Trong sự phát triển của mình ,các ngành phải trải qua các giai đoạn từ tăng trưởng đến bảo hòa và cuối cùng là suy thoái. Ngành sữa là một trong những ngành có tính ổn định cao, ít bị tác động bởi chu kỳ kinh tế. Việt Nam đang là quốc gia có tốc độ tăng trưởng ngành sữa khá cao trong khu vực. Giai đoạn 1996-2006, mức tăng trường bình quân mỗi năm của ngành đạt 15,2%, chỉ thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng 16,1%/năm của Trung Quốc.
Ngành sữa là ngành đang trong giai đoạn phát triển, hiện nay nhu cầu về sữa ngày càng tăng, và sản phẩm sữa trở thành sản phẩm thiết yếu hàng ngày, với công nghệ ngày càng hiện đại, hệ thống kênh phân phối hiệu quả và giá cả hợp lý thì ngành sữa sẽ tiếp tục phát triển hơn trong tương lai.
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5016 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng chiến lược kinh doanh Công ty cổ phần sữa Vinamilk (giai đoạn 2011-2016), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỉnh kế hoạch sản xuất cho phù hợp.
Những năm qua, Công ty tham gia tích cực và đều đặn công tác xã hội như đền ơn, đáp nghĩa; phụng dưỡng suốt đời 20 Mẹ Việt Nam anh hùng tại 2 tỉnh Quảng Nam và Bến Tre; xoá đói, giảm nghèo; cứu trợ nhân dân vùng bị bão lụt, đóng góp các quỹ : Vì Trường Sa thân yêu; góp đá xây Trường Sa; Bảo trợ bệnh nhân nghèo, chất độc da cam; tài năng trẻ, Vươn cao Việt Nam, chống suy dinh dưỡng ở trẻ em; Học bổng trẻ em vùng lũ...
Tổng thể trong suốt chặng đường 35 năm qua, Công ty Cổ phần Sữa Việt nam với nhiều thế hệ được vun đắp, trưởng thành; với thương hiệu VINAMILK quen thuộc nổi tiếng trong và ngoài nước đã làm tròn xuất sắc chức năng của một đơn vị kinh tế đối với Nhà nước, trở thành một điểm sáng rất đáng trân trọng trong thời hội nhập WTO. Bản lĩnh của công ty là luôn năng động, sáng tạo, đột phá tìm một hướng đi, một mô hình kinh tế có hiệu quả nhất, thích hợp nhất nhưng không đi chệch hướng chủ trương của Đảng.
Cơ cấu tổ chức và kinh doanh
Nguồn: 2011/linh tinh/so do to chuc_2011.jpg
Sứ mệnh, mục tiêu và giá trị cốt lõi của doanh nghiệp
TẦM NHÌN “Trở thành biểu tượng niềm tin số một Việt Nam về sản phẩm dinh dưỡng và sức khỏe phục vụ cuộc sống con người”
SỨ MỆNH “Vinamilk cam kết mang đến cho cộng đồng nguồn dinh dưỡng tốt nhất, chất lượng nhất bằng chính sự trân trọng, tình yêu và trách nhiệm cao của mình với cuộc sống con người và xã hội”
GIÁ TRỊ CỐT LÕI
Chính trực: Liêm chính, Trung thực trong ứng xử và trong tất cả các giao dịch.
Tôn trọng: Tôn trọng bản thân, tôn trọng đồng nghiệp. Tôn trọng Công ty, tôn trọng đối tác. Hợp tác trong sự tôn trọng.
Công bằng: Công bằng với nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp và các bên liên quan khác.
Tuân thủ: Tuân thủ Luật pháp, Bộ Quy Tắc Ứng Xử và các quy chế, chính sách, quy định của Công ty.
Đạo đức: Tôn trọng các tiêu chuẩn đã được thiết lập và hành động một cách đạo đức.
Phân tích môi trường vĩ mô ngành sữa Việt Nam trong thời gian qua
Môi trường quốc tế
Tổng quan về thị trường sữa thế giới trong thời gian qua, chúng ta có thể thấy thị trường có sự tăng trưởng rất chậm do ảnh hưởng của suy thoái tài chính toàn cầu. Tổng sản lượng sữa năm 2010 so với năm 2009 tăng 1.8%, trong khi đó tổng thương mại tăng 5.2%. Nhu cầu về các sản phẩm sữa tăng nhiều hơn ở các nước đang phát triển (2.2%) trong khi hầu như không tăng ở các nước phát triển, thậm chỉ còn sụt giảm (-0.2%).
