla ở nước Mỹ và hơn 25 triệu đôla ở toàn bộ các nước khác.
· Cứ cách nhau 8 tiếng lại có thêm một cửa hàng McDonald’s được khai trương ở đâu đó trên thế giới.
· Trung bình một ngày có khoảng 8% thanh niên Mỹ đến ăn ở McDonald’s.
· Cửa hàng “MeSki” đầu tiên được khai trương ở Lindvallen, Thụy Điển năm 1996, tại đây khách hàng có thể thưởng thức chiếc bánh BigMac, ca cao nóng hay một miếng bánh táo trên con đường dốc trượt mà không cần phải cởi bỏ các dụng cụ trượt tuyết.
· Việc đầu tư 2,250 đô la Mỹ cho 100 cổ phiếu của McDonald’s năm 1965 đến ngày 30 tháng 9 năm 1999 đã tăng lên 74,360 cổ phiếu và trị giá là 3.2 triệu đô la Mỹ.
· Ronald McDonald có thể nói được hơn 25 thứ tiếng, bao gồm cả tiếng Quảng Đông, Bồ Đào Nha, Hindu, Talalog và tiếng Nga.
· Từ năm 1984, các tổ chức nhà từ thiện mang tên Ronald McDonald’s (RMHC) – Ronald McDonald đã đóng góp gần 250 triệu đô la Mỹ với mục đích tài trợ các chương trình vì trẻ em.
Nối tiếp thành công đó của nhãn hàng McDonald’s, chuỗi cửa hàng KFC xuất hiện với một thể loại thức ăn nhanh khác là gà rán. KFC (trước đây viết tắt trong tiếng Anh của Kentucky Fried Chicken, còn gọi là Gà rán Kentucky trong tiếng Việt) là nhãn hiệu của loạt cửa hàng ăn nhanh được đánh giá nổi tiếng thứ hai trên thế giới sau McDonald's. KFC chủ yếu kinh doanh các món ăn nhanh làm từ gà và món nổi tiếng nhất là Gà rán Kentucky do ông Harland Sanders sáng chế.
Câu chuyện KFC khởi đầu bằng một giấc mơ của một người đáng kính: Ông Harland Sanders, sinh ngày 9/9/1890 tại Henryville, bang Indiana - Mỹ và mất ngày 16/12/1980. Ngay từ thuở nhỏ, ông đã có năng khiếu nấu ăn và có thể nấu được rất nhiều món đặc trưng của vùng. Chính vì niềm đam mê nấu ăn nên ông luôn luôn thử nghiệm, tìm tòi nhiều hỗn hợp gia vị khác nhau và ông đã tạo ra món Gà Rán Kentucky thật độc đáo như ngày nay
Năm 1939 Colonel Harland Sander giới thiệu với thế giới mùi vị sản phẩm sáng tạo nhất của mình, công thức nguyên bản của món Gà rán Kentucky. Từ đó hàng triệu người trên thế giới đã rất thích thú đến nhà hàng của ông để thưởng thức các món ăn kèm theo bánh bích quy tươi và nóng.
Colonel Harland Sandner sinh ngày 9 tháng 9 năm 1890, bắt đầu tích cực tham gia vào công cuộc kinh doanh thịt gà của mình ở độ tuổi 65. Hiện nay doanh nghiệp KFC mà ông gây dựng đã lớn mạnh trở thành một trong những hệ thống dịch vụ cung cấp thức ăn nhanh lớn nhất thế giới. Và Colonel Sander một người tiên phong cho dịch vụ nhà hàng ăn nhanh đã trở thành một biểu tượng của tinh thần điều hành.
Năm 40 tuổi ông bắt đầu nấu ăn cho những vị khách du lịch đói bụng dừng chân ở sân ga ở Corbin, Kentucky. Ông không có một nhà hàng nào cả mà phục vụ trên một cái bàn ăn tối của ông trong một phần tư phòng khách của ga.
