Đề tài Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I 3

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ 3

I. Hệ thống kiểm soát nội bộ và vai trò của kiểm toán nội bộ trong kiểm tra kiểm soát. 3

1.1. Khái niệm về kiểm soát nội bộ. 3

1.1.1. Khái niệm 3

1.1.2. Vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ. 4

1.2.Các nội dung của hệ thống kiểm soát nội bộ. 4

1.3. Vị trí của kiểm toán nội bộ trong kiểm tra, kiểm soát nội bộ. 8

II. Kiểm toán nội bộ. 9

1.1. Bản chất của kiểm toán nội bộ: 9

1.2.Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu và quyền hạn của kiểm toán nội bộ. 11

1.2.1.Chức năng của kiểm toán nội bộ. 11

1.2.2.Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ. 11

1.2.3. Quyền hạn của kiểm toán nội bộ. 12

1.3. Nội dung phạm vi hoạt động và các loại hình kiểm toán nội bộ. 13

1.3.1.Đối tượng phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ. 13

1.3.2. Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ. 13

1.3.3.Các loại hình kiểm toán nội bộ. 14

1.4. Tổ chức hệ thống kiểm toán nội bộ. 14

1.4.1.Nguyên tắc, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ. 14

1.4.2. Mô hình tổ chức: 15

CHƯƠNG II 19

XÂY DỰNG HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BÔ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MAỊ Ở VIỆT NAM. 19

I. Tìm hiểu khái quát về ngân hàng thương mại. 19

1.1. Khái quát chung. 19

1.2.Vai trò và chức năng cơ bản của ngân hàng. 20

2.1. Sự cần thiết của hệ thống kiểm soát nội bộ tại các ngân hàng thương mại việt nam. 21

2.2 Một số tiền đề hiện nay cho việc hình thành hệ thống kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam 23

II) Nguyên tắc xây dựng và thức trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ tại các ngân hàng thương mại . 24

2.1 Nguyên tắc để xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ taị các ngân hàng thương mại ở Việt Nam 24

2.2. Thực trạng hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. 27

2.2.1.Những kết quả đạt được. 28

2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc của hệ thống kiểm soát nội bộ các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. 30

CHƯƠNG III 34

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QỦA HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ NÓI CHUNG VÀ CỦA BỘ PHẬN KIỂM TOÁN NỘI BỘ NÓI RIÊNG TẠI CÁC NHTM Ở VIỆT NAM 34

KẾT LUẬN 42

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 43

 

 

