MỤC LỤC
Chương I Sơ lược về cơ cấu kinh tế . 3
A. Cơ cấu các ngành kinh tế . 5 B. Cơ cấu thành phần kinh tế 8
Chương II Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trên địa bàn
TP Hồ Chí Minh
A. Vài nét về cơ cấu các ngành kinh tế đô thị . 9
B. Vài nét về cơ cấu thành phần kinh tế đô thị . 14
Chương III Thực trạng xây dựng cơ cấu kinh tế ở TP Hồ
Chí Minh
A. Các chỉ tiêu về cơ cấu kinh tế 15
B. Trạng xây dựng cơ cấu kinh tế ở TP Hồ Chí Minh
1. Cơ cấu kinh tế ở TP Hồ Chí Minh có sự chuyển 16
dịch tích cực .
2. Tổng quan kinh tế TP Hồ Chí Minh sáu tháng đầu
năm 2007 . 18
3. Thực trạng và những vấn đề tồn tại trong
cơ cấu kinh tế 20
Chương IV Giải pháp xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trên
địa bàn TP Hồ Chí Minh . 23
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2304 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hần kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng, cùng có lợi.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế; không giới hạn qya mô và địa bàn; phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xóa đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên.
3. Thành phần kinh tế tư nhân
Bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
- Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
- Kinh tế tiểu chủ là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động, vốn của bản thân và gia đình.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Trong những năm qua, thành phần kinh tế náy phát triển nhanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ, góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế xã hội. Tuy nhiên, kinh tế cá thể, tiểu chủ dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không thể loại bỏ được những hạn chế vốn có như: tính tự phát, manh mún, hạn chế về kỹ thuật.
- Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, thành phần kinh tế này có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hóa sản xuất, cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là thành phần kinh tế rất năng động, nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Mặc dù vậy nhưng đây là thành phần kinh tế có tính tự phát rất cao, đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả…là những hiện tượng thường xuất hiện ở thành phần kinh tế này.
4. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
5. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gờm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài, có thể liên kết liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân.
CHƯƠNG II XÂY DỰNG CƠ CẤU KINH TẾ HỢP LÝ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
v Nội dung của cơ cấu kinh tế hợp lý
Không chỉ riêng TP Hồ Chí Minh mà có lẽ bất kỳ một đô thị nào cũng vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế đều muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Muốn tăng trưởng kinh tế thì điều tối quan trọng là phải có cơ cấu kinh tế hợp lý. Vả lại đất nước ta đang trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vậy nên vấn đề xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu khách quan cần phải thực hiện.
Một cơ cấu kinh tế được gọi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
- Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.
- Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế.
- Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo kinh tế toàn cầu hóa kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”.
Cơ cấu kinh tế hợp lý trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi công - nông nghiệp - dịch vụ phát triển mạnh mẽ, hợp lý và đồng bộ. Mạng lưới dịch vụ với tư cách là một ngành kinh tế phát triển mới có thể phục vụ tốt cho sự phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp và nông nghiệp.
vXây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trên địa bàn TP Hồ Chí Minh
A. Vài nét về cơ cấu các ngành kinh tế đô thị
1. Cơ cấu các ngành kinh tế đô thị là cơ cấu kinh tế thuộc loại hình phát triển theo chiều sâu và có hiệu quả cao.
Trước hết, phát triển theo chiều sâu và hiệu quả cao của cơ cấu các ngành kinh tế đô thị bắt nguồn từ tính tụ hội của kinh tế đô thị. Đô thị nói chung là trung tâm trao đổi hàng hóa, trung tâm chế tạo sản phẩm và trung tâm giao thông, là khu vực tụ hội các yếu tố sản xuất, hình thành một hệ thống vận hành kinh tế khổng lồ. Hệ thống này tập trung trong một không gian hữu hạn, nó đòi hỏi quá trình sản xuất các loại sản phẩm và dịch vụ phải phát triển theo chiều sâu, thực hiện sản xuất bằng con đường thâm canh sức lao động, vốn và công nghệ, đó là nguyên nhân căn bản của việc phát triển theo chiều sâu và hiệu quả cao.
