MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU . 1
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BONG BÓNG TÀI SẢN . 2
1.1 Khái niệm về bong bóng tài sản . 2
1.2 Quá trình hình thành- nguyên nhân . 3
1.3 Phân loại- lịch sử bong bóng tài sản trên thế giới . 5
2. XÂY DỰNG DẤU HIỆU BONG BÓNG TÀI SẢN . 8
2.1 Lịch sử bong bóng tài sản thế giới . 8
2.1.1. Bong bóng South Sea (1720) . 8
2.1.2 Bong bóng tài sản ở Nhật Bản (1985-1990) . 11
2.1.3 Khủng hoảng tài chính Thái Lan (1997) . 15
2.1.4 Khủng hoảng bất động sản ở Mỹ (2001-2005) . 25
2.1.4 Tổng kết bong bóng tài sản . 28
2.2 Dấu hiệu nhận biết bong bóng tài sản . 31
3. TỒN TẠI HAY KHÔNG TÌNH TRẠNG BONG BÓNG TÀI SẢN Ở VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY . 32
3.1. Nhìn lại lịch sử các đợt bong bóng tài sản ở Việt Nam từ 1990-2010 . 32
3.1.1 Bong bóng bất động sản 1993-1995 . 33
3.1.2 Bong bóng bất động sản- chứng khoán 2000-2001 . 34
3.1.3 Bong bóng chứng khoán- bất động sản 2006-2007 . 37
3.2. Tồn tại hay không bong bóng tài sản trong giai đoạn hiện nay . 44
KẾT LUẬN . 51
55 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1888 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng dấu hiệu nhận biết bong bóng tài sản, ứng dụng nhận biết sự tồn tài của bong bóng tài sản ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền vào thị trường, giúp các công ty
16
vay dễ dàng để mở rộng sản xuất, đồng thời khuyến khích dân chúng vay tiền để mua sắm,
nhằm kích thích nền kinh tế nội địa. Mức lãi suất hấp hẫn 2.5% này được duy trì liên tục từ
năm 1987 đến tháng 5/1989.
Hình: Lãi suất cơ bản của Ngân hàng trung ương Nhật Bản ( 1987 – 2001)
Source: Bank of Japan, “The Basic Discount Rate and Basic Loan Rate,”
Tuy nhiên, chính sách tiền tệ mở rộng của Nhật Bản đã không hiệu quả vì dòng tín
dụng đã chảy ngược vào thị trường tài chính thay cho việc mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Với lãi suất quá thấp, dân chúng ào ạt đi vay đổ vào bất động sản. Giá đất đã cao, nay lại
được dịp tăng nhanh hơn nữa, nhất là sau khi Chính phủ tuyên bố thành phố Tokyo cần có
thêm nhiều cao ốc để trở thành một trung tâm tài chính thế giới, cạnh tranh với New York.
17
Khi những nhà đầu cơ nhập cuộc, giành nhau mua đất, xây cất thì cơn sốt nhà đất
bùng nổ. Chỉ trong vòng 10 năm kể từ 1978, giá đất tại khu trung tâm Tokyo đã tăng 20
lần. Cơn sốt nhà đất lan tràn khắp nước Nhật.
Với giá đất tăng vọt và đồng Yên lên cao, người Nhật thấy mình trở nên giàu có, họ
tung tiền ra mua các công ty Mỹ, các hãng phim lớn, các cao ốc danh tiếng, nông trại, sân
golf, các tác phẩm hội họa nổi tiếng... Các công ty và nhà đầu tư lại tiếp tục dùng nhà đất
làm vật thế chấp vay tiền đổ vào thị trường chứng khoán khiến giá cổ phiếu cũng từ đó leo
thang. Luật kế toán Nhật cho phép các công ty coi số gia tăng giá trị đất như là tiền lời hoạt
động, do đó trong thời gian này công ty Nhật nào cũng làm ăn có lời, khiến giá cổ phiếu
liên tục tăng vọt. Cứ như thế, bong bóng chứng khoán và bất động sản to dần...
Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, không chỉ có Bộ Tài chính mà tất cả người dân Nhật
đều cho rằng sự phồn thịnh của Nhật Bản là điều thực sự và không thể chối cãi được. Thật
vậy, khi thị trường chứng khoán Mỹ sụp đổ vào tháng 10/1987 thì thị trường chứng khoán
Nhật không bị dao động mạnh như ở các nước khác. Đến cuối năm 1989, chỉ số Nikkei
tăng vọt đến 38.916, nghĩa là lại tăng lên ba lần chỉ trong vòng bốn năm kể từ 1985.