doc49 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3175 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiểm toán nội bộ phải đảm bảo: - Tính khoa học: tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải phù hợp với nguyên lý chung của lý thuyết kiểm toán.Tuỳ theo đặc điểm tổ chức của doanh nghiệp là tổ chức theo phương pháp chức năng hay trực tuyến tham mưu mà đưa ra mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ cho phù hợp. - Tính nghệ thuật: tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải chú ý tới nhân tố con người. - Điều quan trọng trong tổ chức kiểm toán nội bộ là phải xác định quy mô của doanh nghiệp: doanh nghiệp có thực sự cần bộ máy kiểm toán nội bộ hay không, quy mô của doanh nghiệp như thế thì bộ máy kiểm toán nội bộ nên có quy mô như thế nào thì thích hợp... - Tuỳ theo cơ cấu của doanh nghiệp như thế nào mà tổ chức kiểm toán nội bộ cho phù hợp sao cho đem lại hiệu quả cao nhất, tốn chi phí ít nhất. - Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ: tập trung dân chủ thích ứng với từng bộ phận kiểm toán . - Hệ thống bộ máy kiểm toán nội bộ bao gồm các mối liên hệ trong và ngoài khác nhau và phải phù hợp với nguyên lý chung của lý thuyết tổ chức và quy luật biện chứng về mối liên hệ. * Để tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ thì cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Phải xác định kiểu mô hình tổ chức phù hợp với đặc điểm,cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. - Xác định kiểu liên hệ trong từng mô hình. - Xây dựng mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành nên hệ thống kiểm toán nội bộ với kiểm toán viên. Đó là những nguyên tắc và nhiệm vụ cần phải tuân thủ khi tiến hành tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ. 1.4.2. Mô hình tổ chức: Bộ máy kiểm toán nội bộ gồm: trưởng phòng kiểm toán nội bộ, phó trưỏng phòng kiểm toán nội bộ(nếu có), nhóm trưởng kiểm toán nội bộ và kiểm toán viên nội bộ. Số lượng kiểm toán viên nội bộ phụ thuộc vào quy mô kinh doanh, địa bàn hoạt động, số lượng các đơn vị thành viên, tính chất phức tạp của công việc, yêu cầu quản lý kinh doanh và trình độ, năng lực nghề nghiệp của kiểm toán viên . Ở các tập đoàn sản xuất ( Tổng công ty, liên hiệp các xí nghiệp...) phải tổ chức phòng(ban) kiểm toán nội bộ có đủ lực lượng và năng lực để kiểm toán trong đơn vị và các đơn vị thành viên. Bộ phận kiểm toán nội bộ được tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp ( kể cả phòng kế toán- tài chính); chịu sự chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp của (Tổng) Giám đốc doanh nghiệp . Theo yêu cầu của bộ phận kiểm toán nội bộ, ( Tổng) Giám đốc có thể cử chuyên gia thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác trong doanh nghiệp, hoặc thuê chuyên gia bên ngoài( nếu cần thiết) tham gia một số nội dung hoặc toàn bộ một cuộc kiểm toán . Đứng đầu phòng (ban) kiểm toán nội bộ là trưởng phòng( hoặc trưởng ban) kiểm toán nội bộ doanh nghiệp . Ở doanh nghiệp Nhà nước, Trưởng phòng (hoặc trưởng ban) kiểm toán nội bộ do (Tổng) Giám đốc bằng văn bản của Tổng cục, Cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp (Bộ tài chính), Trưởng phòng kiểm toán nội bộ là người ký, chịu trách nhiệm trước (Tổng) giám đốc và trước pháp luật về báo cáo kiểm toán nội bộ . Trưởng phòng kiểm toán nội bộ có nhiệm vụ và quyền hạn: 1. Chủ động xây dựng kế hoạch và lập chương trình kiểm toán hàng năm. Tổ chức các cuộc kiểm toán trong nội bộ doanh nghiệp theo nhiệm vụ kế hoạch và chương trình kiểm toán đã được( Tổng ) Giám đốc phê duyệt. 2. Quản lý, bố trí, phân công công việc cho kiểm toán viên và thực hiện các biện pháp đào tạo và huấn luyện kiểm toán viên , đảm bảo không ngừng nâng cao trình độ và năng lực công tác của kiểm toán viên và bộ máy kiểm toán nội bộ. 3. Đề xuất với ( Tổng) Giám đốc về việc để bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đói với kiểm toán viên nội bộ. 4. Để nghị trưng tập kiểm toán viên ở các đơn vị thành viên hoặc chuyên viên các bộ phận khác liên quan trong doanh nghiệp để thực hiện các cuộc kiểm toán khi cần thiết. 5. Kiến nghị các thay đổi về chính sách, đường lối nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh . 6. Khi phát hiện có hiện tưọng vi phạm pháp luật hoặc những quyết định trái với chủ trương, chính sách, chế đọ phải có trách nhiệm báo cáo các cấp có thẩm quyền đưa ra các giải pháp để giải quyết kịp thời. Mô hình: Kiểm toán nội bộ trực thuộc (Tổng ) Giám đốc của doanh nghiệp HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ (HĐQT) Bộ phận kiểm toán nội bộ Tổng giám đốc (Giám đốc) Cán bộ quản lý cấp trung gian Cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp Chú thích: Quan hệ trực thuộc: Quan hệ kiểm tra: Luồng thông tin phản hồi: Cách tổ chức theo mô hình này phù hợp với điều kiện thực tiễn của các doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên để kiểm toán nội bộ thực sự có hiệu quả thì người đứng đầu bộ phận kiểm toán nội bộ phải được quyền tự do báo cáo kết quả kiểm toán với Ban kiểm soát của Hội đồng quản trị (nếu doanh nghiệp có Hội đồng quản trị) Như vậy, qua việc phân tích những chức năng, đặc điểm của kiểm toán nội bộ thì việc hình thành kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển đa chiều, cạnh tranh gay gắt là một điều cần thiết để nâng cao tính hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp, chỉ ra các vấn đề, các hướng để hoàn thiện hệ thống chính sách, hệ thống kế toán trong doanh nghiệp, đồng thời tuỳ theo mỗi nhu cầu tự thân, mỗi điều kiện hoàn cảnh của các doanh nghiệp mà có cơ cấu tổ chức kiểm toán và kiến nghị chiến lược cho các nhà quản trị trong quá trình lãnh đạo doanh nghiệp ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề kiểm toán nội bộ còn mới mẻ nên cần quan tâm trước hết đến việc xây dựng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ, đặc biệt trong quá trình cải tiến quản lý Nhà nước và Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Ngay ở các đơn vị quốc doanh cũng phải tách biệt chức năng kiểm toán ra khỏi chức năng tổ chức kế toán, tài chính của kế toán trưởng. CHƯƠNG II XÂY DỰNG HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BÔ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MAỊ Ở VIỆT NAM. I. TÌM HIỂU KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1. Khái quát chung. Ngân hàng là một trong những ngân hàng tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu dv hàng triệu hộ tiêu dùng ( cá nhân, hộ gia đình) và vói hầu hết các cơ quan chính quyền điạ phương ( thành phố, tỉnh...).Hơn nữa, dv các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương, từ người bán rau quả cho tới người kinh doanh ô tô, ngân hàng là tổ chức cung cấp tín dụng cơ bản phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc mua ô tô trưng bày. Khi doanh nghiệp và người tiệu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ họ thường dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ họ thường sử dụng séc, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử. Và khi cần thông tin tài chính hay cần lập kế hoạch tài chính, họ thường tìm đến ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Trên toàn thế giới, ngân hàng là loại hình tổ chức trung gian tài chính cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất. Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên qua trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho các công trình công cộng, từ những hội trường, sân bóng đá cho đến sân bay và đường cao tốc. Ngân hàng cũng là một trọng tổ chức tài chính cung cấp vốn lưu động quan trọng nhất cho các doanh nghiệp và trong những năm gần đây, ngân hàng đã tăng cường mở rộng cho vay dài hạn đổi mới hay mua sắm máy móc thiết bị mới. Với tất cả những lí do đó và hơn thế nữa, ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất của xã hội. Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tài chính kinh doanh nào trong nền kinh tế. 1.2.Vai trò và chức năng cơ bản của ngân hàng. Sơ đồ : Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay Chức năng uỷ thác Chức năng tín dụng Chức năng bảo hiểm Chức năng môi giới Chức năng ngân hàng đầu tư và bảo lãnh Ngân hàng hiện đại Chức năng quản lý tiền mặt Chức năng lập kế hoạch đầu tư Chức năng thanh toán Chức năng tiết kiệm *) Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế. Trong khi nhiều người tin rằng các ngân hàng chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong nền kinh tế – nhận tiền gửi và cho vay- thì trên thực tế h hiện đã phải thực hiện nhiều vai trò mới để có thực hiện để duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội. các ngân hàng ngày nay có những vai trò cơ bản sau: Vai trò trung gian: chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình, các thành phần khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác. Vai trò thanh toán: thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hoá, dịch vụ ( như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử , kết nối các quĩ và phân phối tiền giấy). Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán ( chẳng hạn như phát hành thư tín dụng). Vai trò đại lý: thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán( thường được thực hiện tại phòng uỷ thác). Vai trò thực hiện chính sách: thực hiện chính sách kinh tế của chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội. 2.1. Sự cần thiết của hệ thống kiểm soát nội bộ tại các ngân hàng thương mại việt nam. Ngân hàng thương mại và những trung gian tài chính, nói chung cũng giống như những doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường: chúng đều được tổ chức ra để kinh doanh kiếm lợi cho minmhf và cho chủ nợ. Để hoạt động kinh doanh các ngân hàng thương mại phải có vốn và phải bảo toàn, phát triển vốn của mình. Trong tổng số nguồn vốn của các ngân hàng thương mại , nguồn vốn huy động chiếm một tỷ trọng lớn, xu hướng hoạt động luôn được mở rộng theo nhiều hướng : huy động vốn tăng để mở rộng cho vay và đầu tư. Khác với các doanh nghiệp bình thường, ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng thanh toán, liên quan đến toàn bộ nền kinh tế. Tuy hoạt động ngân hàng hiện nay, bao gồm nhiều loại nguồn vốn nhưng tựu trung lại đâyu là loại hình kinh doanh tiền tệ, tín dụng của một hệ thống trung gian, tài chính đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, dựa trên cơ sở thu hút tiền của khách hàng (dưới hình thức nhận tiền gửi, huy động bằng trái phiếu, kỳ phiếu, và đi vay..), với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư và các nguồn vốn thanh toán. như vậy ngân hàng thương mại tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình thông qua việc, sử dụng không chỉ bằng nguồn vốn tự có mà chru yếu bằng nguồn vốn huy động vủa khách hàng. Nếu ngân hàng thương mại không thu hội được số nợ vay mà họ đã cho vay ra, thì không những họ bị mất nguồn vốn tự có của bản thân, mà còn có nguy cơ không thể hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng. Trong hoạt động ngân hàng thương mại tổn thất trong kinh doanh là một tất yếu, khó tránh khỏi. Việc đảm bảo an toàn vốn tiền gửi của khách hàng và đảm bảo an toàn vốn đầu tư không những được các nhà kinh doanh tiền tệ quan tâm đặc biệt mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội. vì vậy, yêu cầu đầu tiên đặt ra nhằm đảm bảo hoạt động bình thường là ngân hàng thương mại phải thường xuyên thu hồi được số vốn đã cho vay, để duy trì khả năng hoàn trả số tiề đã huy động của khách hàng và bảo toàn nguồn vốn tự có của bản thân. sự an toàn vững chắc trong kinh doanh của ngân hàng thương mại có thể được hiểu là sự đảm bảo an toàn về mặt quyền lợi của người gửi tiền cũng như đối với chính bản thân ngân hàng. Nước ta đang trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong điều kiện nhiều vấn đề chưa được giải quyết đồng bộ, như các yếu tố về luật pháp, luật định, quy chế.. do đó việc điều hành quản trị hoạt động ngân hàng ít nhiều bị ảnh hưởng. Thực tế xảy ra nhiều ngân hàng có những biểu hiện không đồng bộ không thống nhất, các vụ việc vi phạm quy chế, nghiệp vụ vẫn lặp đi lặp lại, chưa được giải quyết triệt để. Muốn uốn nắn và phát hiện sai sót kịp thời nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh ngân hàng, ngoài các biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước trước hết đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có những biện pháp hữu hiệu, mà biện pháp quan trọng nhất là ngân hàng thương mại phải thiết lập được hệ thống kiểm toán nội bộ. Nhưng việc hình thành một tổ chức kiểm toán nội bộ trong ngân hàng sẽ được các lợi ích mang lại từ kiểm toán. đây là một trong những lí do làm cho các ngân hàng , nhất là các ngân hàng có quy mô hoạt động nhỏ chưa có tổ chức bộ phận kiểm toán. các ngân hàng này thường kết hợp giữa bộ phận kế toán và bộ phận kiểm toán. điều này trái với nguyên tắc “ bất kiêm nhiệm” và không đúng với tính chất nội dung của