Thị trường sữa thế giới
Nguồn:
Với sự tăng trưởng sản lượng sữa thấp hơn sự tăng trưởng về tổng thương mại cho thấy sự thiếu hụt trong nguồn sữa, đặc biệt là sữa nguyên liệu. Điều này có thể dẫn tới việc các công ty sữa phải bù đắp lượng sữa tươi nguyên liệu bằng các dạng sữa bột khác, làm giảm chất lượng sản phẩm và giảm lợi ích của người tiêu dùng trên toàn thế giới.
Đầu vào cho ngành chế biến sữa bao gồm sữa tươi và sữa bột, trong đó sữa bột nguyên liệu bao gồm sữa bột gầy và sữa bột nguyên kem. Trên thế giới, giá sữa biến động khá thất thường do các yếu tố về cung và cầu. Trong khi nguồn cung phụ thuộc vào thiên tai dịch bệnh và các yếu tố ảnh hưởng tới số lượng đàn bò sữa, thì nhu cầu về sữa phụ thuộc nhiều vào tăng trưởng kinh tế và mức sống người dân.
Trong hình dưới đây chúng ta có thể thấy sự biến động giá sữa nguyên liệu giao ngay ở Tây Âu tại thời điểm từ tháng 2/2009 tới tháng 6/2011.
Biến động giá sữa bột gầy và sữa bột nguyên kem giao ngay (FOB) ở Tây Âu
Nguồn: Bloomberg
Giá sữa năm 2010 ít biến động, nhưng bắt đầu tăng mạnh kể từ đầu năm 2011. Giá sữa bột nguyên kem và sữa bột gầy đạt đỉnh vào khoảng giữa tháng 3/2011. Giá sữa nguyên kem giao ngay ở Tây Âu vào tháng 3/2011 vào khoảng 4.600 USD/tấn, tăng 31% so với thời điểm cuối năm 2010. Trong khi đó, giá sữa bột gầy cũng tăng mạnh, lên mức 3.860 USD/tấn vào tháng 3, tăng 29% so với đầu năm 2011. Đây là mức cao nhất đạt được kể từ năm 2009. Sự tăng giá này được lý giải một phần bởi nhu cầu nhập khẩu sữa nguyên liệu từ châu Á, đặc biệt là Trung Quốc tăng mạnh. Hơn nữa, thời điểm đó là thời điểm mùa khô ở New Zealand – thời điểm nguồn cung sữa có thể giảm. Một nguyên nhân khác là do giá lương thực thế giới tăng mạnh khiến chi phí đầu vào sản xuất sữa tăng cao và nhiều người lo ngại nguồn cung sữa sẽ bị hạn chế.
Tuy nhiên, lo ngại về sự hồi phục kinh tế toàn cầu có thể làm giảm nhu cầu tiêu dùng thế giới đã khiến giá sữa nguyên liệu bắt đầu giảm từ sau tháng 3, và tính đến tháng 6 giá sữa gầy đã giảm về mức tương đương với đầu năm.
Môi trường trong nước:
Môi trường kinh tế
Dung lượng thị trường: Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và tại đây đời sống người dân ngày càng được cải thiện đáng kể. Tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam cũng diễn ra nhanh chóng kéo theo nhu cầu về các mặt hàng sữa cũng tăng lên theo mức tăng của thu nhập. Vì vậy trong tương lai, dung lượng thị trường được dự báo tiếp tục tăng mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh sữa trong và ngoài nước.
Tỷ trọng các loại sữa trên thị trường Việt Nam
Nguồn: Euromonitor International
Trong một phân tích mới đây, CTCP Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) đã đưa ra những đánh giá khái quát về thị trường sữa Việt Nam. Theo đó, ngành sữa là một trong những ngành có tính ổn định cao, ít bị tác động bởi chu kỳ kinh tế. Việt Nam đang là quốc gia có tốc độ tăng trưởng ngành sữa khá cao trong khu vực. Giai đoạn 1996-2006, mức tăng trường bình quân mỗi năm của ngành đạt 15,2%, chỉ thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng 16,1%/năm của Trung Quốc.
