Đề tài Xây dựng Website giới thiệu du lịch Hà Nội

Dân ta có thói quen lâu đời, dễ đã nghìn nǎm, dùng thuốc Nam, thuốc Bắc. Cái siêu đất, ba hòn đầu rau, củi rào tre, (tuyệt đối không được dùng siêu kim khí và củi gỗ xoan để sắc thuốc), nước thuốc rót ra có màu nâu đậm, trông ngon như cà phê pha đặc, nhưng nồng gắt, hắc hắc và đắng chát. Thuốc đắng dã tật là thế. Nhắm mắt mà ực, rồi chiêu ngụm nước vối cho qua. Người các tỉnh xa về kinh kỳ "cắt" thuốc, đến phố Phúc Kiến - Lãn Ông - này là chính, nếu không muốn cắt ở hiệu thuốc trong chợ huyện quê nhà.

Hà Nội rải rác có nhiều hiệu thuốc bắc, nhưng tập trung nhiều nhất là phố này. Ngoài Hoa Kiều, thì dần dần, người Việt Nam cũng mua nhà tậu đất, xen kê vào đây. Có lẽ những người giàu có là họ Phó. Họ Phó là Việt hay Hoa ? cũng chẳng cần tìm hiểu. Mà chỉ biết cuối thế kỷ trước, có họ Phó giàu, vẫn không dám kê giường lên gác hai để ở, mà chỉ dùng gác hai ấy làm kho chứa thuốc, vì cho rằng nó cao quá, sợ ngủ như thế là bất kính với thần thánh được thờ bên nhà Hội Quản (số 40-42, thờ Tống Thái Hậu, thần của người Phúc Kiến). Nhớ thêm một chút, đây nguyên là đất các thôn Hậu

Đông, Hoa Môn, tổng Tả Túc huyện Thọ Xương, gần Cửa Đông, có chợ Đông Thành. Mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, đây là Khu Đông Thành nổi tiếng gan dạ, bắn rơi chiếc máy bay chiến đấu đầu tiên của thực dân Pháp ngay trong lòng Hà Nội.

 

doc41 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1058 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng Website giới thiệu du lịch Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểu của phố cổ là các phố và ngõ dài được tạo giống như hình răng lược. Tất cả các ngôi nhà hai bên đường đều theo kiểu “ nhà ống” với đặc điểm là trần nhà thấp, bề ngang hẹp nhưng lại rất dài và được sắp xếp cạnh nhau, nguồn gốc của nhà ở Việt Nam. Một mặt giống như một hình ống dài và hẹp, mặt kia đối diện với phố hoặc ngõ khác. Bố cục cũng tương tự như sau: Gian ngoài là chỗ bán hàng hoặc làm hàng. Tiếp đó là một khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng. Gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối vào đó là bếp và khu phụ. Phần lớn là nhà một tầng lợp bằng những viên ngói nhỏ nhắn với nét đặc trưng là hai bức tường hồi vượt lên khỏi mái, xây dật cấp như những bậc thang và đầu nóc là hai trụ đấu ngộ nghĩnh. Cũng có một số nhà xây thêm tầng gác nhưng thấp và không mấy khi trổ cửa sổ, nếu có thì rất nhỏ( vì các triều đại cũ cấm dân không được nhìn mặt vua, nhất là nhìn từ trên cao, khi vua ngự giá trên đường. Các phố được sắp xếp dựa trên những phường thủ công, phương thức sản xuất, tổ chức xã hội, thiết chế tín ngưỡng, văn hóa và thậm chí các phố còn được bố cục theo cách xây dựng, được liên kết bởi những vùng khác nhau trong cả nước nơi các phố xuất hiện sau các phường. Điều đó có nghĩa là một nhóm thợ thủ công tập hợp lại để tập trung sản xuất và thương mại trước khi phố và tên phố được hình thành. Vì vậy, đặc tính chung của nhiều phố cổ Hà Nội là các phố bắt đầu với từ tiếng Việt “ Hàng”, được gắn theo sau bởi một từ chỉ một nghề nào đó, ví dụ: Hàng Đào, Hàng Đường, Hàng Mã, Hàng Thiếc,.. Trải qua bao thăng trầm của thời gian, nhiều phố với những tên bắt đầu với từ Hàng đã có những tên phố bị đổi, trong khi đó một số phố khác vẫn giữ lại được sự nguyên vẹn như một giá trị đặc biệt của Thăng Long Hà Nội cổ kính. Từ phía bắc của