Đề tài Xây dựng và phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

TỪ VIẾT TẮT 1

LỜI MỞ ĐẦU 2

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHU CÔNG NGHIỆP 3

1. Khái niệm khu công nghiệp 4

2. Cơ cấu của khu công nghiệp 4

3. Vai trò của khu công nghiệp trong quá trình

công nghiệp hoá - hiện đại hoá 5

II. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 7

1. Những thành tựu đạt được 7

2. Những mặt hạn chế 14

III. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 19

1. Bài học kinh nghiệm 20

2. Định hướng và mục tiêu 20

3. Một số giải pháp 25

KẾT LUẬN 29

TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

PHỤ LỤC

 

doc35 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng và phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức khoảng 15% năm 2000 lên gần 20% năm 2005. Tổng giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp thời kỳ 2001 –2005 đạt khoảng 27,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm và tăng gấp 3,4 lần so với tổng giá trị nhập khẩu trong 5 năm 1996 – 2000. Các doanh nghiệp khu công nghiệp bước đầu có đóng góp tích cực vào ngân sách Nhà nước, trong thời kỳ 2001 – 2005, tổng nộp ngân sách của các doanh nghiệp khu công nghiệp tăng mạnh và đạt khoảng 2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 45%/năm và gấp 6 lần so với 5 năm 1996 – 2000. Khu công nghiệp là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp, các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất cùng với những công nghệ tiên tiến, hiện đại. Trong đó, đặc biệt phải kể đến những dự án công nghiệp kỹ thuật cao với 11 doanh nghiệp đều tập trung ở khu công nghiệp với tổng vốn đầu tư hơn 1 tỷ USD (phần lớn của Nhật Bản) như Công ty TNHH Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel,… Các dự án đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp không những góp phần nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản xuất mà còn mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư từng bước nâng cao vị thế và sự hấp dẫn đầu tư của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực. Ngoài ra, các khu công nghiệp còn có tác dụng lan toả tích cực tới trình độ phát triển của các vùng, các ngành các lĩnh vực. Khu công nghiệp mở rộng mối liên kết ngành và liên kết vùng tập trung xung quanh khu công nghiệp. Liên kết ngành trong khu công nghiệp bước đầu đã có những kết quả nhất định thực hiện trong phạm vi nội bộ khu công nghiệp bởi những ngành nghề bổ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trong khu công nghiệp đã tạo điều kiện cho các doang nghiệp khu công nghiệp hoặc bản thân các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp có điều kiện tiêu thụ sản phẩm tại các cơ sở kinh doanh xung quanh khu công nghiệp. Các khu công nghiệp ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hoá, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất. Hiệu quả này đặc biệt rõ nét ở các khu công nghiệp thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các doanh nghiệp chế biến tại Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Cần Thơ,…góp phần tiêu thụ nông sản các hộ gia đình, cơ sở nông nghiệp ở vùng nông thôn cung quanh, cải thiện một bước đời sống nông dân. Khu công nghiệp góp phần mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra tại các vùng lân cận, đặc biệt là những địa phương trình độ công nghiệp phát triển, có sức lan toả lớn, chuyển các địa phương từ cơ cấu kinh tế thuần nông sang cơ cấu kinh tế công nghiệp hiện đại. Trong thời gian tới, xu hướng lan toả từ các khu công nghiệp, ở các địa phương này sẽ còn được mở rộng hơn nữa sang các địa phương khác như Long An, Bình Phước,… Việc phát triển các khu công nghiệp có tác động rất rõ rệt đến quá trình quy hoạch, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương nơi khu công nghiệp đóng và địa phương lân cận. Với thế mạnh về công nghệ, thiết bị hiện đại, phương pháp quản lý tiến bộ, các doanh nghiệp này sản xuất ra sản phẩm có chất lượng và ổn định. Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đã và đang tác động tích cực tới yếu tố chất lượng sản phẩm của công nghiệp địa phương, góp phần giúp công nghiệp địa phương từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu tại chỗ là chính đã vươn ra thị trường cả nước và xuất khẩu. Đánh giá một cách chung nhất, có thể nói các khu công nghiệp không chỉ trực tiếp thúc đẩy công nghiệp của địa phương và của vùng có khu công nghiệp phát triển mạnh mẽ trong 15 năm qua, mà còn có tác động lan toả rộng rãi tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế từng địa phương và cả nước. Đó chính là hạt nhân của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Các khu công nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, nâng cao dân trí, thực hiện chính sách xã hội địa phương Phát triển khu công nghiệp đã mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một kênh mới rất có tiềm năng để thu hút lao động, giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Trong thời kỳ 2001 – 2005, các khu công nghiệp đã thu hút thêm được 656.000 lao động trực tiếp, gấp 4 lần so với thời ký trước (1991 – 2000), hiện nay (đến tháng 5/2006), các khu công nghiệp đã thu hút được khoảng 864.000 lao động trực tiếp, nếu tính cả số lao động gián tiếp thì số lao động thu hút còn lớn hơn nhiều (ước tính lao động gián tiếp khoảng 1,5 triệu người). Phát triển khu công nghiệp đồng nghĩa với việc hình thành và phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ, là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Hiện nay, một số khu công nghiệp đã xây dựng các cơ sở dạy nghề (Trung tâm dạy nghề Việt Nam – Singapore, Trường Kỹ nghệ Thừa Thiên Huế, Trường Cao đẳng kỹ thuật – công nghệ Biên Hoà,…). Doanh nghiệp trong khu công nghiệp có mô hình tổ chức và quản lý nói chung, tổ chức và quản lý nhân lực nói riêng. Đây là môi trường rất tốt để đào tạo chuyển giao khoa học quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp Việt Nam. Tóm lại, quá trình phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam trong những năm qua đã thể hiện sự đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng thông qua những thành tựu đã đạt được ở trên. Các khu công nghiệp đã có những đóng góp không nhỏ trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao trình độ và hiện đại hoá công nghệ, từ đó làm giảm chi phí sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội nhập. Hơn nữa, các khu công nghiệp cũng thể hiện vai trò không thể thiếu trong việc xây dựng và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp, nhằm thích ứng với nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại. Những mặt hạn chế Mặc dù trong thời gian qua, các khu công nghiệp đã khẳng định những thành công và đóng góp đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tuy nhiên đã xuất hiện những hạn chế nổi cộm trong quá trình xây dựng và phát triển khu công nghiệp. Đó là: Chất lượng quy hoạch còn thấp, thực hiện quy hoạch chưa triệt để Danh mục quy hoạch các khu công nghiệp mới nêu được tên, địa điểm và diện tích, việc ưu tiên thành lập các khu công nghiệp trong quy hoạch theo thứ tự chưa được đề cập tới. Việc xây dựng quy hoạch phát triển khu công nghiệp trong thời gian qua chủ yếu được xem xét trên cơ sở đề nghị của địa phương. Xuất hiện tình trạng phát triển khu công nghiệp quá nóng ở các địa phương có nhiều tiềm năng (như các vùng kinh tế trọng điểm đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam). Công tác chuẩn bị cho sự ra đời của các khu công nghiệp bộc lộ nhiều yếu kém, thể hiện trên các phương diện: thiếu cán bộ quản lý có năng lực, thiếu đội ngũ lao động với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp, thiếu sự chuẩn bị về nội dung mời gọi các nhà đầu tư. Khu công nghiệp được xây dựng ở các địa phương có nội dung hoạt động, lĩnh vực ngành nghề thu hút đầu tư gần giống nhau (chế biến nông sản, may mặc, cơ khí, điện tử,…), cho nên khi đi vào sản xuất, chắc chắn có những sản phẩm giống nhau, dẫn đến những sự cạnh tranh gay gắt không cần thiết, có thể dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh, làm nản lòng các nhà đầu tư. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn, phức tạp; hiệu quả sử dụng đất khu công nghiệp còn chưa cao Một số khu công nghiệp triển khai chậm, thu hút đầu tư thấp, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai chậm và gặp nhiều khó khăn, suất đầu tư quá cao, chồng chéo về quy hoạch hoặc cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp chưa phát triển như KCN Đài Tư, KCN Nam Thăng Long, KCN Sài Đồng A (Hà Nội), KCN Đình Vũ, Hải Phòng 96 (Hải Phòng), KCN Bắc Phú Cát (Hà Tây), KCN Kim Hoa (Vĩnh Phúc), KCN Cái Lai IV (Thành phố Hồ Chí Minh),…Tại một số địa phương như Long An, Tây Ninh,… trong quá trình đền bù giải phóng mặt bằng, thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp, do sự chậm trễ trong việc phổ biến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tới người dân, dẫn đến những khiếu kiện, tranh chấp về đất đai ảnh hưởng tới tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng và tiến độ chung của dự án. Về công tác tái định cư và tình hình đời sống người dân sau khi bị thu hồi đất tại khu vực quy hoạch phát triển khu công nghiệp còn nhiều khó khăn. Người dân sau thu hồi đất thường gặp phải tình trạng thiếu đất sản xuất, cuộc sống không ổn định,… Các khu tái định cư chậm được đầu tư xây dựng, thiếu đất để xây dựng hoặc đang xây dựng dở dang. Việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp thường chưa đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, dẫn tới ảnh hưởng đến tính bền vững trong phát triển; chưa chú trọng gắn việc xây dựng quy hoạch chi tiết từng khu công nghiệp với quy hoạch nhà ở, công trình công cộng phục vụ đời sống người lao động làm việc trong khu công nghiệp. Vấn đề lao động trong khu công nghiệp Trong những năm qua, các khu công nghiệp trên cả nước thu hút được lực lượng lao động hàng năm khoảng trên 7 vạn lao động, tuy nhiên lao động có trình độ đại học và trên đại học còn chiếm tỷ trọng thấp, khoảng 4 – 5% trong tổng số lao động trong các khu công nghiệp, kỹ thuật viên chiếm 4 – 5%, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo hơn 30% và còn lại hơn 60% là lao động giản đơn. Việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp khu công nghiệp đang gặp mâu thuẫn, đó là thiếu lao động kỹ thuật, có tay nghề trong khi số lao động cần tạo công ăn việc làm còn rất dư thừa. Để giải quyết tình trạng này, các chủ doanh nghiệp phải tuyển dụng lao động ngoại tỉnh, tăng chi phí cho đào tạo. Đây là yếu tố vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp vừa nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Hiện các khu công nghiệp trên cả nước thu hút được hơn 860.000 lao động trực tiếp, trong đó gần 40% là lao động ngoại tỉnh. Tại hầu hết các khu công nghiệp, lao động ngoại tỉnh thường phải sống và làm việc trong điều kiện rất khó khăn. Họ phải thuê nhà ở khu vực xung quanh khu công nghiệp để cư trú với điều kiện sống tạm hết sức tạm bợ. Rất ít doanh nghiệp tham