Doanh thu ngành sữa Việt Nam (2004 – 2009)
Nguồn: EMI 2009a,b
Sản xuất sữa
Sản xuất sữa bột 5 tháng đầu năm 2011 đạt 24,1 nghìn tấn, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng sữa cao nhất vào tháng 4, đạt 5,6 nghìn tấn, tăng 14% so với tháng 4/2010. Tuy nhiên, mức tăng sản lượng theo năm ghi nhận cao nhất vào tháng 2, tăng 38% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 4,7 nghìn tấn. Sản lượng tăng mạnh như vậy vào tháng 2 và tháng 3 là để tranh thủ khi giá sữa đang ở mức cao.
Sản lượng sữa tháng 5 bắt đầu sụt giảm, chỉ đạt 3,9 nghìn tấn, giảm 22% so với cùng kỳ năm ngoái và 30% so với tháng trước.
Sản xuất sữa bột trong nước 5 tháng đầu năm 2011
Nguồn: Bộ công thương
Nhập khẩu sữa
Thông thường, sản lượng sữa trong nước sản xuất ra chỉ đáp ứng khoảng 25-30% nhu cầu, còn lại vẫn phải nhập khẩu.
Nhập khẩu sữa 5 tháng đầu năm 2011
Nguồn: Bộ công thương
Tháng 5/2011 cả nước đã nhập khẩu 75 triệu USD sữa và sản phẩm sữa, giảm 25% so với tháng liền kề nhưng tăng 7,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 5 tháng năm 2011, cả nước đã nhập khẩu 313 triệu USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2010.
Hoa Kỳ, New Zealand và Hà Lan là những thị trường chính cung cấp mặt hàng sữa và sản phẩm cho Việt Nam từ đầu năm. Nhìn chung, nhập khẩu sữa tăng mạnh trong tháng 2 và tháng 3, đặc biệt là tháng 3, nhưng sau đó chậm lại và thâm chí giảm trong tháng 4. Nguyên nhân có thể là do Thông tư 122. Theo đó, các nhà nhập khẩu sữa phải đăng ký giá bán với cơ quan chức năng trước khi đưa sản phẩm ra thị trường. Ngoài ra, tỷ giá liên tục lên cao cũng là một nguyên nhân khiến tốc độ tăng nhập khẩu sữa chậm lại.
Giá trị nhập khẩu sữa tại một số thị trường chính của Việt Nam
Nguồn: Tổng cục Hải Quan
Cạnh tranh trong ngành sữa Việt Nam
Hiện tại, đối thủ cạnh tranh gay gắt nhất với Vinamilk trên các thị trường chính như sữa đặc, sữa tươi… chính là Dutch Lady.
Lợi nhuận sản xuất và cấu thành giá bán lẻ của các công ty sữa Việt Nam
Nguồn: Jaccar, BVSC
Sản phẩm sữa đặc luôn là sản phẩm chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng doanh thu từ thị trường nội địa của Vinamilk. Đây cũng là sản phẩm có mức tăng trưởng doanh thu cao, với mức tăng bình quân giai đoạn 2004-2007 là 22,7%.
Hiện tại thị trường sữa đặc của Việt Nam chủ yếu thuộc về Vinamilk và Dutch Lady. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, từ năm 2000 đến năm 2007 lượng sữa đặc do các công ty trong nước sản xuất đã tăng rất nhanh, và lớn hơn 3 lần lượng sữa đặc do các công ty nước ngoài sản xuất tại Việt Nam.
Số lượng hộp sữa đặc được sản xuất tại Việt Nam mỗi năm
Nguồn: Tổng cục thống kê
Sản phẩm sữa nước là sản phẩm chiếm tỷ trọng trên doanh thu đứng thứ hai của Vinamilk, chủ yếu được tiêu thụ nội địa, và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 31% trong giai đoạn 2004-2007. Theo thống kê của AC Nielsen, Vinamilk chiếm khoảng 35% thị phần thị trường sữa nước nội địa năm 2007.
Sữa nước là phân khúc thị trường có mức độ cạnh tranh rất cao, do đa số các công ty sữa trong nước như Vinamilk, Dutch Lady, Nestle, Nutifood, Hanoimilk... đều sản xuất sữa nước. Đối thủ lớn nhất của Vinamilk trên thị trường này vẫn là Dutch Lady với thị phần tương đương.
Sữa nước có thể sẽ là sản phẩm trọng tâm phát triển của Vinamilk trong thời gian tới. Thói quen tiêu thụ các sản phẩm sữa tự nhiên đang được hình thành đối với khu vực dân cư có thu nhập cao và sẽ trở thành xu thế chung của thị trường trong tương lai giống như tại các quốc gia phát triển. Do vậy thị trường sữa nước là thị trường có tiềm năng tăng trưởng cao hơn so với thị trường các loại sản phẩm sữa.