Hồ Hoàn Kiếm, du khách có thể tản bộ dọc Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường để tới chợ Đồng Xuân. Bên cạnh chợ Đồng Xuân là phố Hàng Mã, hàng năm cứ đến thời điểm tết Trung thu thì cả phố Hàng Mã luôn tràn ngập thị trường đồ chơi nhiều màu sắc cho trẻ em. Đi bộ từ cuối Hàng Mã thẳng đến phố Hàng Chiếu( là phố chuyên bán chiếu),đầu phố khác bắt đầu là Ô Quan Chưởng (Cổng Đông Hà) - một di tích còn tương đối nguyên vẹn của 36 phố cổ. Phố Hàng Bạc, bên trong phố cổ Hà Nội, là trung tâm của các thợ vàng bạc và thợ kim hoàn tạo ra những đồ trang sức đẹp và công phu, nổi tiếng ở trong cũng như ngoài nước. Trong mắt của hầu hết du khách, phố cổ Hà Nội là di sản hiếm có, một thực thể sống còn sót lại qua nhiều thử thách của thời gian. Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã quan sát thấy phố cổ là nét đẹp quyến rũ của Hà Nội; nếu nó không tồn tại thì Hà Nội sẽ mất đi vẻ đẹp hấp dẫn mà không nơi đâu có được. Ở Việt Nam, ngoài Hội An, chỉ có Hà Nội là còn giữ được một số ngôi nhà cổ. Do khí hậu, thời tiết, chất liệu, nguyên vật liệu xây dựng và do cả chiến tranh, diện mạo của khu phố cổ như hiện thấy chỉ có từ cuối thế kỷ XIX. Nhưng theo các nguồn sử liệu khác nhau thì khu phố này đích thực là nhân lõi của kinh đô Thăng Long từ khi mới thành lập, tức là đã có tới gần ngàn năm tuổi. Nói về địa giới không gian khu phố cổ thì có thể coi đó là một hình tam giác cân có đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía đông là đê sông Hồng, cạnh phía tây là phố Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn là trục Hàng Bông - Hàng Gai - Cầu Gỗ. Trước khi người Pháp đến, các phố đều chung một dáng dấp, chi chít dọc ngang kiểu bàn cờ, phần lớn mang tên gọi của mặt hàng sản xuất hay kinh doanh tại những nơi đó: Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Bồ... Tất cả các ngôi nhà hai bên đường đều theo kiểu "nhà ống". Nhà như một cái ống, bề ngang hẹp, chiều dài sâu có khi thông ra một ngõ khác, phố khác. Bố cục cũng tương tự như sau: Gian ngoài là chỗ bán hàng hoặc làm hàng. Tiếp đó là một khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng. Trên sân có bể cạn (trong có hòn non bộ, thả cá vàng), quanh sân là các cây cảnh, giàn hoa. Gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối vào đó là khu phụ. Phần lớn là nhà một tầng lợp bằng những viên ngói nhỏ nhắn, với nét đặc trưng là hai bức tường hồi vượt lên khỏi mái, xây dật cấp như những bậc thang và đầu nóc là hai trụ đấu ngộ nghĩnh. Cũng có một số nhà xây thêm tầng gác nhưng thấp và không mấy khi trổ cửa sổ, nếu có thì rất nhỏ (vì các triều đại cũ cấm  dân không được nhìn mặt vua, nhất là nhìn từ trên cao, khi vua ngự giá trên đường). Nhà ống ở khu phố cổ Hà Nội bé nhỏ, bình dị, vừa là xưởng sản xuất thủ công, vừa là nơi sinh hoạt của gia đình. Người mua kẻ bán vào mọi thời điểm, đem lại cảnh tượng tấp nập và nhà cạnh nhà, liền mái, liền tường, sum vầy nâng đỡ nhau. Cái hấp dẫn của khu phố cổ Hà Nội chính là tổng thể do người xưa đã sắp xếp thành một cơ thể đầy sống động, khăng khít, gắn bó, kề tựa mà tồn tại, sinh sôi... Bên cạnh các nhà ống còn phải kể tới các đình chùa, đền miếu rải rác trong nhiều đường phố. Những công trình này trước hết là các nơi thờ của các làng thôn phường cũ, như đình 38 Hàng Đường là của làng Đức Môn, một làng mà phố Hàng Đường chạy qua nay là chùa Huyền Thiên. 