Sau nữa, đô thị với tư cách là trung tâm kinh tế của khu vực và của cả nước, nó cần dựa vào con đường phát triển theo chiều sâu để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các khu vực xung quanh. Chỉ như vậy, đô thị mới trở thành khu vực có trình độ công nghệ tiên tiến nhất của một khu vực hay của cả quốc gia. Sự phát triển kinh tế của các nước trên thế giới đều được thực hiện bằng cách khuyếch tán công nghệ của đô thị, đô thị với tư cách là cứ địa của sự khuyếch tán này làm cho cơ cấu các ngành kinh tế của nó phải là cơ cấu phát triển theo chiều sâu, đầu tư nhiều tri thức kỹ thuật mà trở thành cơ cấu thuộc loại hình có hiệu quả cao.
Phát triển theo chiều sâu và hiệu quả cao có liên quan với nhau, nói chung cơ cấu thuộc loại hình phát triển theo chiều sâu là cơ cấu có hiệu quả cao. Vì rằng phát triển theo chiều sâu đòi hỏi sự phát triển tương đối cao của chuyên môn hóa phân công và hợp tác, đòi hỏi việc sử dụng tốt hơn các nguồn tài nguyên công cộng, trong đó bao gồm các nguồn năng lượng, nước, vật liệu, hệ thống giao thông, bưu chính viễn thông và các ngành dịch vụ. Do vậy, mà có thể tiết kiệm một số lớn chi phí, đất đai; tập trung hóa hoạt động tiền tệ, tăng nhanh vòng quay và nâng cao hiệu quả của đồng vốn; cần phải tăng nhanh nhịp độ đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ mới, điều này tất nhiên dẫn đến hiệu quả kinh tế cao.
2. Nhân tố chế ước cơ cấu các ngành kinh tế đô thị
Nhân tồ chế ước cơ cấu bao gồm nhiều mặt, vừa có nhân tố khách quan, vừa có nhân tố chủ quan, tức nhân tố quản lý, các nhân tố này không ở trạng thái tĩnh mà ở trạng thái động. Nói chung, nhân tố chế ước cơ cấu các ngành kinh tế đô thị chủ yếu có:
a. Tình hình phân bố các yếu tố sản xuất đô thị và khu vực đô thị
Các yếu tố này bao gồm sự phân bố tài nguyên thiên nhiên, số lượng và cơ cấu tố chất sức lao động, điều kiện vốn, trình độ công nghệ sản xuất, và trình độ sản xuất kinh doanh. Các yếu tố sản xuất của các đô thị và các khu vực đô thị khác nhau đều rất khác nhau. Ví như đô thị ở ven biển, tuy điều kiện tài nguyên thiên nhiên tương đối kém nhưng vốn, sức lao động, trình độ công nghệ và quản lý tương đối cao; đô thị trong lục địa có điều kiện tài nguyên thiên nhiên và nguồn sức lao động phong phú, nhưng điều kiện thị trường và tố chất sức lao động lại tương đối kém; đô thị trong khu vực có nhiều danh lam thắng cảnh và các bãi tắm đẹp, có điều kiện thuận lợi để phát triển ngành du lịch. TP Hồ Chí Minh là một cảng biển, một cửa ngõ, thuận lợi giao lưu kinh tế với các khu vực trong nước và quốc tế; có nguồn lao động dồi dào, trình độ cao.