Cạnh tranh trực tiếp trên thị trường sữa Việt Nam
Nguồn: Internet
Trong đó, thị phần các hang về doanh thu sản phẩm sữa nước lần lượt thuộc về các hãng như Vinamilk, Friesland Campina (Dutch Lady), Nestle, Mead Johnson, Fonterrra Brands, Hanoimilk. Thị trường này cạnh tranh rất quyết liệt và thường xuyên xảy ra sự giành giật thị phần. Từ năm 2004 tới năm 2008 vị trí dẫn đầu về sữa nước của Vinamilk bị giành lấy bởi Dutch Lady, và sự giành giật thị phần trong những năm gần đây đã mang lại vị thế gần ngang bằng giữa hai công ty này trên thị trường sữa nước Việt Nam.
Thị phần các hãng về doanh thu sản phẩm sữa nước (%)
Nguồn: EMI 2009b
Nếu nhận xét về sản phẩm sữa nước của Dutch Lady so với Vinamilk, chúng ta có thể tổng kết trong bảng sau:
So sánh sản phẩm sữa nước của Dutch Lady và Vinamilk (thang điểm 5)
Tiêu chí
Dutch Lady
Vinamilk
Điểm trọng số
Chất lượng sản phẩm
4
4
3
Giá cả
4
3
3
Mẫu mã, bao bì
3
3
2
Mức độ nhận diện của người tiêu dùng
4
4
1
Thị phần
4
3
1
Lãnh đạo
4
4
1
Tài chính
4
4
1
Trung bình
3.83
3.5
Nguồn: tác giả tự khảo sát và đánh giá
Mặc dù sản phẩm và chất lượng sữa của Dutch Lady khá tốt nhưng cuối năm 2009, việc sữa uống Vivinal GOS gây dị ứng cho trẻ em Việt Nam khiến cho uy tín các loại sữa mới của công ty bị giảm sút. Bên cạnh việc phủ nhận sữa Vivinal GOS không có thành phần gây dị ứng đối với trẻ em Việt Nam, việc ứng xử thiếu kịp thời của Dutch Lady (ví dụ như phải hồi cho người tiêu dùng, thúc dục bộ Y tế sớm có kết luận chính thức bên cạnh những xét nghiệm của công ty tiến hành, họp báo công khai về kết quả của bộ Y tế) đã khiến cho dư luận đánh giá không tốt về hãng sữa này và làm suy giảm hình ảnh của Dutch Lady trong lòng người tiêu dùng.
Sản phẩm sữa bột của Vinamilk hiện được tiêu thụ tại cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong các năm 2005 và 2006, doanh thu từ sữa bột chiếm tỷ trọng cao chủ yếu là do doanh thu xuất khẩu sữa bột duy trì ở mức cao. Doanh thu sữa bột xuất khẩu bắt đầu có dấu hiệu phục hồi trở lại trong năm 2008, sau khi đãgiảm mạnh trong năm 2007.
Thị trường sữa bột công thức của Việt Nam
Nguồn: EMI 2009a
Vinamilk chiếm khoảng 13,8% thị phần sữa bột trong nước theo thống kê của AC Nielsen. Đây là thị trường chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của nhiều sản phẩm nhập khẩu như Abbott, Farley, X.O, Mead Johnson... định hướng phân khúc người tiêu dùng có thu nhập cao. Sản phẩm sữa bột Dielac của Vinamilk không có thế mạnh đáng kể so với với các sản phẩm nhập ngoại có chất lượng cao, được ưa chuộng và phân phối rộng rãi.
Bảng đánh giá các sản phẩm sữa bột trên thị trường Việt Nam
MỤC
VINAMIKL
ABOTT
ENFA
Lãnh đạo
7
10
9
Tài chính
6
10
10
Mẫu mã SP
5
9
9
Mạng lưới PP
8
7
7
Chất lượng SP
7
8
8
Thị phần
5
9
9
Độ nhận biết của khách hàng
5
9
9
Trung bình
6.1
8.8
8.7
Nguồn: tác giả tự đánh giá và tổng hợp
Mặc dù đây là một thị trường có tốc độ tăng trưởng nhanh trong khi lượng cung cấp trên thị trường chỉ đáp ứng được khoảng 20 – 28% nhu cầu. Hiện nay thị trường sữa bột Việt Nam đang bỏ ngỏ cho các doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh (85% giá trị thị trường).