kiểm toán nội bộ Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng hiện nay đã có bộ phận kiểm toán nội bộ nhưng hoạt động còn yếu kém lỏng lẻo chỉ mang tính chất hình thức, nên tác dụng giám định và kiểm tra yếu kém. Một phần do bản thân kiểm toán viên chưa được đào tạo đầy đủ về chuyên môn kiểm toán, thiếu kinh nghiệm trong kiểm toán, mặt khác kiểm toán viên cũng chưa đựơc giao đầy đủ “quyền hạn , trách nhiệm”. Vì vâỵ công tác kiểm toán đôi khi mất tính khách quan. Chỉ kiểm toán và đưa ra những kết luận tốt những mặt ưu điểm còn sai sót thì bỏ qua. Vì thế có một số ngân hàng hoàn thành ké hoạch báo cáo các kết quả đều tốt nhưng khi có đoàn thanh tra đến làm việc thì mọi khuyết điểm , yếu kém thực sự sẽ được đưa ra. Do vậy, điều thiết yếu ở đây là phải thiết lập được hệ thống kiểm toán nội bộ một cách đầy đủ và có hiệu quả. Qua thực trạng công tác kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, rõ ràng còn nhiều hạn chế tồn tại và khó khăn. vì thế việc hình thành và hoàn thiện công tác này là một điều rất cần thiết không những cho riêng bản thân các ngân hàng mà còn cho toàn bộ nền kinh tế. 2.2 Một số tiền đề hiện nay cho việc hình thành hệ thống kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam *Sự ra đời của các loại hình kiểm toán. Hoà nhập vào nền kinh tế thị trường quốc tế, Việt Nam hiện nay đã hình thành một số công ty kiểm toán độc lập , trong đó có công ty liên doanh cũng như công ty kiểm toán, hoạt động bằng 100% vốn nước ngoài. Ngoài ra hệ thống kiểm toán nhà nước cũng được thành lập sau hệ thống kiểm toán độc lập và đến nay đã đi vào hoạt động với phạm vi rộng rãi, thu nhiều kết qủa tốt. Sự ra đời và phát triển ngày càng mạnh mẽ hai hệ thống kiểm toán trên là một tiền đề chắc chắn và quan trọng để kiểm toán nội bộ ra đời và phát triển. *Về nhân sự Mặc dù kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng là hoạt động còn mới mẻ đối với tình hình hoạt động kinh tế Việt Nam tuy nhiên đội ngũ các bộ làm công tác kiểm toán đã được trang bị hoặc tự mình trang bị kiến thức chuyên môn mọi mặt để từng bước hoàn thiện công tác kiểm toán. ngoài ra cũng có một bộ phận không nhỏ các chuyên gia , nhân viên người nước ngoài đang làm công tác kiểm toán nội bộ cho các ngân hàng tại Việt Nam, bộ phận này với kinh nghiệm của họ cũng giúp cho cán bộ kiểm toán Việt Nam học tập, trao đổi nâng cao nghiệp vụ kiểm toán. đây cũng là một điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm toán nội bộ được hình thành và phát triển tại Việt Nam. *Môi trường pháp lý Qua nhiều năm chấn chỉnh, sửa đổi, bổ sung luật pháp Việt Nam, ngày càng tự hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. - Tháng 1/1994- Chính phủ ban hành các quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. - Trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng , hoạt động kiểm toán nội bộ đã được luật hoá bằng luật ngân hàng nhà nước và luật tài chính tín dụng. Nghị định 49/CP của Chính phủ và đã được các ngân hàng triển khai. - Các chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận tại Mỹ, các chuẩn mực kiểm toán quôc gia , các chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng được phổ biến rộng rãi. Mặc dù hành lang pháp lý của Việt Nam chưa đầy đủ nhưng đây vẫn là những tiền cho sự ra đời các chuẩn mực kiểm toán nội bộ của ngân hàng Việt Nam. II) NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG VÀ THỨC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI . 2.1 Nguyên tắc để xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ taị các ngân hàng thương mại ở Việt Nam Từ khi luật các tài chính tín dụng ra đời thì cụm từ “ kiểm toán nội bộ” ngân hàng ở Việt Nam mới được sử dụng chính thức khi nói về hoạt động kiểm tra nội bộ của các tổ chức tín dụng. Thực ra hoạt động kiểm toán nội bộ trong ngân hàng đã được thực hiện từ lâu, nhưng dưới các từ như thanh tra nội bộ, kiểm soát, kiểm tra nội bộ, kiểm soát nghiệp vụ.. Nhưng kiểm toán nội bộ được dùng như để đánh dấu bước phát triển cao hơn so với hoạt động kiểm tra, giám sát thông thường. Nếu như trước đây, hoạt động của kiểm toán nội bộ chủ yếu là kiểm tra nhằm đánh giá tính tuân thủ các quy định của pháp luật và quy định nội bộ của tổ chức tín dụng thì ngày nay, cùng với sự gia tăng về giá trị tài sản thì kiểm toán nội bộ còn