Khi có thêm nhiều người biết đến các món ăn của mình, ông chuyển sang một nhà hàng và khách sạn với 142 chỗ ngồi. Hơn 9 năm sau ông đã hoàn thành một thực đơn hoàn chỉnh và các kĩ thuật nấu ăn căn bản vẫn được sử dụng để làm gà cho đến tận ngày hôm nay. Tên tuổi của Sander ngày càng nổi tiếng, thống đốc Ruby Laffoon phong ông làm đại tá ở Kentucky năm 1935 công nhận đóng góp của ông trong việc tạo ra kĩ thuật nấu nướng.
Tuy nhiên vào đầu những năm 50 một đại lộ giữa các tiểu bang vòng qua thị trấn của Corbin được lên kế hoạch xây dựng, Sander bán đấu giá các tài sản khi nhận thấy đây là điểm kết thúc cho công việc kinh doanh của mình. Tin tưởng vào chất lượng thịt gà rán của mình, ông đã đi du lịch vòng quanh đất nước bằng ô tô từ nhà hàng này đến nhà hàng khác, nấu món gà cho các chủ nhà hàng để họ nhận xét. Sẽ có một bản hợp đồng thỏa thuận nhà hàng sẽ trả cho ông một Niken khi muốn bán thịt gà rán của ông.
Năm 1964 Sander có thêm hơn 600 đại lí được cấp quyền kinh doanh thịt gà ở Mỹ và Canada. Vào năm đó ông đã chuyển nhựợng niềm đam mê của mình cho Jonh Brown, người sau này là thống đốc bang Kentucky từ năm 1980 đến năm 1984, với giá 2 triệu USD. Tuy nhiên KFC một lần nữa thay đổi chủ, Heublien Inc giành được KFC với 285 triệu đôla vào ngày 8 tháng 7 năm 1971, Heublien đã phát triển hơn 3.500 nhà hàng rộng rãi trên toàn thế giới. Sau đó Kentucky lại trở thành một thành viên của Pepsi Co và đến tháng 1 năm 1997 Pepsi Co Inc thông báo về việc tách các nhãn hiệu con của nó, họ gộp chung 4 nhãn hiệu KFC, Taco Bell và Pizza Hut thành một công ty độc lập là Tricon Global Restaurants.
Vào tháng 5 năm 2002 công ty tuyên bố thay đổi tên thành Yum. Công ty này sở hữu A&W, All – American Food Restaurants, hệ thống các nhà hàng KFC, Long Jonh Silvers, Pizza Hut và Taco Bell, đây là một công ty lớn nhất thế giới về số lượng quán ăn, nhà hàng với gần 32.500 đại lí trên hơn 100 quốc gia trên thế giới.
Trong các năm 2004 và 2005, KFC đã khởi nguồn thành công với một chiến dịch mang tên “singing soul” tiếp bước từ sự thành công của chiến dịch “Soul Food” năm 2003 và 2004. Chiến lược “Soul Food” đã giúp KFC tạo được một hệ thống nhận diện thương hiệu hoàn chỉnh và xây dựng được một mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng. Thừa hưởng sự thắng lợi đó, “singing soul” hiện nay đã đưa thương hiệu KFC phát triển vượt bậc.
Tập đoàn KFC đặt cơ sở tại Louisville, với một hệ thống nhà hàng các món gà phổ biến nhất thế giới. Ở nước Anh KFC đã xây dựng cho mình 1 hệ thống 680 kho hàng dùng cho dự trữ gà. Toàn bộ KFC thuộc sở hữu của tập đoàn Yum đang hoạt động với hơn 33.000 nhà hàng trên hơn 100 quốc gia trên thế giới. Bốn công ty KFC, Pizza Hut, Taco Bell và Long Jonh Siver là những thương hiệu hàng đầu của Yum toàn cầu! Những công ty này mở khoảng ba quán ăn mỗi ngày và là những nhà hàng công nghiệp bán lẻ quốc tế lớn mạnh nhất.
NHỮNG ĐIỀU CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT VỀ THƯƠNG HIỆU KFC
· Mỗi ngày, KFC đón tiếp gần 8 triệu khách hàng trên toàn thế giới.
· Hàng năm, hơn một tỉ “finger lickin” thịt gà ngon được phục vụ cho các bữa ăn chính.
· Thịt gà được chế biến từ cùng một công thức mà Colonel Harland Sander đã sáng tạo ra hơn nửa thế kỉ trước.