Về khách quan, sự phân bố khác nhau các yếu tố sản xuất quyết định các đặc điểm khác nhau của cơ cấu ngành kinh tế đô thị. Có đô thị thích hợp với việc phát triển các ngành đầu tư nhiều công nghệ, tiêu hao ít nước, năng lượng, nguyên liệu; có đô thị thích hợp với việc phát triển các ngành năng lượng, luyện kim, vật liệu xây dựng; có đô thị thích hợp với việc phát triển các ngành đòi hỏi phải đầu tư nhiều sức lao động nhằm tận dụng nguồn lao động tại chỗ. Do vậy, khi xác định cơ cấu các ngành kinh tế đô thị, trước mắt cần căn cứ váo nguyên tắc lợi thế so sánh, phát huy đầy đủ ưu thế của các yếu tố sản xuất, ra sức sản xuất những sản phẩm với đầu vào ít, đầu ra nhiều.
Cần phải khảo sát tình hình phân bố các yếu tố sản xuất. Bởi lẽ các yếu tố này, ngoài tài nguyên thiên nhiên là không tái sinh, còn lại đều là khả biến: tố chất sức lao động có thể nâng cao bằng con đường đào tạo, bồi dưỡng; vốn có thể ngày càng hùng hậu thông qua việc không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh; trình độ công nghệ và quản lý kinh doanh cũng có thể thông qua việc tham gia cạnh tranh trên thương trường mà được nâng cao từng bước. Ngoài ra, sự biến đổi của quan hệ cung cầu trên thị trường cũng làm cho một số yếu tố sản xuất luôn luôn biến đổi, ví dụ như sức lao động do việc nâng cao tiền lương và mức sống mà mất đi ưu thế về giá cả.
b. Tình hình nhu cầu thị trường trong và ngoài nước
Đô thị với tính cách là trung tâm phát triển kinh tế của khu vực và của quốc gia, hoạt động kinh tế của nó chủ yếu là hướng ra ngoài đô thị, không chỉ hướng ra các khu vực khác trong nước, mà còn hướng ra thị trường quốc tế. TP Hồ Chí Minh là một đô thị cảng ở ven biển nên xu thế hướng ra thị trường quốc tế lại càng mạnh mẽ; vì vậy nhu cầu thị trường là một nhân tố căn bản chế ước cơ cấu các ngành kinh tế đô thị.
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa, nhu cầu của thị trường là thiên biến vạn hóa. Cái đó không chỉ do sự tăng trưởng kinh tế dẫn đến sự thay đổi hàng ngày của mức, cơ cấu, phương thức và tập quán tiêu dùng mà còn do cơ cấu các ngành kinh tế của các nước song song với sự phát triển kinh tế của nước mình mà phát sinh sự thay đổi, dẫn tới sự thay đổi nhu cầu ngoại thương của các quốc gia. Ví dụ như, ngày nay công nghệ mới của thế giới đang phát triển nhanh chóng, xã hội truyền thông đang phát triển lên xã hội thông tin, cơ cấu các ngành kinh tế của một số nước phát triển đã có sự thay đổi to lớn, tức chuyển từ các ngành công nghiệp truyền thống sang các ngành đầu tư nhiều chất xám với công nghệ tin học làm trung tâm, hình thành nhiều ngành công nghiệp công nghệ cao. Sự thay đổi này dẫn đến sự điều chỉnh về tổng thể cơ cấu các ngành kinh tế.
Phương hướng chỉ đạo của nhu cầu thị trường trong nước và nhu cầu thị trường thế giới đối với sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế đô thị, nói chung được biểu hiện trước hết ở việc đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước, khi đã có lực lượng sản xuất tương đối lớn mạnh thì tiến lên đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới. Song điều đó không hề cản trở nền kinh tế của một số nước sau khi đã phát triển tới một trình độ nhất định, đô thị ở cảng ven biển có thể lấy nhu cầu thị trường thế giới làm phương hướng chỉ đạo, phát triển cơ cấu các ngành kinh tế hướng ngoại. Ngày nay, khi thị trường thế giới và phân công quốc tế đã có những thay đổi lớn lao, thì việc tham gia vào cuộc đại phân công quốc tế, theo nhu cầu thị trường quốc tế để tổ chức sản xuất và điều chỉnh cơ cấu các ngành kinh tế đô thị, đã trở thành cơ chế quan trọng chế ước cơ cấu các ngành kinh tế đô thị.