54 Hàng Khoai là chùa của làng cùng tên, nay là đất đai phố Hàng Khoai. Các công trình đó phản ánh gốc gác của cư dân kinh thành từ nhiều nơi khác về làm ăn, như đình Hoa Lộc 90 Hàng Đào là của phường nhuộm màu ở Đan Loan (Hải Hưng) lập ra, đình Tú Đình Thị 2A ngõ An Thái là nơi thờ tổ nghề thêu dân làng thêu Quất Động (Hà Tây) dựng nên... Mặt khác, sự tồn tại của các đình miếu còn là bằng chứng về tâm linh người Hà Nội cũ. Bên cạnh sự hoà đồng với tự nhiên và cộng đồng xã hội, người Hà Nội luôn luôn tìm cách hoà đồng với một thế giới tâm linh, vì cùng với một không gian đô thị vật chất, vẫn tồn tại một không gian đô thị mang màu sắc huyền thoại, thiêng liêng, ở đó có thể giao hoà cùng với quá khứ chứa chất sức mạnh tiềm ẩn.Ngày nay, qua các biến động của lịch sử, qua sự thích ứng với đời sống xã hội, khu phố cổ có biến dạng, nơi ít nơi nhiều, song bóng dáng của thời xưa dù chỉ là của thế kỷ XIX song cũng đã là dư trăm tuổi vẫn còn lưu lại ở dăm căn nhà này, ở vài đoạn phố kia và đặc biệt ở cái không gian văn hoá vẫn đậm đà hương vị cổ. Cho nên, khu phố cổ với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn xinh xắn, những con đường ăm ắp người đi, những đền chùa mái cong mềm mại, lại còn cả những không gian, cây xanh mượt mà và ngọt ngào hương... tất cả đã làm nên một vẻ đẹp chỉ thành phố Hà Nội mới có.Từ cuối những năm 80 thế kỷ XX, khi có chính sách đổi mới, đời sống kinh tế được cải thiện, việc buôn bán phát triển, rất nhiều nhà trong khu phố cổ bị sửa chữa và xây lại với kết cấu cột sàn bê tông ba, bốn tầng làm mất dần vẻ đẹp kiến trúc cổ kính truyền thống.Khu phố cổ Hà Nội vẫn là một "kỷ niệm" mà người xưa gửi cho người ngày nay để rồi truyền lại cho đời sau. Chính quyền thành phố đang có những dự án để bảo vệ và tôn tạo quỹ đô thị quý hiếm này. II.2.1.Phố Hàng Gai Ở Việt Nam, ngoài Hội An, chỉ có Hà Nội là còn giữ được một số ngôi nhà cổ. Do khí hậu, thời tiết, chất liệu, nguyên vật liệu xây dựng và do cả chiến tranh, diện mạo của khu phố cổ như hiện thấy chỉ có từ cuối thế kỷ XIX. Nhưng theo các nguồn sử liệu khác nhau thì khu phố này đích thực là nhân lõi của kinh đô Thăng Long từ khi mới thành lập, tức là đã có tới gần ngàn năm tuổi. Nói về địa giới không gian khu phố cổ thì có thể coi đó là một hình tam giác cân có đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía đông là đê sông Hồng, cạnh phía tây là phố Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn là trục Hàng Bông - Hàng Gai - Cầu Gỗ. Trước khi người Pháp đến, các phố đều chung một dáng dấp, chi chít dọc ngang kiểu bàn cờ, phần lớn mang tên gọi của mặt hàng sản xuất hay kinh doanh tại những nơi đó: Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Bồ... Tất cả các ngôi nhà hai bên đường đều theo kiểu "nhà ống". Nhà như một cái ống, bề ngang hẹp, chiều dài sâu có khi thông ra một ngõ khác, phố khác. Bố cục cũng tương tự như sau: Gian ngoài là chỗ bán hàng hoặc làm hàng. Tiếp đó là một khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng. Trên sân có bể cạn (trong có hòn non bộ, thả cá vàng), quanh sân là các cây cảnh, giàn hoa. Gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối vào đó là khu phụ. Phần lớn là nhà một tầng lợp bằng những viên ngói nhỏ nhắn, với nét đặc trưng là hai bức tường hồi vượt lên khỏi mái, xây dật cấp như những bậc thang và đầu nóc là hai trụ đấu ngộ nghĩnh. Cũng có một số nhà xây thêm tầng gác nhưng thấp và không mấy khi trổ cửa sổ, nếu