· Người tiêu dùng trên toàn cầu đã sử dụng hơn 300 sản phẩm khác được chế biến từ Chunky Chicken Pot Pie ở Mỹ tới bánh sanwich cá hồi ở Nhật Bản.
· Hơn 50 năm trước, Colonel Sander đã phát minh ra “sự thay thế thức ăn ở nhà” – bán thức ăn đầy đủ cho các gia đình bận rộn.
· Trong nhiều năm, Colonel Sander đã cất giữ công thức pha chế trong đầu của mình và ngày nay công thức này được cất giữ an toàn ở Louisville. Tại Kentucky. chỉ có một số ít người biết công thức đáng giá hàng triệu đolla đó (và họ họ đã kí những giao kèo đảm bảo sự bí mật của công thức này)
1.1.1.2 Hiện trạng đề tài:
Công nghiệp dịch vụ thực phẩm Anh
Trong những năm gần đây khách hàng của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thực phẩm đã suy giảm mạnh do sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu cùng với sự giảm sút của tốc độ sản xuất tổng lượng sản xuất nội địa và số lượng du khách quốc tế đến vương quốc Anh. Hơn nữa nỗi sợ mập phì của người tiêu dùng đang hướng họ tới nguồn thực phẩm an toàn có lợi cho sức khoẻ.
Mặc dù những nhân tố này không tác động đến việc bán hàng, nền công nghiệp dịch vụ thực phẩm Anh vẫn tỏ ra linh động hơn cả sự mong đợi của các nhà phân tích và các chuyên gia với sự tăng trưởng 25% từ năm 1999 và vươn tới giá trị hàng hoá bán ra là 26.5 tỉ trong năm 2004 (theo Mintel).
Đơn vị số lượng khách hàng của dịch vụ này đứng ở mức 177.6 nghìn vào năm 2003, tăng 6.8% so với năm 1999. Năm 2003 đã có 5.224 triệu vụ giao dịch, tăng 15.6% so với năm 1999 (theo Euromonitor). Thức ăn nhanh tiếp tục thể hiện sự tích cực của nó trong suốt giai đoạn vừa qua khi chiếm 53.6% các giao dịch về dịch vụ thực phẩm năm 2003, vượt mức thị phần của nó 52.2% vào năm 1999 (theo : Euromonitor)
Thương hiệu Mỹ chinh phục toàn thế giới
McDonald’s là thương hiệu thống lĩnh và có tốc độ tăng trưởng lớn nhất trong thị trường đồ ăn nhanh ở 120 nước trên 6 châu lục. McDonald’s hoạt động với trên 29,000 cửa hàng trên toàn thế giới và theo ước tính thì doanh thu tổng cộng năm 2000 đã là hơn 40 tỉ đô la Mỹ. Chỉ có một vài thương hiệu có thể sánh ngang với McDonald’s về sức mạnh thương hiệu và sự hiện diện khắp nơi của biểu tượng Golden Arches (hình chữ M vòng cung màu vàng). Tuy nhiên, McDonald's vẫn được đánh giá là thương hiệu mạnh nhất theo nghiên cứu của Interbrand, công ty tư vấn thương hiệu hàng đầu trên thế giới.
Nghiên cứu trên điểm lại toàn bộ các diễn biến, từng bước phát triển của các thương hiệu hàng đầu và đưa ra đánh giá, ước lượng giá trị của từng thương hiệu. Interbrand đã kết luận rằng: “Không có một thương hiệu nào có thể đem ra so sánh với McDonald’s về ý tưởng xây dựng thương hiệu, cách thực hiện và sức hấp dẫn kéo dài, lan rộng nhanh chóng của nó. McDonald’s là một thương hiệu Mỹ chinh phục toàn thế giới với sức mạnh của hai yếu tố khá là khác biệt – văn hóa và thương mại”. McDonald’s bắt đầu từ nước Mỹ nhưng đã nhanh chóng trở nên phổ biến trên toàn thế giới.