18
Hình: Nikkei 225 (từ tháng 1/1986 đến tháng 12/ 2003)
Source: Yahoo! Finance Nikkei 225 Historical Prices
Tuy nhiên, mức lãi suất 2.5% chỉ được duy trì đến đầu năm 1989. Lãi suất cơ bản
tăng liên tục trong năm 1989 và 1990 từ 2,5% lên 6%. Khoản tín dụng hấp dẫn mà các ngân
hàng Nhật và chính p hủ tung vào thị trường trước đó phút chốc trở thành một món nợ
khổng lồ không có khả năng chi trả của các doanh nghiệp trong nước. Tính thanh khoản
của thị trường giảm mạnh kéo theo giá bất động sản rơi tự do và chỉ số Nikkei sụt giảm đến
60% giá trị trong những năm sau đó. Sự kiện này chấm dứt nền kinh tế bong bóng của Nhật
Bản vào những năm 90.
2.1.3. Khủng hoảng tài chính Thái Lan (1997):
Trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997, lịch sử kinh tế đương
đại chứng kiến cơn cuồng phong tước đoạt tài sản của nhiều thị trường, trong đó nặng nề
nhất phải kể đến Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia. Đầu năm 1997, cả ba quốc gia này vừa
hân hoan chào mừng năm 1996 với những thống kê tăng trưởng đẹ p. Nhưng chỉ sau vài
tháng xuất hiện một cuộc khủng hoảng tài chính nặng nề khiến mặt bằng giá cổ phiếu chỉ
còn bằng một nửa so với đầu năm tính bằng nội tệ, và bản than các đồng nội tệ thì mất giá
chỉ còn bằng một nửa so với đồng USD bất chấp sự can thiệp ổn định tiền tệ của IMF. Trên
cơ sở nghiên cứu xây dựng mô hình các yếu tố dẫn đến khủng hoảng và phân tích thực tế
19
diễn biến khủng hoảng ở các nước Thái Lan, Hàn Quốc chúng tôi đã xây dựng mô hình các
yếu tố dẫn đến khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính" theo Sơ
đồ 3.1.
Qua đó ta thấy, khủng hoảng chỉ có thể nổ ra khi bên trong nền kinh tế quốc gia đã
tích lũy bốn nguy cơ khủng hoảng là:
- Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp
-Sự kém hiệu quả của các ngân hàng, công ty tài chính
-Sự lên giá của đồng nội tệ
- Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán
Và tác nhân quan trọng châm ngòi cho cuộc khủng hoảng là quyết định rút vốn ồ ạt
của các nha đầu tư nước ngoài.
20
Tác động
dây
chuyền
Tác
động
rất
nhanh
Tác
động
nhanh
Ảnh hưởng do nhà đầu tư
nước ngoài và các nước
khủng hoảng gây ra
Tác
động
chậm
Tích lũy nguy cơ khủng hoảng
Sự kém hiệu quả
của các doanh nghiệp
Sự kém hiệu quả
của các ngân hàng
Đồng nội tệ bị lên giá
Nguy cơ quốc gia mất
khả năng thanh toán
Khủng hoảng
Doanh nghiệp phá
sản hàng loạt
4
Ngân hàng phá sản
hàng loạt
Người dân rút tiền tiết
kiệm mua vàng, ngoại tệ
3 Nội tệ
mất giá
nhanh, tỷ
giá hối
đoái tăng
2
Các nhà đầu tư nước ngoài rút
vốn ( ngân hàng, công ty tài
chính đòi nợ)
1
Phá giá nội
tệ
Các nước bị khủng hoảng
Sơ đồ 3.1 mô hình các yếu tố dẫn đến khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính
21
Tình hình kinh tế Thái Lan trước khủng hoảng
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Tăng trưởng GDP 7,9 8,1 8,2 8,6 8,7 6,7 -0,4 -8,3 1
Tỷ giá hối đoái (BAHT/ USD) 25,28 25,32 25,54 25,09 25,19 25,61 47,25 41,37 37,11
Lạm phát % 5,7 4,1 4,6 5,1 5,8 4,8 5,6 8,1 5,02
Xuất khẩu (tỷ USD) 28,23 32,1 36,4 44,47 55,4 54,4 56,7 52,9
Nhập khẩu (tỷ USD) -34,22 -36,26 -40,09 -48,2 -63,4 -63,9 -55,3 -49,6
Cán cân thương mại (tỷ USD) -5,9 -4,16 -4,3 -3,7 -7,7 -9,5 1,5 12,3
Cán cân tài khoản vãng lai (tỷUSD) -7,59 -6,3 -6,36 -8,08 -13,55 -14,69 -3,02 14,3
Cán cân tài khoản vốn (tỷ USD) 11,26 9,47 10,5 12,17 21,9 19,5 -15,8 -9,5