có thì rất nhỏ (vì các triều đại cũ cấm  dân không được nhìn mặt vua, nhất là nhìn từ trên cao, khi vua ngự giá trên đường). Nhà ống ở khu phố cổ Hà Nội bé nhỏ, bình dị, vừa là xưởng sản xuất thủ công, vừa là nơi sinh hoạt của gia đình. Người mua kẻ bán vào mọi thời điểm, đem lại cảnh tượng tấp nập và nhà cạnh nhà, liền mái, liền tường, sum vầy nâng đỡ nhau. Cái hấp dẫn của khu phố cổ Hà Nội chính là tổng thể do người xưa đã sắp xếp thành một cơ thể đầy sống động, khăng khít, gắn bó, kề tựa mà tồn tại, sinh sôi... Bên cạnh các nhà ống còn phải kể tới các đình chùa, đền miếu rải rác trong nhiều đường phố. Những công trình này trước hết là các nơi thờ của các làng thôn phường cũ, như đình 38 Hàng Đường là của làng Đức Môn, một làng mà phố Hàng Đường chạy qua nay là chùa Huyền Thiên. 54 Hàng Khoai là chùa của làng cùng tên, nay là đất đai phố Hàng Khoai. Các công trình đó phản ánh gốc gác của cư dân kinh thành từ nhiều nơi khác về làm ăn, như đình Hoa Lộc 90 Hàng Đào là của phường nhuộm màu ở Đan Loan (Hải Hưng) lập ra, đình Tú Đình Thị 2A ngõ An Thái là nơi thờ tổ nghề thêu dân làng thêu Quất Động (Hà Tây) dựng nên... Mặt khác, sự tồn tại của các đình miếu còn là bằng chứng về tâm linh người Hà Nội cũ. Bên cạnh sự hoà đồng với tự nhiên và cộng đồng xã hội, người Hà Nội luôn luôn tìm cách hoà đồng với một thế giới tâm linh, vì cùng với một không gian đô thị vật chất, vẫn tồn tại một không gian đô thị mang màu sắc huyền thoại, thiêng liêng, ở đó có thể giao hoà cùng với quá khứ chứa chất sức mạnh tiềm ẩn.Ngày nay, qua các biến động của lịch sử, qua sự thích ứng với đời sống xã hội, khu phố cổ có biến dạng, nơi ít nơi nhiều, song bóng dáng của thời xưa dù chỉ là của thế kỷ XIX song cũng đã là dư trăm tuổi vẫn còn lưu lại ở dăm căn nhà này, ở vài đoạn phố kia và đặc biệt ở cái không gian văn hoá vẫn đậm đà hương vị cổ. Cho nên, khu phố cổ với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn xinh xắn, những con đường ăm ắp người đi, những đền chùa mái cong mềm mại, lại còn cả những không gian, cây xanh mượt mà và ngọt ngào hương... tất cả đã làm nên một vẻ đẹp chỉ thành phố Hà Nội mới có.Từ cuối những năm 80 thế kỷ XX, khi có chính sách đổi mới, đời sống kinh tế được cải thiện, việc buôn bán phát triển, rất nhiều nhà trong khu phố cổ bị sửa chữa và xây lại với kết cấu cột sàn bê tông ba, bốn tầng làm mất dần vẻ đẹp kiến trúc cổ kính truyền thống. Khu phố cổ Hà Nội vẫn là một "kỷ niệm" mà người xưa gửi cho người ngày nay để rồi truyền lại cho đời sau. Chính quyền thành phố đang có những dự án để bảo vệ và tôn tạo quỹ đô thị quý hiếm này. II.2.2.Phố Lãn Ông Đến nay, vẫn còn tên phố Hàng Ngang. Chưa có lời giải thích nào thật thỏa đáng về cái món "NGANG" ở phố ấy, như đồng bán ở Hàng Đồng, gạo bán ở phố Hàng Gạo, giấy bán ở phố Hàng Giấy .v.v. . . Được biết khu vực này là nơi cư trú của Hoa Kiều, người hàng bang có đoàn thể riêng, trụ sở riêng, và họ giữ gìn bản sắc vǎn hóa rất riêng, có phụ nữ Hoa Kiều bó chân, ở đấy hàng mấy chục nǎm vẫn thông hề chịu nói một câu tiếng Việt nào, và vẫn hút huốc lá bào, ǎn cà la thầu, tóc cắt ngắn và búi sau gáy... Hàng Ngang, Hà ng Buồm phần lớn là người Quảng Đông. Còn cạnh đó cũng là phố Hoa Kiều nhưng phần lớn là dân Phúc Kiều, vì vậy mới có phố Phúc Kiến. Nhưng cái tên Phúc Kiến cũng đã chìm lãng vào thời gian để mang tên một danh y Việt Nam đáng kính Lãn Ông, tức Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Phố