Cần căn cứ vào sự thay đổi nhu cầu thị trường để xác định sự thay đổi cơ cấu các ngành kinh tế, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý.
c. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chính sách đối với các ngành kinh tế của đô thị
Trong điều kiện phân bố các yếu tố và nhu cầu thị trường nhất định, việc xác định cơ cấu các ngành kinh tế của đô thị trực tiếp quyết định bởi đô thị đó có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có cơ sở khoa học hay không. Các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đô thị được đề ra căn cứ vào tình hình phân bố các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các yếu tố sản xuất và tình hình nhu cầu thị trường, vào tính chất, công năng và vai trò của đô thị trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Các mục tiêu của chiến lược này trực tiếp quyết định phương hướng phát triển và cơ cấu cụ thể của các ngành kinh tế đô thị. Chẳng hạn các thành phố ven biển nước ta như Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu…trong đó có TP Hồ Chí Minh, cơ cấu các ngành kinh tế không chỉ là cơ cấu loại hình hướng ngoại, mà còn là cơ cấu loại hình thâm canh chất xám, với tính chất phục vụ và tính hiệu quả cao. Các thành phố này có thể căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mình để xác định các ngành kinh tế chủ đạo và các ngành kinh tế có liên quan tương ứng, hình thành một cơ cấu các ngành kinh tế riêng có, làm cho các ngành kinh tế từng bước phát triển từ loại hình thâm canh sức lao động và loại hình thâm canh vốn, sang loại hình thâm canh chất xám.
Trong hiện thực, cơ cấu các ngành kinh tế đô thị được hình thành thông qua cơ cấu đầu tư, nhưng mà cái quyết định phương hướng đầu tư lại là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chính sách đối với các ngành kinh tế của đô thị có khoa học hay không, là mấu chốt làm cho cơ cấu các ngành kinh tế của đô thị có hợp lý hay không. Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu các ngành kinh tế đô thị được hình thành trong một thời gian dài theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước; chiến lược phát triển và kế hoạch đầu tư của đô thị là một nhân tố vĩ mô chế ước sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế của đô thị.
Thông qua việc tiến hành phân tích mối quan hệ giữa ba yếu tố nói trên ta thấy, chúng đều là nhân tố chủ yếu chế ước sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế đô thị. Trong đó tình hình phân bố các yếu tố sản xuất là nhân tố quan trọng hàng đầu.
B. Vài nét về cơ cấu thành phần kinh tế đô thị
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế trong thời kỳ này là nền kinh tế nhiều thành phần, nếu để tự phát, nền kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên chủ nghĩa tư bản, do đó phải định hướng để sự vận động và phát triển của nó đi lên chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh để giữ vững định hướng đó là một quá trình khó khăn phức tạp, nhất là đối với nước ta khi mà nền sản xuất nhỏ còn chiếm ưu thế. Bên cạnh đó các lực lượng thù địch với chủ nghĩa xã hội luôn luôn ra sức thúc đẩy nền kinh tế chệch khỏi định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy sự cần thiết là phải có sự quản lý của nhà nước.
Nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa với hai công cụ quan trọng: kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
TP Hồ Chí Minh là một đô thị phát triển, tồn tại rất đa dạng các thành phần kinh tế với những quan hệ hữu cơ chằn chịt, vì vậy vai trò định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của Nhà nước là vô cùng quan trọng.