Đầu tư trực tiếp thuần (tỷ USD) 1,847 1,966 1,571 0,873 1,182 1,405 3,344
Đầu tư tài chính thuần, cổ phiếu- trái phiếu
(tỷ USD)
-0,081 0,924 5,455 2,481 4,181 3,544 4,361
Đầu tư khác thuần (tỷ USD) 9,994 6,584 3,474 8,812 16,644 14,537 -23,51
Nợ nước ngoài (tỷ USD) 35,99 39,61 45,84 60,99 65,9 89,0 97,0
Nợ ngắn hạn (tỷ USD) 43,6 45,7 45,6
Dự trữ ngoại tệ (tỷ USD) 18,4 21,2 25,4 30,3 37,6 38,7 27,0 29,5
Đầu tư cố định tính bằng % GDP 38 39,5 39,9 40,1 42,8 39,8 39,1
ICOR 5,4 5,56 4,85 4,65 4,92 5,94
22
Thái Lan bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóạ đất nước từ 1961 ,khi bắt đầu kế hoạch phát
triển năm năm lần thứ nhất. Tốc độ tăng trướng GDP trung bình trong thập niên 60 là
8%/năm, trong thập niên 70 là 7%/năm và trong thập niên 80 là 8%/năm. Tổng sản phẩm
nội địa theo đầu người tăng từ mức 440USD năm 1955 lên 3.012 USD năm 1996.
Nông nghiệp chiếm tỷ trọng 39% trong nền kinh tế vào năm 1961 giảm xuống còn
26,7% năm 1976 và chỉ còn 10,4% năm 1996.
Dựa vào những bước phát triển mạnh mẽ vào thập niên 60 và 70, từ thập niên 80 Thái
Lan đã thực thi một chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu. Năm 1986 - 1990 tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu bình quân là 28%/năm. Năm 1992 và 1993 khoảng 13%/năm. Năm 1994
và 1995 khoảng 20%/năm. Năm 1996, tăng trướng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ chỉ còn
3,4% so với năm 1995.
Giá trị xuất khẩu theo đầu người đạt 630 USD/người năm 1991, đã tăng lên 1.177
USD/người năm 1996.
Như vây, nhìn vào mức độ tăng trưởng GDP của Thái Lan suốt hơn 3 thập kỷ từ 1961
đến 1996, thật khả quan khi tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm luôn từ 7% đến 8% . Tuy
nhiên, chỉ tiêu GDP mới phản ánh đầu ra của nền kinh tế mà chưa đề cập đến đầu vào. Đầu
vào chính là đầu tư. Trong thời kỳ 1991 - 1996, đầu tư của Thái Lan rất cao, hàng năm
chiếm bình quân 40% GDP. Bình quân từ 1991 tới 1996, hệ số ICOR của kinh tế Thái Lan
là 5,22. Tức là phải đầu tư 5,22 Baht thì GDP mới tăng 1Baht. Tăng trướng cao, đồng thời
chi phí cho tăng trướng thấp thì mới bền vững. Tăng trướng cao phải dựa trên hiệu quả kinh
tế cao của sản xuất kinh doanh thì mới lâu bền. Từ phân tích trên ta thấy được sự bất ổn
trong nền kinh tế Thái Lan.
23
Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém hiệu quả
Tăng trướng GDP ở mức cao, kéo dài nhiều thập kỷ, cộng với lãi suất tiết kiệm trong
nước cao (bình quân 16,3% năm, trong khi ở Mỹ là 7,6%/năm), và tỉ giá hối đoái gần như
cố định đã tạo nên một môi trường kinh doanh rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc
biệt là đầu tư tài chính, cho vay ngắn hạn và tín dụng thương mại. Như vậy, các doanh
nghiệp trong nước, nếu vay vốn trực tiếp từ các ngân hàng, công ty nước ngoài như vay từ
các ngân hàng, công ty tài chính Mỹ thì chỉ chịu lãi suất bằng 1/2 lãi su ất cho vay trong
nước. Nếu các doanh nghiệp tận dụng khả năng sử dụng vốn bên ngoài này không quan tâm
thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn vay thì hiệu quả kinh tế sẽ giảm, dù tổng giá trị sản lượng
tăng.
Một điểm đặc biệt ở Thái Lan là trong giai đoạn 1991 - 1996, đầu tư trực tiếp của
nước ngoài vào Thái Lan chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với đầu tư tài chính (gián tiếp) và sử
dụng vốn vay ngắn hạn của nước ngoài.