Phúc Kiến không có chú khách cởi trần hở rốn, đứng cạnh chiếc thớt chặt thịt quay đôm đốp không có hàng dãy cửa hiệu cơm tàu, cơm tám... mà là những mặt hàng khác hẳn. Nếu có những ngày nào thanh thản, ta cứ dùng cái xe "Cǎng hải" hoặc chỉ dùng đến chiếc xe đạp là cùng, chứ chớ dùng xe máy hay ô tô, ta ung dung lang thang, dạo chơi trên những phố phường mang tên xưa cũ, cả những phố đã sinh ra gần đây, gồm trên 360 phố, gấp l0 lần khi Thạch Lam viết về Hà Nội; ta sẽ cảm nhận được không biết bao nhiêu điều, có quen có lạ, có nhớ có thương, có yêu có ghét, có vui có buồn, Từ u ám một quá khứ, thao thức một ảnh hình, nao nao một món ǎn, bâng khuâng một cảnh sắc... đến náo nức sáng lóe những ngôi nhà cao chới với kính đen đen, nhôm trắng trắng... ta càng yêu hơn Hà Nội của mình. Phúc Kiến là một trong những phố như thế. Nhỏ thôi, ngắn tẹo, chỉ khoảng bốn cột đèn, chính xác là 180 mét, vậy mà khi đặt bước vào đây, ta cứ thầy ngát những hương thơm, nào quế, nào cam thảo và những gì nức lên từ những vị thuốc ta không biết tên chúng là gì, chúng nằm trong bao tải, trong gói giấy xi mǎng, trong "ô thầy thuồc đang biến thành cao đan hoàn tán..." Rất nhiều cửa hàng na ná giống nhau. Chắn ngang nhà hoặc sừng sững bên tường, là những chiếc tủ gỗ, có hàng trǎm ngǎn kéo, ngǎn nào cũng có tên thuốc bằng hai ba chữ nho lẫn vào quai kéo, lâu ngày màu véc ni đã nâu bóng. Trên mặt quầy cao ngang ngực, thế nào chẳng có con dao cầu, cái chuôi ngẩng cao, nâu xỉn, một hoặc hai cái cối bằng đồng như chiếc chuông để ngửa, thỉnh thoảng kêu lên dǎm ba tiếng choang choang nhưng bị chặn lại ngay vì cái nắp dính liền với chày để thuốc giã khỏi bắn ra ngoài. Giữa nhà là cụ Lang già, quắc thước, râu trắng như cước phất phơ , ngồi bên bộ tràng kỷ tầu, dưới gầm là chiếc thuyền tán, đúng là một con thuyền sắt, bàn chân ai đó đạp bánh xe trong lòng thuyền để tán thuốc, tiếng kêu rì rầm đầy im lặng. Cũng có thể là người phụ nữ nước da cớm nắng, đứng cân thuốc bằng cái cân tiểu ly, có cán gỗ, hoa đồng, đĩa cân đồng, quả cân khô khốc. Bàn tay nhúm từng vị thuốc mới tinh anh làm sao, thứ nào ra thứ ấy, ít khi phải thêm bớt. Tờ giấy bản rải sẵn trên mặt quầy, một thang hay mấy thang, tùy, và thoắt một cái, thang thuốc đã được gói vuông vức ngay ngắn, được buộc chồng lên nhau bằng sợi dây cói dài buộc thành bó gài bên quầy. Những thang thuốc có hình ngôi tháp hình trụ, xách toòng teng mà đi ra khỏi phố. Dân ta có thói quen lâu đời, dễ đã nghìn nǎm, dùng thuốc Nam, thuốc Bắc. Cái siêu đất, ba hòn đầu rau, củi rào tre, (tuyệt đối không được dùng siêu kim khí và củi gỗ xoan để sắc thuốc), nước thuốc rót ra có màu nâu đậm, trông ngon như cà phê pha đặc, nhưng nồng gắt, hắc hắc và đắng chát. Thuốc đắng dã tật là thế. Nhắm mắt mà ực, rồi chiêu ngụm nước vối cho qua. Người các tỉnh xa về kinh kỳ "cắt" thuốc, đến phố Phúc Kiến - Lãn Ông - này là chính, nếu không muốn cắt ở hiệu thuốc trong chợ huyện quê nhà. Hà Nội rải rác có nhiều hiệu thuốc bắc, nhưng tập trung nhiều nhất là phố này. Ngoài Hoa Kiều, thì dần dần, người Việt Nam cũng mua nhà tậu đất, xen kê vào đây. Có lẽ những người giàu có là họ Phó. Họ Phó là Việt hay Hoa ? cũng chẳng cần tìm hiểu. Mà chỉ biết cuối thế kỷ trước, có họ Phó giàu, vẫn không dám kê giường lên gác hai để ở, mà chỉ dùng gác hai ấy làm kho chứa thuốc, vì cho rằng nó cao quá, sợ ngủ như thế là bất kính với thần thánh được