Đề tài Xu hướng và tác động của fdi đến các nước đang phát triển

MỤC LỤC

-----  -----

LỜI MỞ ĐẦU 3

I.Tổng quan về FDI 4

1. Khái niệm, đặc điểm 4

2. Phân loại FDI 6

3. Những nhân tố thúc đẩy FDI 8

II.Xu hướng và tác động của FDI đến các nước đang phát triển 9

II.1 Xu hướng của dòng vốn FDI 9

1. Xu hướng hiện nay 9

2. Xu hướng theo lĩnh vực và ngành công nghiệp 12

3. Xu hướng FDI theo hình thức đầu tư 13

4. Xu hương FDI theo thành phần 14

5. Xu hướng FDI theo các loại nhà tài trợ 14

II.2 Tác động của FDI đến các nước tiếp nhận 15

1. Tác động tích cực 15

2. Tác động tiêu cực 17

III.Tổng quan về FDI ở Việt Nam 20

1. Một số đặc điểm FDI ở Việt Nam 22

2. Tác động của FDI đến kinh tế Việt Nam 25

3. Bất cập FDI ở Việt Nam 26

4. Nguyên nhân 30

IV.Giải pháp 36

1. Xây dựng một môi trường chính sách, pháp luật đầu tư hấp dẫn 37

2. Phát triển khả năng hấp thụ luồng vốn FDI 37

V.Dự báo 40

KẾT LUẬN 42

TÀI LIỆU THAM KHẢO 43

 