Thị phần của một số hãng sữa lớn trên thị trường sữa bột Việt Nam
Nguồn: Cục quản lý cạnh tranh 2010
Theo đánh giá của một số chuyên gia ngành sữa và các chuyên gia dinh dưỡng, chất lượng của các sản phẩm sữa bột nguyên hộp nhập khẩu và chất lượng sản phẩm sữa bột thành phẩm do một số doanh nghiệp lớn trong nước sản xuất về cơ bản là tương đương. Các sản phẩm này đều đáp ứng được yêu cầu về các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển bình thường của trẻ.
Chỉ có một số sản phẩm sữa bột do các doanh nghiệp hay các cơ sở tư nhân nhỏ lẻ đóng gói thì chưa đạt yêu cầu về chất lượng. Đã có thực trạng thành phần và hàm lượng các chất dinh dưỡng thực tế có trong các sản phẩm sữa bột do các doanh nghiệp, cơ sở này sản xuất nhỏ hơn so với hàm lượng đã ghi trên nhãn mác và không đảm bảo yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tuy nhiên sự biến động giá nhanh của một số loại sữa bột (đặc biệt là sữa bột nhập khẩu) gây khó khăn và tổn hại rất lớn cho người tiêu dùng.
Đường trung bình giá của nhóm sản phẩm sữa bột trên thị trường các năm
Nguồn: Tổng hợp giá bán do các hãng sữa cung cấp, Cục quản lý cạnh tranh 2010
Nếu so sánh chất lượng sữa nội và sữa ngoại thì chúng ta thấy rằng có sự tương đương nhau nhờ vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu và khả năng cung cấp chất dinh dưỡng khá cân bằng. Tuy nhiên, giá sữa ngoại hiện nay cao hơn nhiều lần giá sữa nội bởi tâm lý sính ngoại của người dân Việt Nam. Trong khi Vinamilk cố giữ vững mức giá sữa bột trong nước thì các mặt hàng sữa ngoại tăng giá khá nhiều. Với mức giá nhập nguyên liệu hiện nay, 1kg sữa bột đã bổ sung các chất vi lượng và khoáng chất chỉ từ 50.000 - 60.000 đồng/kg, cộng thuế và chi phí đóng gói, vận chuyển… cũng chỉ lên tới 120.000 - 150.000 đồng/hộp 900g. Nhưng giá của các hãng sữa ngoại đang ở mức 305.000 - 425.000 đồng/hộp 900g, gấp 3 lần so với chi phí thực tế updated 6:50 PM, 21/06/2010, access on 00:16 dated 20/11/2011.
.
Mặc dù với mức thuế nhập khẩu khoảng 15%, thấp hơn mức cam kết WTO năm 2009 là 18% thì thực trạng giá sữa bột nhập khẩu cao như hiện nay là một nghịch lý và hậu quả do người tiêu dùng phải gánh chịu toàn bộ chi phí.
Một nghịch lý nữa theo bà Bùi Thị Hương, Giám đốc Đối ngoại, Công ty Cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk) là: “Các doanh nghiệp Việt Nam bị khống chế chi phí quảng cáo tiếp thị, nhưng các doanh nghiệp nước ngoài không bị khống chế các chi phí này. Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam phải có trách nhiệm nộp ngân sách, doanh nghiệp nước ngoài không phải chịu trách nhiệm đó. Lợi nhuận của doanh nghiệp nước ngoài ở nước ta, sau khi trừ chi phí, chuyển hết ra nước ngoài, về chính quốc của họ. Đó là những khác biệt rất lớn giữa doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài trong một sân chơi cạnh tranh không bình đẳng”.
Sản phẩm sữa chua chiếm khoảng 10% tổng doanh thu của Vinamilk và có mức tăng trưởng bình quân 26,2%/năm trong giai đoạn 2004 – 2007. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng doanh thu sữa chua đã giảm xuống mức 10% trong năm 2007, bởi Vinamilk hiện đã chiếm khoảng 97% thị phần thị trường sữa chua và khó có khả năng mở rộng thêm thị phần nhanh chóng.