Tổng đầu tư trực tiếp thời kỳ này là 11,701 tỷ USD, tổng đầu tư trực tiếp của Thái
Lan ra nước ngoài là 2,857 tỉ USD, do vậy tổng đầu tư trực tiếp thuần là 8,844 tỉ USD.
Trong khi đó, tổng đầu tư tài chính thuần (cổ phần, trái phiếu) là 16,4 tỉ USD, và tổng vay
ngắn hạn thuần là 60,04 tỉ USD. Như vậy, trong tổng số vốn nước ngoài thuần đã đổ vào
Thái Lan thời kỳ 1991 - 1996 là 85,293 tỉ USD thì đầu tư trực tiếp chỉ chiếm 10,36% (8,844
tỉ USD), đầu tư gián tiếp 19,23% (16,404 tỉ USD) và tín dụng, vay ngắn hạn tới 70,4 %
(60,045 tỉ USD)
Việc sử dụng đến gần 90% nguồn vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính và tín dụng
ngắn hạn sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty, vì phải trả lãi thường xuyên và bằng
ngoại tệ (với tín dụng ngắn hạn). Do đó nếu quản lý nguồn vốn kinh doanh không tốt thì
gánh nặng trả nợ của công ty sẽ rất cao.
Năm 1991, tổng đầu tư tài chính thuần và tín dụng ngắn hạn là 9,913 tỉ USD, gấp 5,36
lần tổng đầu tư trực tiếp (1847 tỉ USD), đến năm 1996, là 18,079 tỉ USD, gấp 12 lần tổng
đầu tư trực tiếp thuần (l,405 tỉ USD).
Thế nhưng, tỉ suất thu hồi hay tỉ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) bình quân của các
doanh nghiệp đã giảm từ 8%/năm vào năm 1991 xuống chỉ còn 1%/năm vào năm 1996 .
Trong một nền kinh tế mà lãi suất cho vay là 16,3%/năm, còn hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp là 1%/năm thì rõ ràng đã đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng "phá sản doanh
nghiệp".
24
Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả
Trước nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và do có phần buông lơi vai trò giám sát
hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đi vay nên các ngân hàng và công ty tài chính
Thái Lan đã rất tích cực vay nợ từ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong nước.
Tổng số nợ nước ngoài của hệ thống ngân hàng Thái Lan so với cung tiền M2 đã tăng
từ 2,8% năm 1991 lên 28,69% năm 1996. Tổng số nợ nước ngoài so với tổng số tài sản
nước ngoài mà hệ thống ngân hàng có đã tăng từ 171% năm 1991 lên 694% năm 1996 .
Trong cùng thời gian này, tỉ lệ lợi nhuận trên tài sản (ROA) của hệ thống ngân hàng Thái
Lan đã giảm chỉ còn 0,99%/năm . Rõ ràng, Thái Lan đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng
"phá sản các ngân hàng"
Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán.
Trong suốt các năm 1991-1996, cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm hụt,
tổng cộng là 35,26 tỉ USD. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 tới 14,7 tỉ USD. Một lý
do của tình trạng này là do xuất khẩu bị kềm hãm, nhập khẩu được khuyến khích khi tỉ giá
hối đoái danh nghĩa gần như cố định (25 BAHT/USD), lạm phát trong nước cao hơn so với
ở Mỹ (5% so với 3%), làm cho đồng Baht bị lên giá so với đồng USD. Năm 1996, sự lên
giá của đồng Baht tới 25%. Để bù đắp khoản thâm hụt thương mại 35,26 tỷ USD và để có
vốn đầu tư với mức bình quân 40% GDP mỗi năm, thì con đường không tránh khỏi là phải
vay tiền nước ngoài (từ các ngân hàng, doanh nghiệp, nhà đầu tư tài chính, chính phủ các
nước...). Vì vậy, nợ nước ngoài của Thái Lan không ngừng tăng, từ 35,99 tỉ USD năm 1991
lên 89 tỉ USD năm 1996, gấp 2,47 lần trong vòng 5 năm và bằng 54% GDP. Mặc dù số nợ
này còn được dùng cả đê tăng dự trữ quốc gia, từ 18,4 tỷ USD năm 1991 lên 38,7 tỉ USD
năm 1996, song do đầu phải chín h và tín dụng ngắn hạn chiếm tới 90% tổng vốn đầu tư từ
nước ngoài hàng năm, nên số nợ ngắn hạn chiếm tỉ trọng tới 67% tổng số nợ nước ngoài
năm 1995 và 51% măm 1996, và nợ ngắn hạn năm 1995 và năm 1996 gấp gần 1,18 lần dự
trữ ngoại tệ của quốc gia. Tức là Thái Lan, thực tế đã mất khả năng thanh toán nợ nước
ngoài từ 1995. Nếu các nhà đầu tư Thái Lan cũng phải thả nổi đồng nội địa Baht, thì chính
họ sẽ bán cổ phiếu, trái phiếu, đòi nợ ngắn hạn, đổi từ tiền Baht ra USD, làm tăng cầu ngoại
tệ đột ngột. Kết quả là tỉ giá hối đoái sẽ tăng, dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, nguy cơ mất khả
năng thanh toán của quốc gia sẽ ngày càng cao. Đến tháng 6/1997, trước khi nổ ra khủng
hoảng, nợ nước ngoài ngắn hạn đã bằng 1,5 lần dự trữ ngoại tệ của Thái Lan. Tóm lại, cuối
năm 1996 và đầu 1997, ở Thái Lan đã xuất hiện đầy đủ 4 nguy cơ khủng hoảng ở mức cao.