doc46 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4624 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xu hướng và tác động của fdi đến các nước đang phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, trong khi chỉ có 25% dự án M&As. Cùng lúc đó, các nhà đầu tư từ các nền kinh tế này ngày càng trở nên quan trọng trong thị trường M&As xuyên biên giới, khi mà trước đây chủ yếu từ các nước phát triển. Trong suốt 5 tháng đầu năm 2011, cả dự án đầu tư mới và dự án M&As đăng kí đều tăng. Các thương vụ M&As tăng 58%, mặc dù ở mức tương đối thấp so với cùng kì năm 2010. Những công ty dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên có nguồn lực tài chính mạnh, chủ yếu ở các nước đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi thực hiện một số vụ mua bán lớn trong khu vực. Xu hướng FDI theo thành phần Giữa các thành phần của FDI, đầu tư vốn chủ sở hữu là quan trọng nhất, ảnh hưởng nhất tới các chiến lược đầu tư dài hạn xuyên biên giới (so với thu nhập tái đầu tư và các khoản vay nội bộ công ty). Các khoản vay trong nội bộ công ty bị từ chối, như công ty mẹ rút vốn hay rút các khoản vay từ chi nhánh của họ, đặc biệt là những nước phát triển sở tại, nhằm lấy lại sự cân bằng. Điều này đặc biệt đúng ở châu Âu, các công ty đa quốc gia phải đối mặt với nỗi sợ hãi đối với khoản vấn đề nợ công, vốn đang lan truyền ngày càng nhanh trong các nước khối EU. Xu hướng FDI theo các nhà tài trợ Đầu tư tài trợ tư nhân bắt đầu phục hồi trong năm 2010 và hướng đến các nước đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi. Xu hướng tích cực này được hỗ trợ bởi các nhà đầu tư tài trợ tư nhân từ các nước đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi, 31% FDI từ các công ty cổ phần tư nhân, tương ứng 38 tỷ USD, hướng về các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi trong năm 2010, tăng từ 26% trong năm 2009. Điều này tăng phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng của đầu tư tư nhân trong các thương vụ M&As xuyên biên giới.Tuy nhiên, số vốn đầu tư tư nhân hiện nay vẫn chỉ hơn 70% so với đỉnh điểm năm 2007. 2.2 Tác động của FDI đến các nước tiếp nhận Nguồn vốn FDI vào một nước thường gắn với hoạt động đầu tư của các công ty đa quốc gia. Nguồn vốn này thường là đầu tư tư nhân, các chủ đầu tư tự tiến hành hoạt động đầu tư và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động vì vậy thường sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Theo hướng trên có nhiều quan điểm cho rằng FDI gây ra các tác động tiêu cực cho quốc gia tiếp nhận đầu tư như ô nhiễm môi trường... Tuy nhiên, cũng không thể không thừa nhận rằng nguồn vốn này đã giúp thúc đẩy chuyển giao các nguồn lực (công nghệ, lao động, trình độ quản lý,…), tăng khả năng cạnh tranh cho hàng hóa trong nước từ đó làm tăng xuất khẩu và tác động tích cực đến cán cân thương mại của quốc gia tiếp nhận đầu tư khi mà nội lực của các quốc gia này chưa đủ mạnh. Ngoài ra, sự có mặt của nguồn vốn này đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng vốn trong nước khiến nhà nước tập trung vào đầu tư và chú ý đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước để cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI. Tác động tích cực 2.2.1. Tác động chuyển giao nguồn lực Đối với các nước đang phát triển, có thể nói FDI là kênh chuyển giao công nghệ có hiệu quả hơn cả. Chi phí cho việc nghiên cứu và phát minh ra công nghệ mới là rất lớn, không phải bất kỳ công ty hay doanh nghiệp nào cũng có thể làm được. Nhưng đối với các công ty đa quốc gia, đây là thế mạnh của họ. Các công ty này thực hiện phần lớn hoạt động R&D tạo ra và sở hữu cũng như kiểm soát công nghệ tiên tiến trên thế giới, và thông qua hoạt động đầu tư FDI chuyển giao những công công nghệ này vào các nước. Hiện nay, khoảng 80% lượng FDI toàn cầu phần lớn xuất phát từ các quốc gia chiếm lĩnh hoạt động R&D vì không phải quốc gia nào cũng có đủ năng lực để đầu tư đầy đủ vào hoạt động R&D. FDI sẽ tạo ra hiệu ứng lan truyền công nghệ cho nước tiếp nhận đầu tư cho dù các công ty đa quốc gia nắm quyền sở hữu công nghệ đó. Thông qua quá trình liên doanh hợp tác giữa công ty địa phương