cần phải đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động của đơn vị và đưa ra những kiến nghị cần thiểt để hoàn thiện hoạt động và hạn chế rủi ro cho tổ chức tài chính. Kiểm toán nội bộ chỉ là một bộ phận cấu thành của hệ thống kiểm soát nội bộ. Kiểm soát nội bộ được định nghĩa là kế hoạch và toàn bộ các phương pháp các bước công việc mà nhà quản lý doanh nghiệp phải tuân theo. Hệ thống kiểm soát nội bộ trợ giúp cho các nhà quản lý đạt được mục tiêu một cách chắc chắn theo trình tự và kinh doanh hiệu quả. Như vậy kiểm soát nội bộ có thể nói là một cơ cấu tổ chức cộng với những biện pháp thủ tục phối kết hợp với nhau để đạt được các mục tiêu: điều khoản và quản lý kinh doanh một cách có hiệu quả giữ an toàn tải sản , đảm bảo tính chính xác và tính đáng tin cậy của các dữ liệu hạch toán hỗ trợ việc chấp hành chính sách kinh doanh đã được quy định, ngăn ngừa những thiếu sót trong hệ thống xử lý phát hiện kịp thời những thiếu sót phát sinh. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm hai bộ phận: hệ thống cơ chế kiểm tra nội bộ là một hình thức kiểm tra được cài đặt ngay trong quy trình nghiệp vụ được thực hiện bởi những nhân viên nghiệp vụ tại các đơn vị giao dịch trực tiếp với khách hàng và tất cả những ai tham gia vào quá trình xử lý nghiệp vụ, được thực hiện bởi các lãnh đạo cao cấp. Kiểm toán nội bộ là hình thức kiểm tra nằm ngoài quy trình nghiệp vụ, được thực hiện bởi những người độc lập với quy trình nghiệp vụ và không chịu trách nhiệm về quy trình nghiệp vụ đó, đó là những kiểm toán viên nội bộ. Kiểm toán nội bộ ngân hàng thương mại có ba chức năng cơ bản: - Kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá tính hữu hiệu và tính hiệu quả trong hoàt động của đơn vị. - Kiểm toán tuân thủ nhằm giám sát việc tuân thủ pháp luật và các quy định nội bộ của tổ chức tín dụng ở các quy định nội bộ của tổ chức tín dụng ở các đối tượng chịu sự kiểm toán. - Kiểm toán hoạt động tài chính nhằm xác nhận tính trung thực, hợp lý, hợp pháp của các báo cáo tài chính của tài chính tín dụng Nếu như hoạt động trọng tâm của kiểm toán độc lập là kiểm toán nhằm xác nhận tính trung thực, hợp pháp, hợp lý của các báo cáo tài chính thì trọng tâm của kiểm toán nội bộ là kiểm tra nhằm đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động của đơn vị và tính tuân thủ các quy định vủa pháp luật và quy định nội bộ. Ngoài ba chức năng trên, kiểm toán nội bộ còn có chức năng tư vấn trong nội bộ tài chính tín dụng, đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của cơ cấu tổ chức cũng như quy trình vận hành của tài chính tín dụng. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ là thực hiện kiểm toán đối với tất cả các quá trình hoạt động va kinh doanh của tài chính tín dụng, tất cả các đơn vị tổ chức trong tài chính tín dụng. Cụ thể là kiểm toán nội bộ phải kiểm tra đánh giá về: Khả năng hoạt động, tính hiệu quả, tính kinh tế và sự hợp lý của cơ chế kiểm tra nội bộ. Việc áp dụng, khả năng hoạt động, tính hiệu quả và sự hợp lý của cơ chế quản lý và điều hành rủi ro. Kiểm tra chế độ thông tin báo các, hệ thống thông tin và chế độ tài chính kế toán. Việc tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy định nội bộ, việc chấp hành các quy chế, chế độ và quy tắc của đơn vị cũng như tính nghiêm túc đúng đắn của tất cả các quá trình hoạt đọng kinh doanh và các quy định là biện pháp nhằm bảo vệ tài sản của đơn vị. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, kiểm toán nội bộ xác định mức độ phù hợp với luật trong việc ban hành những quy định nội bộ, xác định chất lượng thực hiện công việc của ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên, đưa ra những kiến nghị cần thiết nhằm sửa chữa hoặc cải thiện hoạt động của đơn vị. Xét dưới giác độ an toàn, kiẻm toán nội bộ tham gia tư vấn trong việc xây dựng cơ cấu tổ chức, quy trình hoạt động cũng như khi kinh doanh sản phẩm mới, kinh doanh trên thị trường mới với tư cách là phòng ngừa rủi ro. Đối với mỗi ngân hàng thương mại, một trong những yêu cầu quan trọng nhất là phải đảm bảo tính an toàn và lành mạnh trong hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy, các ngân hàng luôn hướng tới việc phải xây dựng được một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu để thực hiện chức năng giám sát toàn bộ các hoạt