25
Tác động nhanh từ tháng 3/1997
Tác động
chậm từ
tháng
12/1997
Tích lũy nguy cơ khủng hoảng
Doanh nghiệp kinh doanh
kém hiệu quả, tỷ suất sinh
lợi 1%/năm
Ngân hàng kinh doanh kém
hiệu quả tỷ suất sinh lợi
0,99%/năm
BAHT lên giá 25%, thâm hụt
tài khoản vãng lai 14,7 tỷ USD
Nguy cơ quốc gia mất
khả năng thanh toán. 1996: nợ ngắn
hạn 45,7 tỷ USD, dự trữ ngoại tệ
38,7 tỷ USD.
Khủng hoảng
Doanh nghiệp phá
sản hàng loạt
4
Ngân hàng công ty tài
chính phá sản
Người dân rút tiền tiết kiệm
mua vàng, ngoại tệ
3 Nội tệ
mất giá
nhanh từ
tháng
3/1997
2
Các nhà đầu tư nước ngoài rút
vốn và đổi ra ngoại tệ
1
Tác động nhanh
từ tháng 3/1997
Sơ đồ 4.1 Các tiền đề và cơ chế khủng hoảng kinh tế tài chính Thái Lan 1997
26
Diễn tiến khủng hoảng kinh tế - tài chính ở Thái Lan
Khi đã xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng, những người có đủ thông tin về các nguy cơ
này sẽ rất hoang mang. Việc lo sợ các ngân hàng và tổ chức tài chính phá sản sẽ thúc đẩy
họ rút tiền ra khỏi các tổ chức này. Lo sợ tỷ giá hối đoái tăng, đồng tiền Baht mất giá sẽ
khiến họ đổ xô đi mua USD, làm cầu USD tăng. Thực tế Ở Thái Lan, từ đầu năm 1997 đến
tháng 3/1997, người dân và các nhà đầu tư bắt đầu rút vốn của mình ở dạng tiền mặt ra khỏi
các ngân hàng và công ty tài chính, buộc chính phủ phải đóng cửa thị trường chứng khoán
một ngày 3.3.1997 và yêu cầu mọi tổ chức tài chính phải tăng thêm dự trữ tiền mặt, và công
bố 10 công ty tài chính đang ở trạng thái không bình thường (Unico Housing Co.Lia; Thai -
Fuji; Royallntemational; Sri Dhana; Eastem Finance; County.. .).
Ngày 4 và 5.3.1997 , hơn 21,4 tỉ Baht ( 820 triệu USD) đã được rút khỏi các ngân
hàng và công ty tài chính. Sau đó một tháng, ngày 9.4.1997, tỷ giá hối đoái tăng lên 26,08
BAHƯUSD, mức cao nhất từ 1991.
Ngày 25.6.1997, chính phủ đã ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài chính, nâng tổng số
công ty tài chính bị đóng cửa lên 58/91 (64%) toàn quốc. Để giữ tỉ giá hối đoái trong điều
kiện số lượng ngoại tệ được đặt mua tăng vọt, chính phủ đã phải bán ngoại tệ, làm dự trữ
ngoại tệ giảm mạnh từ 38,78 tỉ USD tháng 6.1996 còn 37,7 tỉ USD vào tháng 12.1996 và
còn 31,4 tỉ USD vào 30.6.1997. Nếu mức.độ giảm sút dự trữ quốc gia của quý 2.1997 kéo
dài thêm khoảng 2 - 3 quý nữa thì lúc đó dự trữ ngoại tệ quốc gia chỉ còn khoảng 10 tỷ
USD, bằng 1/3 mức dự trữ ngoại tệ năm 1996, và chính phủ sẽ buộc phải thả nổi tỉ giá hối
đoái vì hoàn loàn không còn khả năng bán ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái.