với nước ngoài, có thể diễn ra quá trình rò rỉ công nghệ và các công ty địa phương sẽ tiếp thu công nghệ đó để phát triển. Bên cạnh đó, các công ty trong nước có quan hệ cung cấp nguyên vật liệu, dịch vụ, gia công… cho những công ty trên sẽ có cơ hội tham gia vào quá trình phân công lao động khu vực, thúc đẩy sản xuất, tăng xuất khẩu. FDI góp phần tạo nhiều việc làm và nâng cao chất lượng cho lao động trong nước. Mục đích của các FDI là khai thác nguồn lực để giảm chi phí, do đó sẽ thuê mướn chủ yếu là lao động địa phương, từ đó tạo công ăn việc làm và cải thiện thu nhập cho một bộ phận cư dân, góp phần vào tăng trưởng kinh tế cho địa phương. Các dự án FDI hầu hết đòi hỏi nguồn lao động có kĩ năng nên trong quá trình thuê mướn đó, lao động sẽ được đào tạo kiến thức, những kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm làm việc và quản lý của các công ty FDI. Điều này giúp tạo ra đội ngũ lao động chất lượng cao không những phục vụ cho công ty FDI ở hiện tại mà còn có thể phục vụ cho các công ty địa phương trong tương lai. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu các nước đang phát triển có đủ năng lực hấp thụ để đón nhận chuyển giao công nghệ hay không. Năng lực hấp thụ của một quốc gia như: vốn con người, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống tài chính đủ mạnh để giúp cho những dự án đầu tư FDI được thực hiện và giải ngân đúng tiến trình nhằm đưa dự án sớm vào hoạt động mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Vì vậy, hầu hết các nước đang phát triển đều đưa ra những chính sách ưu đãi để hấp dẫn nhà đầu tư FDI cũng như ban hành luật đầu tư nước ngoài để giúp tạo ra môi trường đầu tư ít rủi ro nhất. Tác động của FDI đến cán cân thương mại và cán cân vãng lai FDI đối với cung cầu hàng hóa trong nước. Trong giai đoạn đầu mới phát triển, do trình độ phát triển thấp, công nghệ, máy móc thiết bị lạc hậu, thiếu vốn... nên năng lực sản xuất của khu vực kinh tế trong nước của hầu hết các nước đang phát triển rất yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Nguồn vốn FDI vào đã giúp các nước giải quyết được khó khăn trên. Khu vực có vốn FDI đáp ứng một phần nhu cầu hàng hóa trong nước, làm giảm căng thẳng cung cầu, giảm sự phụ thuộc hàng nhập khẩu do đó trong cơ cấu nhập khẩu, tỷ trọng hàng tiêu dùng giảm xuống. Thêm vào đó, chất lượng hàng hóa đáp ứng được nhu cầu trong nước, chủng loại hàng hóa phong phú, từ hàng tiêu dùng cá nhân, hàng tiêu dùng gia đình đến hàng tiêu dùng cao cấp.   FDI giúp cải thiện cán cân thanh toán. Không những đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, các công ty FDI ngày càng hướng mạnh vào xuất khẩu hàng hóa đem về nguồn ngoại tệ đáng kể và giúp cải thiện cán cân thương mại của quốc gia theo hướng tích cực. Bên cạnh đó, cơ cấu hàng nhập khẩu của các nước đang phát triển cũng thay đổi theo hướng tăng máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất hàng hóa trong tương lai. 2.2.1.3 Nguồn thu ngân sách cho quốc gia FDI cũng đóng góp vào GDP của quốc gia và nguồn thu ngân sách của nhà nước. Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn FDI trong cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế ngày càng tăng. Số lượng công ty FDI ngày càng nhiều cũng góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nước nhận đầu tư thông qua thuế và chi phí cho việc tiêu dùng các dịch vụ công cộng mà nhà nước cung cấp. Bên cạnh đó, FDI góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển và tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. FDI cũng có tác động gián tiếp trong việc thúc đẩy một số ngành phát triển như: công nghiệp hỗ trợ, dịch vụ, du lịch, vận chuyển hàng không, khách sạn… Tác động tiêu cực Mặc dù, FDI có những tác động tích cực như đã phân tích ở trên, nhưng nó cũng gây ra tác động tiêu cực đến các nước tiếp nhận đầu tư và chủ yếu là các nước đang phát triển, do các nước này chưa có hệ thống luật pháp hoàn chỉnh gây ra hiện tượng các công ty có vốn FDI dễ dàng lách luật. Vấn đề ô nhiễm môi trường là vấn đề nan giải ở hầu hết các nước đang phát triển. Một mặt, FDI giúp chuyển giao công nghệ, nhưng công nghệ đó không