gia xây dựng nhà ở cho công nhân. Các địa phương có nhiều khu công nghiệp cũng chỉ bảo đảm về nhà ở cho số lượng công nhân rất thấp: khoảng 6,5% – 15% trong tổng số công nhân làm việc trong các khu công nghiệp. Việc thực hiện các chính sách, pháp luật về lao động trong các doanh nghiệp khu công nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa tuân thủ các quy định của pháp luật. Một số doanh nghiệp xử lý kỷ luật, sa thải công nhân một cách tuỳ tiện, trái pháp luật. Nhiều doanh nghiệp chưa ký kết thoả ước lao động tập thể, hay hợp đồng lao động và chưa thực hiện đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Chính sách tiền lương trả cho người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chậm thay đổi và rất lạc hậu so với biến động của giá cả thị trường và tỷ giá hối đoái. Do các vấn đề tiền lương, đời sống người lao động chưa được giải quyết thoả đáng, nên trong thời gian vừa qua đã xảy ra các tranh chấp lao động. Đặc biệt trong những tháng cuối năm 2005 và đầu năm 2006, tình trạng đình công xảy ra liên tiếp với số lượng lớn công nhân. Vấn đề môi trường trong khu công nghiệp Trong thời gian vừa qua, công tác bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp mặc dù đã được chú trọng hơn nhưng đa số các khu công nghiệp trên phạm vi cả nước còn chưa được cải thiện nhiều và chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn môi trường theo quy định. Nhiều khu công nghiệp chưa xây dựng nơi tập trung và xử lý rác thải. Việc thu gom và vận chuyển rác thải chỉ thực hiện trong phạm vi từng nhà máy. Những nhà máy sản xuất bao bì, hoá chất, nhựa,… thường có những chất khó phân huỷ, gây độc hại cho môi trường nước mặt, nước ngầm và đất. Ô nhiễm về nước thải công nghiệp càng trở nên nghiêm trọng. Hiện chỉ có 33 khu công nghiệp đã có công trình xử lý nước thải tập trung, 10 khu công nghiệp đang xây dựng, còn lại các khu công nghiệp khác đều trực tiếp thải ra sông, biển đã gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường xung quanh, nhất là những khu công nghiệp tập trung các ngành công nghiệp dệt, thuộc da, hoá chất,… có lượng nước thải ra với khối lượng lớn và có tính độc hại cao. Một số vấn đề khác Hiện nay các khu công nghiệp hoạt động trên cơ sở Nghị định 36/CP ngày 24 tháng 04 năm 1997 của Chính phủ, nhưng những năm vừa qua, nhiều văn bản mới đã được ban hành và áp dụng trong thực tế, nhiều điều khoản trong Nghị định 36/CP đã bộc lộ những bất cấp, chưa được đổi mới phù hợp với các quy định hiện hành. Chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật còn mang tính bảo hộ đối với doanh nghiệp trong nước. Tuy Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (năm 2003) về cơ bản đã thể hiện sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, song phạm vi điều chỉnh còn chưa bao quát và thiếu nhiều quy định riêng đối với hoạt động đầu tư trong khu công nghiệp. Trong thẩm định dự án thành lập khu công nghiệp chưa thực sự chú trọng đến phương án đền bù giải phóng mặt bằng và tái định cư cho người dân có đất bị thu hồi; việc phối hợp giữa chính quyền địa phương với chủ đầu tư cơ sở hạ tầng khu công nghiệp và người dân còn chưa chặt chẽ, dẫn đến người dân bị thu hồi đất chưa được đền bù thoả đáng, gây khiếu kiện kéo dài; chính sách về việc làm, ổn định đời sống, xây dựng khu tái định cư cho người dân còn chậm thiếu thống nhất, gây khó khăn cho dân. Thủ tục cấp phép đầu tư còn nhiều vấn đề bất cập, chưa thực sự phát huy nguyên tắc “một cửa, một đầu mối” trong khu công nghiệp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức quản lý về khu công nghiệp còn nhiều hạn chế. Trình độ, năng lực cán bộ, công chức của Ban Quản Lý khu công nghiệp ở địa phương còn thấp so