CHƯƠNG III THỰC TRẠNG XÂY DỰNG CƠ CẤU KINH TẾ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
A. Các chỉ tiêu về cơ cấu kinh tế trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 01-101. Theo khu vực kinh tế (%)
Khu vực kinh tế
2000
2005
2010
- Công nghiệp – Xây dựng
44,6
48,8
- Dịch vụ
53,2
49,8
- Nông, lâm, ngư nghiệp
2,2
1,4
2. Theo cơ cấu thành phần kinh tế (%)
Khu vực kinh tế
2000
2005
2010
- Quốc doanh
45,9
37,3
- Ngoài quốc doanh
35,5
37,1
- Có vốn đầu tư nước ngoài
18,6
25,6
B. Thực trạng xây dựng cơ cấu kinh tế ở TP Hồ Chí Minh
1. Cơ cấu kinh tế ở TP Hồ Chí Minh có sự chuyển dịch tích cực.
a. Cơ cấu các ngành kinh tế đã từng bước dịch chuyển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành.
Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp khoảng 27,2% GDP năm 1995 giảm xuống 24,3% năm 2000; trong đó, nông nghiệp khoảng từ 22,4% giảm xuống còn 19,9%, sản xuất nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các loại sản phẩm cây trồng và vật nuôi có năng suất và hiệu quả kinh tế cao; lâm nghiệp giữ ở mức khoảng 1,3% năm 2000, thủy sản chiếm khoảng 3%.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 28,8% năm 1995 tăng lên 36,6% năm 2000; trong đó các ngành công nghiệp khai thác từ 4,8% tăng lên 9,5%; công nghiệp chế tác khoảng 15,0% tăng lên 18,7%; công nghiệp điện, hơi đốt, nước, khoảng 2,9%...
Tỷ trọng các ngành dịch vụ khoảng 44,1% năm 1995 giảm xuống còn 39,1% năm 2000; trong đó thương nghiệp chiếm khoảng 14,5%; khách sạn nhà hàng chiếm 3,2%; vận tải, thông tin chiếm 4%; kinh doanh tài sản, dịch vụ tư vấn chiếm 4,3%; tài chính, tín dụng chiếm 1,9%; quản lý Nhà nước 2,7%...
b. Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Kinh tế Nhà nước tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, bước đầu hoạt động có hiệu quả hơn, phát huy được vai trò tích cực và chủ động trong các hoạt động kinh tế, xã hội; năm 2000 đã đóng góp vào khoảng 39%.
Kinh tế tập thể được tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã mới, nhiều hợp tác xã hoạt động có hiệu quả. Một số mô hình liên kết giữa hợp tác xã nông nghiệp với các cơ sở chế biến đã ra đời, thu hút đáng kể lực lượng lao động ở cả thành thị và nông thôn; đóng góp khoảng 8,5% năm 2000.
Kinh tế tư bản Nhà nước đang phát triển trong một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; đóng góp khoảng 3,9% năm 2000.
Kinh tế cá thể trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ phát triển nhanh, góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế - xã hội; năm 2000 đóng góp khoảng 32%.
Khu vực kinh tế tư nhân trong nước ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội; đóng góp khoảng 3,3% năm 2000.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có bước phát triển khá, tạo thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm. Đến năm 2000, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 13,3%.
Tỷ trọng của kinh tế nhà nước trong từng khu vực như sau: khu vực I (nông, lâm, ngư nghiệp) chiếm dưới 3%, khoảng 97% là kinh tế ngoài quốc doanh; khu vực II (công nghiệp và xây dựng) chiếm 2/3 và kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 1/3; khu vực III (dịch vụ) kinh tế nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng xấp xỉ bằng nhau. Kinh tế nhà nước nắm giữ vị trí then chốt trong các ngành quan trọng như tài chính, ngân hàng, điện lực, dầu khí, vận tải, viễn thông...
2. Tổng quan kinh tế TP Hồ Chí Minh sáu tháng đầu năm 2007
Sáu tháng đầu năm 2007, kinh tế Tp.HCM đã đạt tốc độ tăng trưởng GDP 11,2% và là mức tăng trưởng cao nhất của 6 tháng đầu năm trong 5 năm gần đây.