Có lẽ thấy trước nguy cơ này, ngày 2.7. 1997, chính phủ Thái Lan tuyên bố thả nổi
đồng Baht, kết quả là tỉ giá tăng từ 25 BAHT/USD vào tháng 6.1997 lên 53 BAHT/USD
vào tháng 1/1998 tức là tăng 112% trong vòng 6 tháng
Như vậy,cuộc khủng hoảng ở Thái Lan bùng nổ do hoạt động trước hết của vòng
xoáy khủng hoảng số 3 (Sơ đồ 4.1), khi người dân và nhà đầu tư rút vốn khỏi các ngân
hàng, làm phá sản hàng loạt ngân hàng và các công ty tài chính, kế đó là tác động của vòng
xoáy khủng hoảng số 2 và 1 (Sơ đồ 4. 1 ), khi họ đôi đồng Baht lấy ngoại tệ USD, làm tỉ
giá hối đoái tăng vọt. Chỉ trong năm 1997, hơn 22 tỉ USD cho vay ngắn hạn đã được thu
hồi và rút ra khỏi Thái Lan. Sự phá sản của các ngân hàng, công ty tài chính và sự tăng vọt
của tỉ giá hối đoái sẽ làm cho các doanh nghiệp vốn đã kém hiệu quả bị thua lỗ, phá sản.
Trong năm tháng đầu 1998, gần 4.000 doanh nghiệp ở Thái Lan bị phá sản, tạo nên vòng
xoáy khủng hoảng số 4.
27
Sự phá sản của các doanh nghiệp, tuy tác động chậm hơn, song sẽ lại thúc đẩy quá
trình phá sản các ngân hàng, công ty tài chính, vòng xoáy khủng hoảng số 4. Trong tổng số
108 ngân hàng, công ty tài chính của Thái Lan, từ tháng 4. 1997 đến tháng 3.1998, 64 ngân
hàng, công ty tài chính có vấn đề (chiếm 59%), trong đó 56 bị đình chỉ hoạt động, 4 bị quốc
hữu hóa hoặc chính phủ giám sát và 4 bị bán cho các công ty nước ngoài.
Như vậy tiến trình bùng nổ khủng hoảng kinh tế - tài chính ở Thái Lan có thể được
mô tả như Sơ đồ 4.1. Việc ghi mức thời gian chỉ có tính tương đối, vì các quá trình đan xen
vào nhau và việc bắt đầu mỗi vòng xoáy khủng hoảng đều diễn ra ở quy mô nhỏ từ trước
các mốc thời gian. Dưới tác động của vòng xoáy khủng hoảng số 2 và 1 , tỉ giá hối đoái (đã
tăng vọt từ khoảng 25 BAHT/USD vào tháng 6.1997 lên 53 BAHT/USD vào 31.12.1997,
sau đó tuy có giảm song vẫn ở mức trên 38 BAHT/USD vào 30.4.1998.
Quá hài lòng thỏa mãn trong thời kỳ tăng trưởng nhanh và quên đi nhiều nhiệm vụ
quan trọng để thích ứng với môi trường toàn cầu đang thay đổi. Mặc dù Thái Lan đã thu hút
các dòng vốn to lớn với lãi suất thấp nhưng chúng ta không được đầu tư đúng đắn và với sự
thận trọng cần thiết. . . Người Thái đã sao nhãng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh
của mình. Và điều quan trọng hơn là dù đã đạt được thành tựu kinh tế, Thái Lan đã không
kiểm tra nền tảng chính trị và quản lý nhà nước của mình, đã không thành công trong việc
tấn công các vấn đề như sự phi hiệu quả của hệ thống chính quyền, thiếu minh bạch và
thiếu trách nhiệm.
Như vậy, nguyên nhân của bong bóng dẫn đến khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á
1997-1998 không quá khó hiểu. Nó là kết cục của một quá trình tăng trưởng tín dụng cao
độ, từ các nguồn ngoại tệ ngắn hạn, tập trung mạnh vào một vài phân khúc của nền kinh tế
như bất động sản, cổ phiếu và cả đồng nội tệ đang lưu hành. Hiện tượng lien tục tạo ra
những dòng tín dụng lớn, tích lũy qua thời gian dài, đã góp phần tạo nên một cơ chế cuồng
đầu cơ trong xã hội, nhờ dễ dàng tiếp cận tín dụng lỏng lẻo. Đó chính là môi trường cho
quá trình kích phát bong bong đầu cơ quy mô ở nhiều nền kinh tế trong khu vực.