McDonald’s cam kết sẽ trở thành một thành viên đắc lực của cộng đồng. Các tổ chức từ thiện mang tên Ronald McDonal (RMHC) đã đóng góp gần 250 triệu đôla Mỹ với mục đích tài trợ các chương trình vì trẻ em trên toàn thế giới từ năm 1984. Cơ sở của RMHC là chương trình Ngôi nhà Ronald McDonald, chương trình tài trợ cho các gia đình có trẻ em bị bệnh hiểm nghèo để các em có thể được điều trị ở các bệnh viện gần nhà nhất. Ngôi nhà Ronald McDonald đầu tiên được mở ở Philadenphia năm 1974 và hiện nay trên thế giới có khoảng 200 ngôi nhà như thế.
Việt Nam - Thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới
Năm ngoái, Việt Nam chỉ xếp thứ 4 trong số những thị trường bán lẻ "hot" nhất thế giới. Theo các chuyên gia của A.T. Kearney, Việt Nam đạt được bước tiến ấn tượng trong năm nay là nhờ kinh tế tăng trưởng mạnh, thể chế chính sách đang cải tiến theo hướng thân thiện với nhà đầu tư nước ngoài và đặc biệt là nhu cầu của người tiêu dùng về những mô hình bán lẻ hiện đại.
Theo Mike Moriarty, trưởng bộ phận nghiên cứu về tiêu dùng và bán lẻ của A.T. Kearney, quy mô thị trường bản lẻ ở Việt Nam còn nhỏ, song vẫn rất hấp dẫn bởi áp lực cạnh tranh chưa lớn, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên dưới 8%. Bên cạnh đó, người tiêu dùng Việt Nam thuộc hàng trẻ nhất ở châu Á và ngày càng mạnh tay chi tiêu.Các tập đoàn bán lẻ lớn của nước ngoài như Metro của Đức, Casino của Pháp, Parkson... đều đã có mặt ở Việt Nam. Một tập đoàn bán lẻ của Canada cũng đã công bố kế hoạch khai trương chuỗi cửa hàng tiện lợi mang tên Circle K ở Việt Nam.
Chuyên gia của A.T. Kearney ước tính quy mô thị trường bán lẻ Việt Nam vào khoảng 20 tỷ USD. Song theo số liệu công bố trong nước, doanh số bán lẻ năm nay sẽ tăng khoảng 20,5% lên 975 nghìn tỷ đồng, tương đương 54,3 tỷ USD.
Sau 3 năm duy trì vị trí số 1, Ấn Độ năm nay phải lùi xuống sau Việt Nam. Kế đó là Nga, Trung Quốc, Ai Cập, Morocco và Ảrập Xêút.
A.T. Kearney bắt đầu công bố GRDI từ năm 2001, trong đó đánh giá về độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ ở những nền kinh tế mới nổi, dựa trên 25 yếu tố khách nhau, bao gồm cả rủi ro kinh tế, chính trị, mức độ hấp dẫn cũng như bão hòa của thị trường bán lẻ.
Việt Nam với hơn 80 triệu dân, trong đó 65% là dân số trẻ ở độ tuổi dưới 35 và tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2005 dự kiến lên đến 8,5% cũng đang là thị trường hấp dẫn các tập đoàn kinh doanh thức ăn nhanh (fastfood).
Theo số liệu khảo sát 14.134 người tiêu dùng ở 28 quốc gia của AC Nielsen vào cuối năm 2004 cho thấy châu Á là thị trường tiêu thụ thức ăn nhanh tăng trưởng nóng nhất trên thế giới. Chỉ riêng khu vực châu Á Thái Bình Dương, có 30% người tiêu dùng ăn ở ngoài ít nhất 1 lần/tuần.
Cụ thể tỷ lệ phần trăm dân số ăn ở ngoài gia đình ít nhất 1 tuần/lần là Hồng Kông 61%, Malaysia 59%, Philippines 54%, Singapore 50%...
Thức ăn nhanh tại thị trường Việt Nam - Người đẹp đang ngủ
Cũng theo kết quả nghiên cứu của AC Nielsen, Việt Nam là thị trường sơ khai của fastfood khi mới có khoảng 8% người tiêu dùng dùng thức ăn nhanh từ 1-3 lần/tháng. Con số này quá ít so với các nước lân cận như Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc, ấn Độ có hơn 70% người tiêu dùng ăn thức ăn nhanh ít nhất 1 lần/tháng.