thờ bên nhà Hội Quản (số 40-42, thờ Tống Thái Hậu, thần của người Phúc Kiến). Nhớ thêm một chút, đây nguyên là đất các thôn Hậu Đông, Hoa Môn, tổng Tả Túc huyện Thọ Xương, gần Cửa Đông, có chợ Đông Thành. Mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, đây là Khu Đông Thành nổi tiếng gan dạ, bắn rơi chiếc máy bay chiến đấu đầu tiên của thực dân Pháp ngay trong lòng Hà Nội. Một thời gian rất dài, cửa nhà nào cũng có những người phụ nữ còn trẻ ngồi sau cái mẹt lèo tèo vài ba vị thuốc khô, mấy túi giấy xi mǎng cǎng phồng... ai cần mua từ một quả tò ho (thảo quả) cho vào nồi chè kho ngày Tết, đến một vài tạ quế chi, cam thảo... cũng có ngay trong nháy mắt Những ngôi nhà hẹp lòng, sâu hút, thế kỷ trước còn bán đồng, thứ đồng khai thác từ mỏ Tụ Long. Cuối thể kỷ trước mới hình thành dần phố buôn bán thuốc Nam thuốc Bắc, thứ có can hệ đến sức khỏe của dân tứ xứ. ấy là nói từ khoảng giữa phố đến cuối phố, từ ngã tư Hàng Cân, Chả Cá đến chỗ giáp phố Hàng Vải. Còn phía đầu phố giáp với Hàng Đường, Hàng Buồm, phần lớn các hộ lại ít buôn bán thuốc. Tạp hóa, các loại giấy từ các tông, bìa cứng đến giấy bản, giấy lề, giấy viết, giấy gói, giấy in. . . và mấy nǎm gần đây, một lần nữa chuyển nghề buôn khǎn mặt, khǎn tay hàng dệt là chính. La liệt khắp mặt tiền, treo từ thấp đến cao mọi thứ khǎn để mộc hoặc in sặc sỡ. Nhà thơ Lê Đạt đang ở giữa đoạn phố này, không hiểu có phải vì mọi loại khǎn che kín mắt người, nên thơ ông cũng có đôi phần khó hiểu chǎng? Phúc Kiến - nay là phố Lãn Ông. Người trong ngành Y, và hầu như người Việt Nam, tên "Ông già lười trên biển" đã thành quen thuộc và đầy kính trọng. Nguyên người Liêu Xá, Yên Mỹ, Hải Hưng, nhưng ông đã từ quan, về ẩn tại quê mẹ trong Hương Sơn, Hà Tĩnh. Con người ấy sinh ngày 27-12-l 724, mất ngày l 7-2- 1791 suốt một đời cứu dân độ thế, từ bỏ vinh hoa phú quí, kể cả bổng lộc, lợi danh nhà Chúa ban cho khi chữa bệnh trong Phủ Chúa, về với dân nghèo, mà ta biết, vùng Hà Tĩnh ấy là vùng nghèo nhất trong những vùng nghèo. Không những là một danh y, ông còn là một vǎn nhân, một thi sĩ, đã để lại những bài thơ khá hay trong vǎn học và cả một quyển ký sự bằng vǎn xuôi khi lên kinh chữa bệnh. Nay, ông vẫn hiện diện cùng chúng ta trên cái tên một phố tấp nập giữa lòng Hà Nội, hơn nữa lại là phố trực tiếp liên quan đến sức khỏe và sinh mệnh của hàng triệu con người, kể cả những người nghèo, không có đủ tiền để vào bệnh viện vì nhiều lôi thôi phiền phức... Phố Lãn Ông vẫn tấp nập. Chỉ có điều ngày nay người ta hay gói thuốc bằng giấy báo, không buộc bằng cói mà bằng dây đay, và trên đường phố, ta vẫn gặp những anh xe thồ, đi bán rong những cái ấm đất Thổ Hà Hương Canh, chuyên dùng để sắc thuốc. Có thứ nọ thì đương nhiên phải có thứ kia, lệ đời đǎng đối, điều hòa. Vui thật. Mọi người thường cho rằng dùng thuốc Tây là để cho kịp thời, như mưa rào chứa cháy. Còn muốn có tác dụng lâu dài, nhất là thuốc bổ hay ghé bổ, phải là thuốc Nam, thuốc Bắc, tuy chậm nhưng lại như mưa dầm thấm dần, ngấm lâu. Đang có "chủ trương Đông Tây Y kết hợp, có lẽ là đúng hướng, và thêm một lý do để phố Lãn Ông càng tấp nập nhộn nhịp. Hà Nội đang có hàng nghìn cửa hàng bán thuốc Tây, tập trung như phố Vǎn Miếu, phố Quố c Tử Giám, đầu phố Tràng Thi v.v và v.v... và thuốc Nam thuốc Bắc cũng rải rác ở nhiều phố khác nhau, nhưng Đông Tây không có chuyện cạnh tranh lần át thù hằn. Tùy hoàn cảnh, thói quen, cơ địa, mỗi người