28
2.1.4. Bong bóng bất động sản ở Mỹ (2001 – 2005):
Sau một thời gian dài thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm đối phó với hậu quả
từ cuộc khủng hoảng Dotcom (2000), nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái trầm trọng. Để
khuyến khích nền kinh tế trong nước tăng trưởng trở lại, FED đã liên tục cắt giảm lãi suất.
Cụ thể đã cắt giảm 11 lần trong năm 2001 từ 6.5% xuống còn 1.75 % và đạt mức kỷ lục
1% vào tháng 6/2003 (thấp nhất trong vòng 45 năm qua). Chính sách tiền tệ mở rộng ngay
lập tức đã khuyếch trương các hoạt động kinh tế. Đến giữa năm 2002, nền kinh tế đã thực
sự phục hồi nhưng mối lo ngại về suy thoái có thế quay trở lại đã khiến chủ tịch FED, Alan
Greenpan và chính phủ Mỹ quyết định giữ nguyên lãi suất chỉ đạo ở mức 1% trong suốt hai
năm 2003 và 2004.
Đáp lại chính sách tiền tệ nới lỏng của FED , lãi suất trên hầu khắp các thị trường tài
chính đều giảm mạnh đồng thời lượng cung tiền tệ trong nền kinh tế Mỹ gia tăng đáng kể .
Khối lượng cho vay của tất cả các loại hình tín dụng ngân hàng gia tăng liên tục, thúc đẩy
quá trình mở rộng tiền tệ đang diễn ra. Sự gia tăng khối lượng tín dụng còn được tạo ra bởi
dòng vốn nước ngoài chảy vào ổn định . Với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế vào
cuối năm 2002, thu nhập cá nhân và lợi nhuận của các công ty đều tăng lên đáng kể.
29
Biểu đồ : Doanh số bán nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007
Nguồn:
Cuối năm 2002, hoạt động của thị trường nhà ở diễn ra sôi động nhờ thu nhập cá
nhân tăng, lãi suất cho vay thế chấp thấp và các khoản tín dụng dồi dào. Điều này càng kích
thích các nhà đầu tư tranh thủ gia tăng hơn nữa lợi nhuận kiếm được.
Người dân đổ xô đi mua nhà nhằm kiếm lời bởi họ tin tưởng rằng giá nhà sẽ tăng
cao hơn trong tương lai. Các nhà đầu cơ nắm bắt được cơ hội này đã thu được lời lớn chỉ
đơn giản bằng cách mua đi và bán lại, thậm chí ngay cả khi những ngôi nhà đó chưa được
xây xong và đưa vào sử dụng. Các nhà môi giới cho vay thế chấp nôn nóng đẩy nhanh và
kết thúc các giao dịch nhằm thu về các khoản phí và chuyển sang các hợp đồng kế tiếp.
Biểu đồ : Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007
Nguồn:
30
Trong suốt giai đoạn bong bóng hình thành, những người mua nhà không cảm nhận
được bất kỳ rủi ro nào bởi vì sự gia tăng liên tục của giá nhà cho phép họ trả nợ rất dễ dàng
bằng cách vay thêm. Những người cho vay cũng không duy trì các khoản nợ của họ trong
sổ sách mà bán cho các ngân hàng đầ u tư chứng khoán để trở thành công cụ chứng khoán
phái sinh được đảm bảo bằng chính tài sản cho vay thế chấp. Do vậy, những người cho vay
thế chấp liên tục có thêm tiền mặt để tạo ra các khoản cho vay mới, đẩy giá nhà lên cao hơn
nữa và một chu trình mới lại bắt đầu.
Biểu đồ : Lượng cung nhà ở Mỹ giai đoạn 2000-2007.
Nguồn:
Tuy nhiên, vào đầu năm 2006 , thị trường nhà đất bắt đầu có dấu hiệu suy giảm.
Những ngôi nhà mới xây đã không bán được và hậu quả là sự gia tăng giá bắt đầu giảm
mạnh. Nguyên nhân của tình trạng này là sự đảo ngược chính sách tiền tệ của FED. Nền
kinh tế Mỹ đã bước vào năm thứ 4 tăng trưởng liên tục và những dấu hiệu lạm phát gia tăng
mạnh đã xuất hiện. Một loạt các chỉ số giá khác cũng gia tăng. FED đã phản ứng lại bằng
cách liên tục gia tăng lãi suất lên 5,25%.