Và số lượng khoảng 90% người tiêu dùng Việt Nam chưa quen với thức ăn nhanh sẽ là cơ hội để các nhà kinh doanh khai thác. Ông Leo Maglasang, người quản lý đại diện cho Tập đoàn Jollibee tại Việt Nam nói: "Chúng tôi đánh giá đây là thị trường tiềm năng và sẽ tăng trưởng rất tốt trong thời gian sắp tới nên đích thân tập đoàn sẽ đầu tư vốn lớn hàng triệu USD, tổ chức các lớp học bài bản, đưa người Việt Nam ra nước ngoài huấn luyện để chuẩn bị mở hàng loạt cửa hàng thức ăn nhanh tại các tỉnh và thành phố lớn trên toàn Việt Nam".
Cho đến nay, nếu chỉ tính các điểm bán thiết kế theo hệ thống có thương hiệu như KFC, Lotteria, Jollibee, Chicken Town, Manhattan... thì chỉ có 27 cửa hàng, bên cạnh đó còn có hơn 30 nhà hàng, tiệm bánh quy mô nhỏ đặt trong các siêu thị, trung tâm thương mại, khu vực dân cư đông đúc... chuyên bán bánh pizza, hamburger, mì Ý, salad trộn... với các hiệu Win Chicken, Monaco, Hollywood, Mama... Đó là chưa kể đến hệ thống hàng trăm xe đẩy, tiệm bán thức ăn nhanh theo kiểu Việt Nam với bánh tươi, bánh mì kẹp thịt, các loại bánh làm từ gạo, nếp...
Hiện KFC, Lotteria và Jollibee là 3 thương hiệu của nước ngoài đang kinh doanh fastfood khá thành công tại Việt Nam với các món chính là gà chiên, bánh mì kẹp thịt, khoai tây chiên và nước ngọt có gas. Các cửa hàng này bình quân thu hút khoảng 200-300 khách/ngày và cao điểm có từ 400 đến trên 1.000 khách/ngày.
Thức ăn nhanh tại thị trường Việt Nam - Đứa bé chậm lớn
Tại Việt Nam, kể từ khi cửa hàng thức ăn nhanh đầu tiên xuất hiện tại TP.HCM năm 1994 (Chicken Texas trên đường Nguyễn Trãi, Quận 1), đến nay đã xuất hiện những chuỗi cửa hàng fastfood theo các phong cách Âu, Mỹ, Á pha trộn với thói quen ẩm thực kiểu Việt Nam. Bên cạnh bánh mì kẹp thịt Hamburger, gà chiên, khoai tây trộn xốt có cơm cajun, salad bắp cải, salad bắp non...
Jollibee có thể coi là sự "hòa nhập" linh hoạt của phong cách fastfood với đời sống cộng đồng. Ở những điểm bán fastfood khác, phong cách "công nghiệp" dường như giảm hẳn, khách hàng không cần "tự phục vụ" mà các nhân viên sẽ mang thức ăn, thức uống tận bàn. Sự thay đổi này ở một khía cạnh nào đó, đã làm cho phong cách fastfood - với 15 giây 1 ổ bánh mì, khoai tây và nước không còn nữa.
Có một lý do khá bất ngờ, mà theo người quản lý các cửa hàng fastfood, làm cho thị trường fastfood Việt Nam phát triển chậm hơn so với các nước châu Á khác, là do giao thông bằng xe gắn máy không thuận tiện và không tạo cơ hội cho người tiêu dùng có thể vừa lái xe, vừa dùng thức ăn nhanh.
Nhà kinh doanh hy vọng, với tốc độ đô thị hóa, các phương tiện giao thông công cộng phát triển sẽ tạo đà cho thị trường fastfood tăng trưởng nhanh hơn.
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC SÁNG TÁC:
2.1 Trình bày cách thức tổ chức sáng tác:
2.1.1 Các giai đoạn tổ chức sáng tác:
Thương hiệu là cuộc sống, là biểu tượng sức mạnh về kinh tế là yếu tố quan trọng để khẳng định năng lực của doanh nghiệp bạn, cách duy nhất để làm chủ thị trường là làm chủ thương hiệu, nếu không ai biết đến thuơng hiệu làm sao bạn có cơ hội kinh doanh thành công? “Bộ nhận diện thương hiệu” luôn đi kèm với thương hiệu của doanh nghiệp. Một Lôgô đẹp, dễ nhận biết sẽ nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp, dễ dàng đi sâu vào tiềm thức của khách hàng.