động quản lý, điều hành và tác nghiệp trong ngân hàng với mục tiêu phát hiện và kiểm soát các rủi ro có thể phát sinh, đảm bảo tính tuân thủ với các quy định của pháp luật và các chiến lược, chính sách, quy định, quy trình và quyết định của bản thân ngân hàng, từ đó góp phần quan trọng để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của ngân hàng. 2.2. Thực trạng hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Kiểm toán nội bộ là một bộ phận cấu thành của bộ máy giám sát nội bộ của ngân hàng, bao gồm tất cả các bộ phận có tham gia thực hiện chức năng giám sát chuyên trách (trong điều kiện hiện nay của các ngân hàng thương mại Nhà nước là Ban kiểm soát HĐQT và phòng (ban) kiểm tra-kiểm toán hoạt động kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại Nhà nước được gắn liền với các hoạt động kiểm tra nội bộ theo quy đinh của Nghị định 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/02 của Chính phủ về tổ chức hoạt động của NHTM và quy chế mẫu về hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong các tài chính( ban hành kèm theo QĐ 03/1998/QĐ-NHNN 3 ngày 03/01/1998 của hệ Thống đốc NHNN) Có thể mô hình hoá hệ thống tổ chức KSNB hiện nay của ngân hàng thương mại nhà nước như sau (sơ đồ 1) Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức hệ thống giám sát nội bộ hiện nay tại các ngân hàng thương mại nhà nước: Hội đồng quản trị Ban điều hành Sở giao dịch, chi nhánh cấp 1, công ty trực thuộc, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp. CHI NHÁNH CẤP 2, CÁC PHÒNG GIAO DỊCH, QUỸ TIẾT KIỆM Ban kiểm soát HĐQT Phòng (ban) kiểm tra – kiểm toán nội bộ Hội sở chính Phòng, tổ kiểm tra – kiểm toán nội bộ chi nhánh Chú thích: - Quan hệ quản lý báo cáo trực tiếp: - Quan hệ quản lý, báo cáo gián tiếp: - Quan hệ kiểm tra, giám sát Có nhiều ý kiến cho rằng, hoạt động kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thương mại chưa hiệu quả, đã có nhiều cuộc hội thảo bàn về vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ trong tài chính tín dụng ở Việt Nam. Thực tế tổ chức và hoạt động kiểm soát tại các ngân hàng thương mại Nhà nước hiện nay đã bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý, dẫn đến gảim hiệu quả hoạt động của kiểm toán nội bộ, nhưng nó cũng gặt hái được một số thành tựu đáng kể. 2.2.1.Những kết quả đạt được. Hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ đã được HĐQT, BGĐ các ngân hàng thương mại chú ý quan tâm xây dựng, củng cố. Trước hết, HĐQT và BGĐ các NHTM đã chú trọng tới việc tạo ra một trường kiểm soát mạnh, trong đó khuyến khích các chuẩn mực cao về đạo đức, làm cho các nhân viên ở tất cả các cấp hiểu rõ về tầm quan trọng của kiểm tra nội bộ, hiểu về vai trò của mình trong cơ chế kiểm tra nội bộ. Thông thường, để đề cao các giá trị đạo đức, HĐQT và BGĐ các NHTM đề ra chính sách và các quy trình của ngân hàng ngăn ngừa và hạn chế các động cơ hoặc ham muốn thực hiện các hành vi không được phép. Ví dụ như nhấn mạnh quá mức các mục tiêu thành tích, đặc biệt là những thành tích ngắn hạn; cơ chế thù lao phụ thuộc quá nhiều vào khối lượng(dư nợ tín dụng), bỏ qua vấn đề chất lượng (nợ quá hạn, nợ khó đòi...) Thứ hai, cùng với sự chỉ đạo của NHTM, HĐQT và BGĐ các NHTM đã thường xuyên rá soát cơ chế nghiệp vụ của những lĩnh vực hoạt động quan trọng như nghiệp vụ tín dụng, thanh toán quôc tế(đặc biệt việc mở L/C thanh toán hàng nhập), kinh doanh ngoại tệ.. để phát hiện những điểm yếu của quy trình nghiệp vụ hoặc những rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát chưa được nhận biết, chưa có biện pháp kiểm soát thỏa đáng phòng ngừa, hay nhận biết những rủi ro mới trong điều kiện kinh doanh thay đổi, trên cơ sở đó mà bổ sung biện pháp nghiệp vụ, xây dựng quá trình mới hoàn thiện hơn. Thứ ba : HĐQT và BGĐ bước đầu đã nhận thức được sự cần thieets của việc thường xuyên có sự kiểm tra đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với cơ chế kiểm tra nội bộ gắn với quy trình. Do đó, HĐQT và BGĐ đã quan tâm xây dựng và tạo điều kiện hoạt động cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ, chuyên trách của ngân hàng,coi bộ phận này như là “ cánh tay vươn dài”. Bộ máy tổ chức của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bô ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0709.doc
Tài liệu liên quan