với yêu cầu. Vậy trong quá trình phát triển khu công nghiệp cũng đặt ra cho các cơ quản lý nhà nước những mục tiêu khắc phục yếu kém, hạn chế, nâng cao hơn nữa hiệu quả và vai trò của khu công nghiệp trong giai đoạn tới, góp phần tích cực hơn nữa vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP Bài học kinh nghiệm Đối với nước ta - một nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì những bài học kinh nghiệm về hoạch định chính sách, đầu tư phát triển các khu công nghiệp của các nước phát triển vẫn rất bổ ích. Thứ nhất, cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về khu công nghiệp, tiến tới ban hành Luật về khu công nghiệp làm cơ sở pháp lý ổn định và thống nhất cho việc tổ chức và hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam. Các công cụ chính sách đầu tư phát triển khu công nghiệp phải rõ ràng, minh bạch, đặc biệt là phải nhất quán, có tầm nhìn dài hạn và toàn cục được xây dựng trên cơ sở cân nhắc rất kỹ mục tiêu công nghiệp hoá cho từng thời kỳ. Thứ hai, quy hoạch phát triển các khu công nghiệp của từng địa phương phải phù hợp với quy hoạch tổng thể các khu công nghiệp trên cả nước và quy hoạch phát triển công nghiệp, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, miền, nhằm phát huy lợi thế so sánh của mỗi địa phương để từ đó có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong việc đầu tư phát triển các khu công nghiệp. Cần tăng cường cơ chế phối hợp và tạo sự liên thông giữa các khu công nghiệp của các địa phương để hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển theo một quy hoạch chung thống nhất của cả nước, khắc phục tình trạnh cạnh tranh không lành mạnh trong thu hút đầu tư giữa các địa phương, làm phá vỡ mặt bằng ưu đãi chung và môi trường đầu tư, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững lâu dài của các khu công nghiệp. Các khu công nghiệp cần được quy hoạch xây dựng đồng bộ với các khu thương mại, đô thị, dịch vụ theo mô hình tổ hợp liên hoàn trong đó phát triển khu công nghiệp là trọng tâm, còn các khu vệ tinh khác về thương mại, dịch vụ, đô thị mới là hết sức quan trọng, có vai trò tác nhân thúc đẩy và đảm bảo sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái của các khu công nghiệp tại địa phương. Thứ ba, cần lựa chọn cơ cấu đầu tư trong các khu công nghiệp theo hướng khuyến khích phát triển, thu hút các dự án đầu tư các ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, có tốc độ tăng trưởng cao và sức lan toả nhanh tới các ngành kinh tế khác để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Cơ cấu đầu tư trong các khu công nghiệp phải tính tới lộ trình mở cửa nền kinh tế và hội nhập kinh tế theo hướng tận dụng các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, phát huy lợi thế so sánh các ngành công nghiệp trong nước để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thứ tư, sớm hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về khu công nghiệp theo hướng đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền trực tiếp cho các Ban quản lý các khu công nghiệp của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước cần có chiến lược ưu tiên phát triển và tăng cường năng lực thể chế, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý các khu công nghiệp tại địa phương. Thứ năm, đổi mới vai trò, hỗ trợ, điều tiết của Nhà nước trong đầu tư phát triển khu công nghiệp, chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp vào các quan hệ thị trường, phát triển các khu công nghiệp, đảm bảo cơ cấu các nguồn lực cơ bản được phân bố theo cung cầu thị trường nhưng có sự điều tiết của Nhà nước theo các mục tiêu đã xác định. Nhà nước chỉ hỗ trợ phát triển các khu công nghiệp ở