Các mẫu thiết kế luôn đặc biệt chú trọng đến tính thẩm mỹ, đúng chủ đề, ngành nghề sản phẩm nhằm truyền tải đến người xem những thông điệp ngắn gọn nhất, cô đọng nhất về sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp.
Thực hiện quá trình sáng tạo thiết kế theo các bước:
Thu thập tích lũy tư lệu và tài liệu, dữ kiện có liên quan đến doanh nghiệp cần quảng cáo: Mc Donald, KFC, Loteria….
Nghiên cứu lịch sử, đặc điểm, tính chất của đề tài dựa trên những tài liệu đã thu thập.
Lựa chọn, tổ chức, tổng hợp, phân loại các tư liệu phù hợp với tư duy sáng tạo của mình.
Tổng hợp phân tích để đảm bảo các yêu cầu của thiết kế bộ nhận diện thương hiệu
Tìm ý tưởng và định hướng thiết kế trên bản vẽ.
Thực hiện phác thảo, lựa chọn, chỉnh sửa (với sự góp ý, hướng dẫn của giảng viên).
Hoàn thiện phác thảo thiết kế bộ nhận diện thương hiệu và thực hiện bản thiết kế.
Sắp xếp bố cục.
Hoàn thành thể hiện.
2.2 Mô tả phương pháp và kỹ thuật thiết kế:
2.2.1 Đề tài nghiên cứu:
Tên thương hiệu:
Về mặt ý nghĩa:
Handy được dịch sang tiếng Việt mang nghĩa là thuận tiện
Về mặt tạo hình:
Thương hiệu Handy được người thiết kế sắp đặt theo ý đồ ghép 2 chữ cái:
“H and Y” mang ý nghĩa “Handy and Yummy”
(dịch sang tiếng Việt có nghĩa là “Thuận tiện và ngon miệng”)
Tên thương hiệu “Handy” sử dụng type-face đơn giản, rõ ràng, dễ đọc nhưng không quá khô cứng cho một thương hiệu thực phẩm.
Về màu sắc:
Màu trắng được sử dụng cho 2 ký tự H, Y tạo cảm giác rõ ràng và sạch sẽ, tạo cảm giác yên tâm và tin tưởng nơi khách hàng.
Màu đỏ được sử dụng cho 3 ký tự A, N và D mục đích dẫn dắt người nhìn đến ý đồ của người thiết kế, gây hiệu quả thị giác, đưa thông điệp H and Y – Handy and Yummy đến người tiêu dùng.
Tên thương hiệu được nhà thiết kế sắp đặt trên một nền màu cam tạo cảm giác vững chãi chắc chắn như sự tồn tại và uy tín của thương hiệu
Logo:
Về ý nghĩa:
Logo của Handy được sáng tạo dựa trên sự kết hợp giữa 2 phần là phần hình và phần ký tự:
Phần hình là icon tượng trưng cho hình ảnh Hamburger – sản phẩm của thương hiệu
Phần ký tự sử dụng ký tự “&” để diễn tả 3 ký tự A, N và D trong tên thương hiệu, mục đích chắt lọc thông điệp từ tên thương hiệu.
Ký tự “&” trong logo của Handy được sử dụng như một dấu nhắc, một lần nữa nhắc lại trong tâm trí người nhìn thông điệp “H and Y”
Về màu sắc:
Màu vàng cam thể hiện sự ngon miệng, biểu tượng cho sức nóng, màu thực phẩm được chế biến bằng những phương pháp chiên, nướng …
Màu đỏ là màu của năng lượng, gây kích thích, thu hút sự chú ý, thích hợp sử dụng cho các điểm bán lẻ…
Màu xanh lá cây là màu của tự nhiên, biểu thị cho sức khỏe, lòng tin tưởng, màu của thực phẩm xanh như rau, củ ….
Kích thước của Logo:
Logo Handy có kích thước chuẩn được quy định như sau:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu và phân tích chiến lược maketting của sản phẩm Handy Fast Food.doc