Tỷ trọng doanh thu các dòng sản phẩm trong giai đoạn 2009-2010 có thể sẽ thay đổi theo hướng tỷ trọng doanh thu từ sản phẩm sữa nước và sữa bột sẽ ngày càng cao, trở thành những sản phẩm quan trọng nhất; tỷ trọng doanh thu sữa đặc và sữa chua sẽ thấp hơn do tiềm năng tăng trưởng thị trường của các sản phẩm sữa bột và sữa nước lớn hơn so với các sản phẩm khác. Đối thủ quan trọng nhất của Vinamilk trong nước vẫn sẽ là Dutch Lady, có khả năng cạnh tranh mạnh với Vinamilk trên cả 4 dòng sản phẩm sữa đặc, sữa nước, sữa bột và sữa chua.
Triển vọng ngành sữa 2011
Trong sự phát triển của mình ,các ngành phải trải qua các giai đoạn từ tăng trưởng đến bảo hòa và cuối cùng là suy thoái. Ngành sữa là một trong những ngành có tính ổn định cao, ít bị tác động bởi chu kỳ kinh tế. Việt Nam đang là quốc gia có tốc độ tăng trưởng ngành sữa khá cao trong khu vực. Giai đoạn 1996-2006, mức tăng trường bình quân mỗi năm của ngành đạt 15,2%, chỉ thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng 16,1%/năm của Trung Quốc.
Ngành sữa là ngành đang trong giai đoạn phát triển, hiện nay nhu cầu về sữa ngày càng tăng, và sản phẩm sữa trở thành sản phẩm thiết yếu hàng ngày, với công nghệ ngày càng hiện đại, hệ thống kênh phân phối hiệu quả và giá cả hợp lý thì ngành sữa sẽ tiếp tục phát triển hơn trong tương lai.
Môi trường nhân khẩu học
Trên cơ sở điều chỉnh Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2010 được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 10/2010/QĐ-TTg ngày 18/1/2010, Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lập kế hoạch phát triển tổng đàn bò sữa 2011 đạt 155.000 con tăng 10,71%. Sản lượng sữa tươi đạt 330 ngàn tấn tăng 10,0% so với năm 2010.
Như vậy, tiêu dùng sữa của người dân Việt là năm 2011 là khoảng 14/kg/năm/người thì tổng sản lượng năm 2011 nếu đạt kế hoạch cũng chỉ đủ đáp ứng khoảng 30% lượng tiêu dùng nội địa, còn lại 70% lượng tiêu dùng sẽ phải phụ thuộc vào sữa nhập khẩu.
Dự báo phát triển ngành sữa Việt Nam
Nguồn: APHCA 2007, BMI, Tổng cục thống kê, BVSC tổng hợp và dự báo
Quy mô thị trường sữa Việt Nam (2007E – 2010F)
Nguồn: VDSC
Theo số liệu thống kê, thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam năm 2006 là 7,6 triệu đồng. Người thành thị thu nhập bình quân cao hơn người nông thôn 2,04 lần. Chênh lệch giữa nhóm 10% người giàu nhất với nhóm 10% người nghèo nhất là 13,5 lần (2004) và ngày càng tăng. Thu nhập bình quân của đồng bào thiểu số chỉ bằng 40% so với trung bình cả nước. Con số này cho thấy đại bộ phận người Việt Nam có mức sống thấp. Giá 1kg sữa tươi tiệt trùng bằng 3kg gạo, vì vậy người dân nghèo chưa có tiền uống Sữa.
Trong tình hình lạm phát ngày càng tăng như hiện nay, chỉ một nhóm ít người sung túc về kinh tế sẽ mua sản phẩm sữa. Thực tế cho thấy người Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội tiêu thụ 80% lượng sữa cả nước. Nâng cao mức sống người dân sẽ tăng thêm lượng khách hàng tiêu thụ sữa.
Phân tích công tác quản trị chiến lược của Vinamilk trong thời gian qua
Thông qua việc phỏng vấn một số cán bộ trong công ty Vinamilk, kết hợp với những nguồn tài liệu thu thập từ bên ngoài, có thể phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với Vinamilk như sau:
Điểm mạnh:
Vinamilk – Công ty sữa lớn nhất Việt Nam, hiện chiếm khoảng 38% thị phần. Vinamilk đã duy trì được tốc độ tăng trưởng doanh thu trong nước ở mức cao với tỷ lệ tăng trưởng bình quân 21,2%/năm trong giai đoạn 2004-2008. Với những lợi thế về năng lực cạnh tranh hiện tại, Vinamilk có khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng doanh thu nội địa cao hơn mức tăng trưởng bình quân của thị trường sữa trong nước trong thời gian tới.