dùng thuốc theo sở thích của mình. Gẫy tay, đau ruột thừa, đương nhiên phải vào Việt Đức, bị K phải đến Viện phố Quán Sứ, bị mắt phải đến phố Trần Nhân Tông... nhưng thận yếu, hay nhức đầu có khi người ta thích dùng cái siêu để sắc thuốc mua ở phố Lãn Ông hơn. Cũng lạ, hình như người Việt Nam rất thương người, giàu lòng từ thiện, nên ai cũng thích mách thuốc chữa bệnh cho người khác. Bà bị huyết áp cao ư ? Hãy uống thứ cỏ ấy, vị ấy... ông bị suy gan ư? Nên dùng thứ này, thứ này... bác bị chóng mặt, cháu bé bị chàm ư? Hãy đến phố ấy, hỏi ông Lang ấy mà mua thuốc ấy, tôi đã dùng rồi tôi biết, nhất định khỏi v.v. và v. v... Ai cũng thích mách thuốc. Và nhiều người cả tin, nghe theo, hoặc theo câu "có bệnh thì vái tứ phương", "còn nước còn tát"... nên nghe theo, và không ít trường hợp suýt nữa thì oan gia... Cũng là phải rút kinh nghiệm nói và nghe vậy. Dao cầu thuyền tán, ô thầy thuốc đã lụi tàn chưa ? Chưa đâu. Hà Nội có một phố Đặng Vǎn Ngữ, phố Tôn Thất Tùng, vẫn còn một phố Lãn Ông. Hài hòa giữa hiện đại và cổ truyền vẫn tạo ra sức mạnh để con người tǎng thêm sức khỏe Để thấm sâu bao nhiêu điều của cuộc sống cho ta, từ ngàn xưa để lại hay của ngày hôm nay mới du nhập; ta cứ thử ung dung tản mạn một ngày thường, thả bộ mà rong chơi trên những con đường xanh mát bóng cây Hà Nội hay bụi bặm phố phường. Mà xem, ta được mơ màng say đắm, ta có bồi hồi xúc động, ta thêm bâng khuâng trầm tư... khi nhận thấy Hà Nội của ta đang thay đổi dữ dội, vừa giơ tay ra gìn giữ những hồn thiêng quí báu. Tâm hồn ta thêm phong phú biết bao nhiêu. Qua phố Lãn Ông... là niềm vui ấy. II.3.Các bảo tàng II.3.1.Bảo tàng chiến thắng B52 Bảo tàng Chiến thắng B52 là một viện bảo tàng trưng bày các loại vũ khí, khí tài, xác máy bay B52 bị bắn rơi, lưu giữ cả hình ảnh và hiện vật của quân và dân Hà Nội trong trận Điện Biên Phủ trên không năm 1972 với không quân Hoa Kỳ. Bảo tàng này được khánh thành vào ngày 22 tháng 12 năm 1997 và đặt tại 157 phố Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội. Nôi dung trưng bày Trong nhà Bảo tàng có 1.200m² diện tích trưng bày trong nhà. Nội dung trưng bày gồm các phần: Phần giới thiệu quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng vũ trang Hà Nội qua các thời kỳ. Phần trọng tâm về trận "Điện Biên Phủ trên không" qua 12 ngày đêm tháng 12/1972. Những tài liệu, hình ảnh, hiện vật, con số thống kê đã nói lên sự ác liệt của sự kiện: chỉ tính riêng trong 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972, Mỹ đã sử dụng 726 lần B52, 3.120 lần máy bay chiến thuật và trút hàng chục nghìn tấn bom đạn xuống miền Bắc. Trong đó, tại Hà Nội, Mỹ đã sử dụng 444 lần B52 (chiếm 61% tổng số lần B52 tham gia cuộc tập kích), hơn 1.000 lần máy bay chiến thuật, ném hơn 1 vạn tấn bom đạn, giết hại 2.380 người và làm bị thương 1.355 người. Bảo tàng cho thấy các hình ảnh cảnh hoang tàn ở Hà Nội sau các đợt oanh tạc khủng khiếp tại các địa danh: Khâm Thiên, Bệnh viện Bạch Mai, ga Hà Nội, v.v.... Đồng thời còn trưng bày các hình ảnh về những chia sẻ cộng đồng với những mất mát đau thương cùng những hình ảnh, hiện vật sinh động về cuộc chiến chấn động địa cầu của quân dân Hà Nội đánh trả quyết liệt các cuộc không kích của Mỹ, bắn rơi 358 máy bay (trong đó có 25 chiếc B52). Tại bảo tàng này có một phòng rất thu hút khách tham quan, đó là sa bàn tổng hợp diễn biến trận "Điện Biên Phủ trên không", diện tích 200m², có không gian ba