được kiểm chứng vì năng lực công nghệ của nước sở tại còn yếu kém. Do đó, các công nghệ lỗi thời hay không đáp ứng được tiêu chuẩn phát thải sẽ được chuyển giao vào các nước đang phát triển. Chuyển giao công nghệ có thể mang lại những lợi ích trước mắt nhưng hậu quả của nó thì thật khó lường. Thêm vào đó, việc chưa kiểm soát chặt chẽ của nước sở tại trong vấn đề xử lí chất thải của doanh nghiệp FDI cũng mang lại khá nhiều hậu quả nghiêm trọng mà vụ việc công ty Vedan Việt Nam cũng là 1 ví dụ điển hình. Nguồn thu ngân sách nhà nước không được đảm bảo. Mục tiêu của các công ty nói chung khi tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận của các công ty đa quốc gia thì vẫn đang là câu hỏi lớn đối với các nước đang phát triển. Nhiều công ty lợi dụng sự sơ hở của pháp luật để trốn thuế bằng nhiều thủ đoạn khác nhau. Vậy các công ty này đã làm bằng cách nào? Bằng cách chuyển giá nội bộ, các công ty mẹ thường được đặt ở những quốc gia có mức thuế rất thấp hoặc thậm chí không tính thuế, các công ty con đẩy chi phí sản xuất tăng cao bằng cách nhập nguyên liệu từ công ty mẹ với mức giá cao hơn so với mặt bằng giá nguyên liệu trong nước và bán sản phẩm cho công ty mẹ với giá thấp hơn giá trị thực của nó, gây ra tình trạng lỗ triền miên của các công ty FDI, dẫn đến thất thoát nguồn thu ngân sách cho chính phủ. Tháng 7/2011 vừa qua, Tổng cục Thuế Việt Nam cho biết cơ quan này vừa tiến hành xử lý 107 doanh nghiệp FDI khai lỗ giả trong 3 năm liên tiếp (2008, 2009 và 2010) và thu hồi số thuế hơn 2.230 tỷ đồng. Chỉ tính riêng 3 năm mà con số này lớn như thế thì chúng ta có thể suy ra số thuế không thu được từ doanh nghiệp FDI những năm còn lại đạt đến mức nào. Số lượng FDI đầu tư vào các nước đang phát triển ngày càng mạnh. Nó gây sức ép cho các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh gay gắt hơn không những về giá bán mà còn là thị trường phân phối. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước ở một số quốc gia là hạn chế vì vậy thị trường chủ yếu bị các công ty FDI thâu tóm, và sản xuất trong nước bắt buộc phải phụ thuộc vào các công ty FDI. Chẳng hạn như ở Trung Quốc, thị trường nước giải khát gần như bị Cocacola thâu tóm, trong khi đó có đến 80% siêu thị do người nước ngoài sở hữu. Sự chuyển giao công nghệ, máy móc, thiết bị. Thông qua dòng vốn FDI, các máy móc, thiết bị và công nghệ được dẫn vào hỗ trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên vấn đề đáng chú ý là đối với dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển, các loại công nghệ, máy móc được chuyển vào hầu như là đã lạc hậu và bị cấm sử dụng ở chính quốc. Chưa kể các loại máy móc, thiết bị này thường được định giá cao hơn nhiều xo với giá trị thực, nên dẫn đến sự thâm hụt vốn thực sự giải ngân. Mặt khác, đối với một số loại công nghệ quá tiên tiến thì lực lượng lao động ở nước tiếp nhận lại không đủ kỹ năng và trình độ, tạo nên những hạn chế nhất định như: không tạo nên cơ hội việc làm rộng rãi ngay lúc tiếp nhận. Như vậy. FDI có cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Sử dụng có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào chính sách của mỗi quốc gia. Không ai có thể phủ nhận hoàn toàn tác động tích cực của FDI nhưng vấn đề đặt ra đối với các nước đang phát triển- những nước đang cần nhiều nguồn vốn để phát triển kinh tế là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để hỗ trợ cho việc phát hiện gian lận trốn thuế của các công ty FDI hay kiểm soát dòng vốn FDI vào quốc gia được sử dụng hiệu quả hơn, từ đó thúc đẩy kinh tế tăng trưởng theo hướng tích cực hơn. 3. Tổng quan về FDI của Việt Nam: Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 có hiệu lực, Việt Nam đã đạt được kết quả khả quan trong thu hút nguồn vốn FDI. Luật này đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Tính đến thời điểm 24/8/2011, Việt Nam đã thu hút được 13,541 dự án với tổng số vốn đăng kí là khoảng 211.3 tỷ USD. Tuy nhiên, luồng vốn FDI vào Việt Nam diễn biến bất thường, không ổn định, đặc biệt từ năm 1997 trở lại đây sau khi Việt Nam đạt đỉnh điểm thu hút FDI vào năm 1996 (10.2 tỷ USD). FDI vào Việt Nam(1988-2010) đăng kí (cấp