Lợi nhuận biên tăng dần và đang được duy trì ở mức cao. Lợi nhuận biên của Vinamilk đã tăng đáng kể từ mức 24,3% năm 2006 lên mức 31,7% năm 2008. Mặc dù năm 2008 giá nguyên liệu tăng đột biến, tuy nhiên với khả năng quản trị tốt và lợi thế thị trường, Vinamilk vẫn duy trì được biên lợi nhuận ở mức cao và có khả năng tiếp tục duy trì biên lợi nhuận ở mức cao trong thời gian tới.
Các thông tin tài chính cơ bản của Vinamilk
Nguồn: Chứng khoán Bảo Việt
Với năng lực cạnh tranh và vị thế thị trường hiện tại, Vinamilk có khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận cao hơn mức tăng trưởng bình quân của thị trường sữa trong những năm tới.
Vinamilk là Công ty sản xuất sữa lớn nhất tại Việt Nam hiện nay. Hiện tại tổng công suất 9 nhà máy của Vinamilk đạt khoảng 570.406 tấn sữa hàng năm, với khoảng trên 200 dòng sản phẩm đa dạng, bao gồm các sản phẩm sữa, thực phẩm dinh dưỡng, cà phê và một số loại nước giải khát. Vinamilk đang trong quá trình tiếp tục mở rộng hoạt động sản xuất thông qua việc xây dựng thêm 3 nhà máy sữa tại Bắc Ninh, Đà Nẵng và Tuyên Quang.
Cùng với việc áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào sản xuất, chất lượng sản phẩm cũng là một điểm mạnh của Vinamilk.
Công nghệ của Vinamilk
Nguồn: Vinamilk
Ngoài ra, Vinamilk là một thương hiệu nổi tiếng, là một công ty có khả năng định giá bán trên thị trường. Do sở hữu thương hiệu mạnh,nổi tiếng Vinamilk, là thương hiệu dẫn đầu rõ rệt về mức độ tin dung và yêu thích của người tiêu dùng Việt nam đối với sản phẩm dinh dưỡng.
Mạng lưới phân phối và bán hàng chủ động và rộng khắp cả nước cho phép các sản phẩm chủ lực của Vinamilk có mặt tại trên 141.000 điểm bán lẻ lớn nhỏ trên toàn quốc trên 220 nhà phân phối, tại toàn bộ 63 tỉnh thành của cả nước. Sản phẩm mang thương hiệu Vinamilk cũng có mặt tại Mỹ, Canada, Pháp, Nga, Séc, Ba Lan, Đức, Trung Quốc, Trung Đông, châu Á, Lào, campuchia… - Đội ngũ bán hàng nhiều kinh nghiệm gồm 1.787 nhân viên bán hàng trên khắp cả nước.
Thị phần và cơ cấu doanh thu theo sản phẩm của Vinamilk
Nguồn: Vinamilk, AC Nielsen
Công ty còn có mối quan hệ đối tác chiến lược bền vững với các nhà cung cấp, đảm bảo được nguồn nguyên liệu ổn định, đáng tin cậy với giá cạnh tranh nhất trên thị trường. Đây cũng là nhà thu mua sữa lớn nhất cả nước nên có khả năng mặc cả với người chăn nuôi; có năng lực nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới theo xu hướng và nhu cầu tiêu dùng của thị trường, có hệ thống và quy trình quản lý chuyên nghiệp được vận hành bởi một đội ngũ các nhà quản lý có năng lực và kinh nghiệm được chứng minh thông qua kết quả hoạt động kinh doanh bền vững của công ty, các thiết bị và công nghệ sản xuất hiện đại và tiên tiến theo tiêu chuẩn quốc tế.