các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, môi trường đầu tư hạn chế trong giai đoạn phát triển ban đầu với những hình thức hỗ trợ đa dạng, lồng ghép với các chương trình mục tiêu khác để đảm bảo đạt được hiệu quả đầu tư cao nhất. Định hướng và mục tiêu Định hương phát triển Đằng sau những thành công của khu công nghiệp (như đã thu hút trên 4.400 dự án đầu tư gồm 2.202 dự án đầu tư nước ngoài và 2.314 dự án đầu tư trong nước, với tổng số vốn đầu tư khoảng 17 tỷ đồng USD và trên 100 nghìn tỷ đồng đầu tư trong nước, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 đạt 14 tỷ USD, xuất khẩu đạt 6 tỷ USD, nhập khẩu 8 tỷ USD, nộp ngân sách tăng và đạt 650 triệu USD, thu hút 740 ngàn lao động trực tiếp), lại đi đôi với những hạn chế, sai lầm trong công tác quy hoạch, trong thẩm định dự án và đánh giá kết quả hoạt động, những vấn đề xã hội và môi trường nổi lên. Bệnh thành tích chạy theo phát triển số lượng ở các cấp đã che tầm nhìn những vấn đề mang tính quy luật phát triển kinh tế nói chung và phát triển khu công nghiệp nói riêng trong những năm đầu thế kỷ XXI, làm cho nước ta ngày càng tụt hậu hơn so với khu vực thế giới, mà mức độ tụt hậu này đang là một sức ép không nhỏ trước Đại hội X của Đảng. Vì vậy cần nhận rõ những định hướng, những tính quy luật của con đường phát triển để chủ động hơn trong hoạt động thực tiễn. Tiếp tục đổi mới công tác tổ chức quản lý các khu công nghiệp Xây dựng các khu công nghiệp và quản lý nó vẫn còn là vấn đề mới mẻ đối với Nhà nước ta, dù đã trải qua thực tiễn 15 năm phát triển khu công nghiệp với nhiều cố gắng đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý. Nhiều vấn đề đã được phát hiện, kể cả một số vấn đề có tính chất chiến lược, đã nêu lên nhiều lần nhưng chưa giải quyết được. Nguồn gốc vấn đề vẫn là thiếu một tầm nhìn phù hợp với bối cảnh trong nước, thiếu một năng lực tổ chức, quản lý có tính chuyên nghiệp. Hiện nay, nâng cao hiệu quả của hệ thống khu công nghiệp trong cả nước là một yêu cầu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2006 trở đi. Vì vậy, vấn đề tiếp tục đổi mới công tác tổ chức và quản lý hệ thống khu công nghiệp dựa trên tầm nhìn mới và định hướng mới phát triển khu công nghiệp trở nên cấp bách. Nhận thức đúng vị trí, vai trò của hệ thống khu công nghiệp trong phát triển theo con đường rút ngắn Trong thời đại hiện nay, để tồn tại và phát triển bền vững, nước ta nhất định phải đi theo con đường phát triển rút ngắn. Phát triển có hiệu quả cả kinh tế, xã hội, môi trường các khu công nghiệp là một nội dung quan trọng của con đường rút ngắn đấy. Trong lịch sử, Lênin là người đầu tiên phát hiện ra con đường phát triển rút ngắn hợp quy luật (sau những thất bại của chính sách cộng sản thời chiến) với các chính sách kinh tế mới (NEP), chính sách kinh tế tư bản nhà nước và tô nhượng. Tuy vậy, các chính sách đó đã kết thúc sau khi Lênin mất. Cá Mác, Ăngghen và Lênin đều nhấn mạnh phải làm sao nắm bắt được các thành tựu tiên tiến về phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, giáo dục của CNTB như một trong điều kiện chủ yếu để xây dựng CNXH, nhưng Liên Xô và các nước XHCN đã không làm được nên suy thoái dần. Trong thời đại ngày nay, yêu cầu đó được thực hiện thông qua hợp tác đầu tư, mà hình thức tổ chức hiệu quả nhất và chất lượng cao là hệ thống khu công nghiệp. Vị trí, vai trò của hệ thống khu công nghiệp không phải chỉ có tăng trưởng GDP, mà là đòn bẩy để nước ta nâng cao trình độ lực lượng sản xuất và phương thức tổ chức quản lý nền kinh tế thị trường hiện đại. Nói cụ thể hơn thì vai trò của khu công nghiệp không nên chỉ phát triển đầu tư và thương mại, mà còn nâng cao trình độ khoa học công nghệ, trình độ quản lý, đào