Các số liệu thống kê ghi nhận: trong 11,2% tăng trưởng chung, khu vực thương mại-dịch vụ đóng góp 6,24%; khu vực công nghiệp-xây dựng đóng góp 5,02%; khu vực nông lâm-thủy sản làm giảm đi 0,04%. Điều này cho thấy, lần đầu tiên trong suốt nhiều năm qua, khu vực thương mại-dịch vụ đã có mức đóng góp cao nhất (55,1%) trong giá trị gia tăng kinh tế chung của thành phố.
Giá trị tăng thêm khu vực nông lâm thủy sản đạt 1.152 tỷ đồng, chỉ chiếm 1,2% GDP, giảm 3,0%; trong đó thủy sản giảm đến 7,4% về giá trị sản xuất. Giá trị tăng thêm của khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 48.779 tỷ đồng, chiếm 49,3% GDP, tăng 10,3% (cùng kỳ tăng 10,8%). Trong đó công nghiệp tăng 10%, mức tăng này chậm hơn so với cùng kỳ năm 2006 (11,1%) do sản xuất gặp nhiều khó khăn cả về đầu vào lẫn đầu ra. Ngành xây dựng có thuận lợi, do vốn đầu tư xã hội tăng cao, đạt mức tăng 13,4% (cùng kỳ tăng 8,0%).
Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ đạt 49.038 tỷ đồng, chiếm 49,5% GDP, tăng 12,5%, cao hơn mức tăng của cùng kỳ năm trước (10,5%). Trong đó giá trị tăng thêm ngành thương nghiệp tăng 12,2% (cùng kỳ tăng 11,9%), ngành khách sạn nhà hàng tăng 17% (cùng kỳ tăng 10,2%), vận tải bưu điện tăng 13,5% (cùng kỳ tăng 10%).
Nhiều chuyên gia và quan chức các ngành chức năng khẳng định rằng, xu hướng tăng và mức tăng cao nhất của khu vực dịch vụ so với các khu vực khác trong nền kinh tế thành phố thời gian qua, đã cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang đi đúng hướng. Các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ trên thị trường thành phố luôn được các nhà cung cấp thuộc các thành phần kinh tế điều chỉnh cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng từ thấp đến cao của dân cư, nên đã thu được nhiều kết quả khả quan.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm nay tăng 27% (trong khi cùng kỳ năm trước chỉ tăng 20,4%). Trong đó doanh thu khách sạn, nhà hàng tăng 31,3% (riêng khách sạn tăng 42,5%, du lịch lữ hành tăng 22,8%... Nếu loại trừ yếu tố biến động giá thì tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ này tăng 18,6% (so với cùng kỳ năm trước là 11,8%).
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì trong cơ cấu kinh tế TP Hồ Chí Minh vẫn còn những bất cập cần tiến tới khắc phục và giải quyết.
3. Thực trạng và những vấn đề tồn tại trong cơ cấu kinh tế
Mặc dù kết quả đạt được là to lớn nhưng trong việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý thì việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở TP Hồ Chí Minh còn chậm, chất lượng cơ cấu kinh tế chưa cao đang là một nguyên nhân quan trọng hạn chế khai thác tiềm năng, kìm hãm tốc độ tăng trưởng.
a. Cơ cấu ngành kinh tế
Sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế đã bộc lộ những yếu kém và cần có biện pháp khắc phục. Cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực chưa chuyển dịch kịp thời theo sự biến động của nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Tiềm lực kinh tế và năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp còn yếu.
Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố vẫn là những ngành tiêu hao nhiều tài nguyên, sử dụng nhiều lao động, gia công lắp ráp giai đoạn cuối, hàm lượng giá trị gia tăng thấp. Chính vì vậy, công nghiệp tuy có tăng trưởng nhưng chưa cải thiện về chất lượng, phát triển thiếu bền vững, đồng thời đang tạo áp lực về lao động nhập cư, gây sức ép về quản lý đô thị, quản lý xã hội. Ngành dệt - may của thành phố là một thí dụ. Ngành dệt - may là ngành không được khuyến khích phát triển mấy năm nay, nhưng thực tế vẫn tăng về tỷ trọng từ 5,2% (năm 2001) lên 8,1% và hiện nay, trở thành ngành công nghiệp chủ lực, đóng góp 40% sản lượng dệt - may của cả nước nhưng phát triển chủ yếu về lượng chứ không tăng về chất. Lực lượng lao động của ngành may chiếm 27,6% số lao động công nghiệp và 29,3% số cơ sở sản xuất, nhưng giá trị sản xuất công nghiệp của dệt - may chỉ chiếm 10% giá trị sản xuất công nghiệp toàn thành phố. Do đó dệt - may là ngành có năng suất lao động thấp nhất. Hiện nay, dệt - may chiếm 13% tỷ trọng công nghiệp thành phố (sau ngành chế biến) năng suất lao động ngành may chỉ tương đương 53,3% năng suất lao động chung, ngành dệt năng suất lao động cũng chỉ bằng 70% năng suất lao động chung của thành phố.
Những ngành công nghiệp có giá trị gia tăng lớn, năng suất lao động cao, có thị trường tiêu thụ lớn chiếm tỷ trọng nhỏ. Xây dựng khu công nghệ cao là chương trình mang tính đột phá để thay đổi về chất cơ cấu kinh tế thành phố, nhưng đến nay chưa thu hút mạnh đầu tư nước ngoài.Sau bốn năm mới giải phóng được 60% mặt bằng, xây dựng hạ tầng kỹ thuật còn chậm, vì thế khu công nghệ cao đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tiếp nhận đầu tư.
Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ có ý nghĩa quan trọng đối với nền công nghiệp nói chung và hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố hợp lývnói riêng. Nhưng đến nay, công nghiệp phụ trợ của thành phố vẫn chưa có chiến lược phát triển và thực tế chưa hình thành những cơ sở sản xuất nguyên liệu, linh kiện, phụ kiện cho nên phần lớn cơ sở công nghiệp của TP Hồ Chí Minh vẫn là gia công, lắp ráp. Lấy thí dụ ngành điện tử: một chiếc ti-vi sử dụng khoảng 400 loại linh kiện khác nhau, các cơ sở sản xuất trong nước chỉ sản xuất được đèn hình, cuộn lái tia, loa, mi-crô, dây dẫn, cầu chì, công tắc, còn lại là nhập của nước ngoài. Nhược điểm lớn nhất trong sự phát triển của các ngành dịch vụ trên địa bàn thành phố là thương nghiệp với những dịch vụ bình dân vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo (70-80%). Các ngành dịch vụ cao cấp, có hàm lượng giá trị gia tăng cao như tài chính - ngân hàng, vận tải - kho bãi, viễn thông, bảo hiểm... Nhiều năm nay chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong GDP của thành phố, chưa khai thác hết tiềm năng để phát triển mạnh mẽ. Trong khi dòng vốn FDI trên thế giới đang có xu hướng tập trung vào lĩnh vực dịch vụ thì vốn đầu tư nước ngoài trong các ngành tại thành phố lại chưa cao.
b. Cơ cấu thành phần kinh tế
Khu vực kinh tế nhà nước chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng, giành vị trí có lợi trong sản xuất kinh doanh và được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước, nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, phần lớn số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ hoặc chưa có lãi. Bên cạnh đó, môi trường đầu tư, kinh doanh chậm được cải thiện; các chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế khác chậm đưa vào cuộc sống, còn nhiều biểu hiện phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, làm cho các thành phần kinh tế này còn e ngại, dè dặt, chưa mạnh dạn đưa vốn vào đầu tư phát triển sản xuất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trên địa bàn TP Hồ Chí Minh.doc