Một số chỉ tiêu tài chính của Vinamilk giai đoạn 2005 - 2008
2005
2006
2007
2008
Dairy Vietnam (2008) Nguồn: Bloomberg
Nhóm chỉ tiêu tăng trưởng
Tăng trưởng doanh thu
17%
0%
28%
Tăng trưởng lợi nhuận
21%
32%
28%
Nhóm chỉ tiêu thanh toán
Khả năng thanh toán nhanh
0,80
1,18
1,40
1,17
Khả năng thanh toán hiện hành
1,52
2,54
3,40
2,78
Nhóm chỉ tiêu cơ cấu vốn
Hệ số nợ/ Vốn CSH
0,77
0,33
0,25
0,31
Nợ/ Tổng tài sản
0,42
0,24
0,20
0,23
Nhóm chỉ tiêu hoạt động
Vòng quay hàng tồn kho
4,05
4,90
3,67
3,24
Vòng quay các khoản phải trả
16,79
14,37
9,14
10,07
Vòng quay các khoản phải thu
14,74
17,05
14,79
15,86
Nhóm chỉ tiêu sinh lời
Lợi nhuận ròng/ Doanh thu (GM)
22%
24%
27%
32%
Lợi nhuận hoạt động/Doanh thu
9%
9%
10%
15%
ROA
16%
20%
18%
21%
22%
ROE
28%
27%
23%
28%
28%
Nguồn: Chứng khoán Bảo Việt
Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu
Nguồn: Vinamilk
Điểm yếu:
Với sự bất ổn về kinh tế cả trong và ngoài nước trong thời gian vừa qua (đặc biệt là khủng hoảng năm 2008 – 2009) đã làm suy yếu hệ thống kinh tế toàn cầu. Đặc biệt tại Việt Nam, việc duy trì lãi suất ở mức cao làm gia tăng lạm phát trong nền kinh tế, khiến cho thu nhập thực tế giảm đi, sức mua giảm và kéo theo là nhu cầu chi tiêu bị thắt chặt.
Đối với một nền kinh tế có lượng sữa tiêu thụ bình quân đầu người vốn đã thấp, nay lại bị thắt chặt chi tiêu khiến cho doanh số bán của công ty sẽ giảm sút đi.
Lãi suất tăng làm tăng chi phí vốn của công ty (tăng lãi vay, tăng lãi suất huy động vốn từ trái phiếu, sụt giảm giá cổ phiếu…). Vì vậy mà trong thời gian tới, Vinamilk sẽ phải chịu nhiều sức ép về doanh thu và lợi nhuận.
Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy được trong năm 2008, khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu thì khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán hiện hành của công ty bị giảm đi nhiều, vòng quay các khoản phải thu và phải trả tăng lên.
Sự biến động của kinh tế kéo theo tỷ giá USD/VND tăng lên, trong khi đó 50% nguyên liệu đầu vào của công ty là nhập khẩu, 30% doanh thu là từ xuất khẩu thì sự biến động này có thể làm tăng chi phí đầu vào trong khi đó chưa chắc đã tăng lợi nhuận xuất khẩu đầu ra của công ty.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam gia nhập WTO cũng gia tăng áp lực cạnh tranh với các công ty nước ngoài, tăng sự cạnh tranh giữa các công ty cùng ngành.
Ngoài ra Vinamilk còn tiềm ẩn rủi ro về tài chính, Vinamilk tham gia đầu tư khoảng 571 tỷ vào cổ phiếu. Các khoản đầu tư này chủ yếu được giải ngân trong năm 2006 và năm 2007. Với diễn biến bất lợi của thị trường tài chính như hiện nay, hoạt động đầu tư tài chính của Vinamilk có thể đang tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Tính đến 31/12/2008 Vinamilk đã trích lập dự phòng rủi ro đầu tư tài chính 127,9 tỷ đồng, chiếm 22,3% tổng giá trị danh mục đầu tư. Nguồn: Chứng khoán Bảo Việt
Về mặt trách nhiệm xã hội Vinamilk chưa thực sự làm tốt trách nhiệm là một con chim đầu đàn của ngành sữa Việt Nam. Với địa vị và thế mạnh của mình, Vinamilk cần hỗ trợ hơn nữa cộng đồng các doanh nghiệp sản xuất sữa nhỏ trong nước và hỗ trợ nông dân nuôi bò sữa trong vùng nguyên liệu. Nhưng những gì mà Vinamilk làm trong thời gian vừa qua cho thấy doanh nghiệp này vẫn chỉ chăm chú vào việc phát triển thương hiệu riêng của mình.
Những mập mờ xung quanh giá mua nguyên liệu của người nông dân, hoặc không hỗ trợ khi sản lượng sữa tăng đột biến, nguồn cung thừa đã khiến cho uy tín của công ty bị giảm sút rất nhiều, Vinamilk đã đánh mất lòng tin của người nuôi bò
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xây dựng chiến lược kinh doanh - nghiên cứu trường hợp Vinamilk (2011-2016).doc