chiều (thể hiện địa hình khu vực gồm khu dân cư, các trận địa phòng không, điểm B52 rơi...) và khi phòng này hoạt động, hệ thống ánh sáng, âm thanh, tạo khói và phim video chiếu màn ảnh lớn đã tái tạo những khoảnh khắc lịch sử của Hà Nội. Ngoài trời Bảo tàng còn có khu trưng bày ngoài trời có diện tích 4.000m², trong đó trưng bày các vũ khí, khí tài mà quân, dân thủ đô đã sử dụng và lập công cùng một số mảnh xác máy bay Mỹ, một xác máy bay B52 có thân dài 48,07 m, sải cánh 56,42m - bằng chứng hiện thực của Mỹ trong cuộc đánh phá miền Bắc Việt Nam và Hà Nội.Bảo tàng là nơi sinh hoạt văn hoá của nhiều đối tượng. Bảo tàng đã thu thập hồ sơ các di tích chiến thắng B52 tiêu biểu khác ở Hà Nội, như: di tích ghi dấu ấn của Mỹ ở Khâm Thiên, di tích điểm B52 rơi đầu tiên ở Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn; di tích Sở chỉ huy phòng không nhân dân; di tích trận địa phòng không ở phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng; các trận địa tên lửa bảo vệ trong 12 ngày đêm năm 1972... II.3.2.Bảo tàng Dân tộc học Bảo tàng dân tộc Việt Nam có chức năng nghiên cứu khoa học về các dân tộc, sưu tầm, đánh giá, bảo quản, phục chế trưng bày, giới thiệu và khai thác những giá trị lịch sử, văn hoá của các dân tộc, đồng thời cung cấp tư liệu đào tạo cán bộ nghiệp vụ và quản lý cho loại hình bảo tàng dân tộc học. Nó vừa là một cơ sở nghiên cứu khoa học vừa là một công trình văn hoá có tính khoa học cao và tính xã hội rộng lớn. Bảo tàng đang sưu tầm và bảo quản gần 25000 hiện vật văn hoá của tất cả 54 dân tộc Việt Nam trong đó bao gồm các hiện vật và các tư liệu nghe nhìn.Bằng sự lao động khoa học cần cù, sáng tạo của toàn thể cán bộ và nhân viên, nhất là những người làm công tác nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, cùng với giúp đỡ tận tình và có hiệu quả của bà Christine Hemmet, nhà dân tộc học, trưởng phòng Châu á của Bảo tàng Con người (Paris) và bà Véronique Dolffus, kiến trúc sư (Pari), Bảo tàng lần đầu tiên đã thực hiện trưng bày, giới thiệu nền văn hoá rất phong phú và đa dạng của 54 dân tộc ở Việt Nam. II.4.Ẩm thực Trong những năm gần đây, tour du lịch ẩm thực đang được du khách nước ngoài quan tâm và hưởng ứng nhiệt tình. Ở Hà Nội đang có ít nhất 3 nơi dạy người nước ngoài nấu các món VN: Khách sạn Sofitel Metropole, Nhà hàng Ánh Tuyết 25 Mã Mây và Nhà hàng Highway4, số 5 Hàng Tre. Đối với khách du lịch, việc tìm hiểu ẩm thực nơi mình tới thăm là sở thích của hầu hết mọi người. Nhưng với Hà Nội, ẩm thực không đơn thuần là nghệ thuật ăn uống mà là sự kết tinh văn hóa ngàn năm lịch sử của chốn kinh kỳ. Từ lâu người Hà Nội được coi là người lịch lãm của mảnh đất ngàn năm văn hiến do đó cách thưởng thức ẩm thực rất tinh tế. Khách du lịch từ khắp các quốc gia tới không chỉ muốn thưởng thức mà muốn học, muốn đem nghệ thuật ẩm thực Hà Nội về nước họ. Ông Stephen Simpson, nhân viên một hãng bảo hiểm nước Anh cho biết, ông đã đến khoảng 50 nước trên thế giới nhưng rất hiếm hoi mới được đi chợ theo một chương trình du lịch như thế này. Quả thật, bên cạnh việc đi thăm các danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử của một dân tộc, du khách nước ngoài còn có cơ hội khám phá di tích phi vật thể của một dân tộc được lưu giữ theo thời gian - ẩm thực. Ngày nay, khi nhắc đến Phở, Nem thì rất nhiều người nước ngoài trên thế giới biết đế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7949.doc