Chính sách tiền tệ thắt chặt của FED đã làm lãi suất trên thị trường tăng cao, điều
này gây bất ngờ lớn với những nhà đầu tư. Nhất là các con nợ dưới chuẩn. Do tình trạng tài
chính eo hẹp, nhiều người đã không đủ khả năng thanh toán. Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ bắt
đầu tăng mạnh. Bong bóng nhà đất ở Mỹ bùng nổ châm ngòi cho cuộc đại khủng hoảng tài
chính diễn ra ngay sau đó trên toàn nước Mỹ và lan ra khắp thế giới.
31
2.1.5. TỔNG KẾT DẤU HIỆU BONG BÓNG TÀI SẢN
DẤU HIỆU 1 : CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA CHÍNH PHỦ
BONG BÓNG
SOUTH SEA (1720)
BONG BÓNG TÀI SẢN
Ở NHẬT (1985 – 1990)
BONG BÓNG TÀI
CHÍNH Ở THÁI LAN
(1997)
BONG BÓNG TÀI SẢN
Ở MỸ (2001 -2006)
Lãi suất cơ bản
Không biến đổi mạnh
trong thời kỳ này.
Lãi suất thấp (2.5%) và
duy trì trong thời gian
dài
Lãi suất cao duy trì
trong thời gian dài
Lãi suất thấp (1%) và
duy trì trong thời gian
dài
Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng
Tăng cung tiền tệ
bằng cách phát hành
trái phiếu.
Gia tăng đột biến, các
thủ tục thẩm định được
đơn giản hóa.
Tín dụng không tăng
mạnh
Gia tăng đột biến, các
thủ tục thẩm định được
đơn giản hóa.
Chỉ số tăng trưởng kinh tế
Kinh tế phát triển
mạnh.
GDP tăng nhanh ( từ
2,61% lên 6,67%)
Chỉ số GDP tăng mạnh
(8%/năm)
GDP tăng nhanh ( từ
0,759% lên 3,65%)
Chỉ số ICOR & Tỷ lệ tăng
trưởng GDP
Không thu thập được
số liệu.
Không bị tác động bởi
ICOR
Chỉ số ICOR tăng cao
tương ứng với tốc độ
tăng GDP
Không bị tác động bởi
ICOR
32
DẤU HIỆU 2 : PHẢN ỨNG CỦA THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC :
BONG BÓNG SOUTH
SEA
BONG BÓNG TÀI SẢN Ở
NHẬT (1985 – 1990)
BONG BÓNG TÀI CHÍNH
Ở THÁI LAN (1997)
BONG BÓNG TÀI SẢN Ở
MỸ (2001 -2006)
Chỉ số CPI
Không thu thập được số
liệu.
CPI tăng nhẹ từ 88,08 lên
97,22
Chỉ số CPI không biến
động mạnh trong thời gian
này.
CPI tăng nhẹ từ 172,2 lên
201,6
Chỉ số chứng khoán
Tăng gấp 10 lần trong thời
gian ngắn
Tăng gấp 3 lần trong vòng
4 năm từ năm 1985- 1989
Chỉ số chứng khoán SET
Index không thay đổi nhiều
có xu hướng giảm nhẹ.
Chỉ số Dow Jones Index
không biến động mạnh
Giá bất động sản
Không thu thập được số
liệu.
Tăng gấp 20 lần trong vòng
10 năm ( 1978-1989)
Giá bật động sản có xu
hướng giảm nhẹ.
Giá bất động sản tăng nhẹ
Tương quan giữa các thị
trường tài sản
Không thu thập được số
liệu.
Tương quan đồng biến giữa
thị trường bất động sản và
chứng khoán
Tương quan đồng biến giữa
thị trường bất động sản và
chứng khoán
Tương quan đồng biến giữa
thị trường bất động sản và
chứng khoán
Dấu hiệu đầu cơ
Tính đầu cơ rất mạnh thể
hiện qua những cơn khát
hàng của các nhà đầu cơ.
Hiện tượng làm giá diễn ra
mạnh mẽ trong thị trường
bất động sản ở các thành
phố lớn ở Nhật Bản
(Tokyo, Osaka).
Đầu cơ tiền tệ tăng mạnh
từ phía nhà đầu tư nước
ngoài.
Có xuất hiện đầu cơ thể
hiện qua lượng cầu tăng
đột biến ở thị trường nhà
thứ cấp
33
DẤU HIỆU 3 : PHẢN ỨNG CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI :
BONG BÓNG SOUTH
SEA
BONG BÓNG TÀI SẢN
Ở NHẬT (1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DE TAI_2.pdf