tạo nguồn nhân lực hiện đại của đất nước. Xây dựng quy hoạch hệ thống khu công nghiệp theo định hướng phát triển bền vững Sau 15 năm phát triển khu công nghiệp, nhưng nước ta vẫn chưa có một quy hoạch phát triển khu công nghiệp, vì cả nền kinh tế quốc dân cũng chưa xây dựng quy hoạch phát triển hợp lý dù đã có văn bản quy hoạch. Trong thời gian qua sự phát triển khu công nghiệp hầu như đều do các địa phương đua nhau xây dựng khu công nghiệp với những chức năng tương tự giống nhau. Vì vậy các khu công nghiệp phát triển riêng lẻ, phải đầu tư cho tất cả các hạng mục công trình (kể cả cụm dân cư). Tình hình đó đem lại thực trạng rất nhiều khu công nghiệp không hoạt động hay hoạt động kém hiệu quả, nó phản ánh trình độ và tầm nhìn của cả Trung ương và địa phương chưa phù hợp. Thực tế phát triển kinh tế thị trường hiện đại chỉ ra rằng: kinh tế thị trường phát triển theo vùng, dựa trên lợi thế so sánh, chứ không phải phát triển theo địa phương hành chính. Khu công nghiệp ra đời trong vùng kinh tế nhằm chuyển lợi thế so sánh của vùng thành lợi thế cạnh tranh trong thương mại và đầu tư của cả nước. Các trung tâm khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cần gắn liền với đòi hỏi phát triển vùng và khu công nghiệp. Đã đến lúc cấp quản lý vỹ mô nên mời các chuyên gia liên ngành đánh giá lại chất lượng làm quy hoạch, từ đó sửa đổi, xây dựng quy hoạch hợp lý dựa trên tầm nhìn mới về kinh tế thị trường và khu công nghiệp. Đánh giá lại và đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý đầu tư Công tác tổ chức và cơ chế quản lý không theo kịp yêu cầu phát triển khu công nghiệp là một nhân tố chủ yếu tạo nên thực trạng kinh tế và xã hội trong các khu công nghiệp hiện nay, gây nên những thua thiệt về phía Việt Nam và thiếu sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài tầm cỡ lớn. Nhược điểm lớn nhất trong lĩnh vực tổ chức, quản lý khu công nghiệp và nền kinh tế là thiếu tính chuyên nghiệp của bộ máy và người đứng đầu, do công tác tổ chức cán bộ bất cập kéo dài trong khi vận động nền kinh tế - xã hội chứ không thể chờ đợi họ. Vì vậy, trong quá trình đầu tư kể cả tiếp cận đầu tư nước ngoài, từ thẩm định dự án, quản lý dự án, giám sát đầu tư ở nước ta vẫn chưa ra khỏi tình trạng lạc hậu. Chúng ta chưa quen hay chưa muốn thuê các công ty quản lý dự án chuyên nghiệp nước ngoài, cũng chưa có ý định thành lập các công ty chuyên làm nghề quản lý dự án và áp dụng hình thức đấu thầu quản lý dự án. Tại sao các bộ, ngành có dự án đầu tư xây dựng lại nhất thiết làm nhiệm vụ quản lý dự án? Câu trả lời đã rõ qua các vụ tiêu cực nổi cộm gần đây. Vấn đề giám sát, thanh tra về đầu tư càng lúng túng và chậm chạp. Như Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, đến cuối năm 2002, Bộ mới tổ chức Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư, cuối năm 2003 mới thành lập Thanh tra kế hoạch đầu tư, còn công tác giám sát cộng đồng thì vẫn chỉ là văn bản. Trong tình hình hiện nay, khi nạn tham nhũng khá nặng nề, khi tổng số nợ đã tới con số 20 tỷ USD vốn viện trợ đầu tư phát triển và mỗi năm nước ta phải có 2 tỷ USD trả nợ nước ngoài (theo Bộ Tài chính) thì vấn đề cải cách về tổ chức và cơ chế quản lý đầu tư có ý nghĩa quan trọng và rất cấp bách. Mục tiêu Mục tiêu phát triển các khu công nghiệp tại Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là hình thành hệ thống các khu công nghiệp chủ đạo có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hình thành các khu công nghiệp có quy mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp; đưa tỷ lệ đóng góp của các khu công nghiệp vào tổng giá trị sản xuất cô

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0225.doc
Tài liệu liên quan