mới và tăng thêm) Nguồn: FIA Có thể thấy luồng FDI vào Việt Nam có nhưng diễn biến chính như sau: Từ năm 1988 đến năm 1996: Trong giai đoạn này, vốn FDI đổ vào Việt Nam liên tục tăng với tốc độ nhanh cả về số dự án, số vốn đăng ký mới tăng và đạt mức đỉnh điểm gần 10,2 tỷ USD vào năm 1996. Kết quả này là do kỳ vọng của các nhà đầu tư nước ngoài đối với một nền kinh tế mới mở cửa, có quy mô dân số khá lớn với trên 70 triệu người và thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng, bên cạnh đó cũng không thể không nói đến sự kiện bình thường hoá quan hệ Việt-Mĩ vào năm 1994. Đặc điểm của giai đoạn này là vốn thực tế giải ngân tăng về tuyệt đối và tương đối, nhưng tỷ lệ vốn giải ngân thấp, một phần là do đây là do giai đoạn đầu, phần khác là do tốc độ đăng kí vốn cao hơn. Từ 1997 đến 1999: Đặc trưng bởi sự giảm sút mạnh của dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam, chủ yếu do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á và do môi trường đầu tư ở Việt Nam trở nên kém hấp dẫn hơn so với các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc. Một nguyên nhân nữa có thể là do Luật Đầu tư Nước ngoài sửa đổi năm 1996 đã giảm đi một số ưu đãi đối với nhà đầu tư nước ngoài. Vốn FDI đăng ký mới giảm trung bình tới 24%/năm, trong khi vốn giải ngân giảm với tốc độ chậm hơn, trung bình khoảng 14%, góp phần thay đổi sự tương quan giữa vốn giải ngân và vốn đăng ký. Từ năm 1999 trở đi vốn giải ngân luôn vượt vốn đăng kí mới. Từ năm 2000 đến năm 2006: dòng vốn FDI vào nước ta dần hồi phục lại tuy tốc độ không cao lắm. Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn FDI vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm nhưng tốc độ tăng luôn dưới mức 5%. Sau đó FDI có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4%. Điều này bắt nguồn từ việc Chính phủ đã có một số chỉnh sửa trong luật đầu tư nước ngoài cũng như xúc tiến công tác đầu tư ở trong và ngoài nước cũng như ban hành luật doanh nghiệp thống nhất vào năm 2005. Quyền kinh doanh được mở rộng như cho các doanh nghiệp được tự do lựa chon dự án, đối tác Việt Nam, phương thức hợp tác (được đầu tư vào các ngành độc quyền như cung cấp điện, bảo hiểm, ngân hàng, truyền thông). Từ năm 2006 đến nay: FDI vào nước ta đã có xu hướng tăng mạnh mẽ đặc biệt năm 2008 đạt ngưỡng 71.7 tỉ USD cao nhất trong 20 năm thu hút FDI với nhiều dự án lớn trong lĩnh vực công nghiệp (thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao). Năm 2009 do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới và các yếu tố khác, FDI đăng ký vào Việt Nam đã suy giảm mạnh so với năm 2008 và có xu hướng phục hồi chậm cho đến nay. Trong 7 tháng đầu năm 2011, vốn đăng ký FDI (tính đến 20/7/2011) đạt 9,045 tỷ USD, trong đó vốn đăng ký mới là 7,63 tỷ USD (chiếm 84% tổng vốn đăng ký), vốn đăng ký bổ sung là 1,416 tỷ USD (chiếm 16% tổng vốn đăng ký). Vốn đăng ký 7 tháng đầu năm 2011 đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ sang lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo (từ 29% vốn đăng ký 7 tháng năm 2010 lên 47% vốn đăng ký 7 tháng 2011), lĩnh vực kinh doanh bất động sản trở nên kém hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài, chỉ chiếm 3% tổng vốn đăng ký 7 tháng 2011 trong khi cùng kỳ năm trước là 23%. Nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam trong 7 tháng 2011 là Hồng Kông, tiếp theo là Singapore, Hàn Quốc và Nhật Bản; 4 nhà đầu tư lớn nhất này chiếm 65% tổng vốn đăng ký, 34 nền kinh tế khác chỉ chiếm 35% tổng vốn đăng ký. TT Hình thức đầu tư Số dự án cấp mới Vốn đăng ký cấp mới (triệu USD) Số lượt dự án tăng vốn Vốn đăng ký tăng thêm (triệu USD) Vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm (triệu USD) 1 100% vốn nước ngoài 401 4,357.57 134 1,145.53 5,503.10 2 Hợp đồng BOT, BT, BTO 1 2,258.51 2,258.51 3 Liên doanh 100 1,006.79 8 262.35 1,269.14 4 Cổ phần 2 6.99 5 7.67 14.67 Tổng số 504 7,629.86 147 1,415.55 9,045.41 Nguồn: FIA Từ sau khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á các nước trong khu vực đã cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư để thu hút vốn FDI. Cũng thời điểm này, chính sách về FDI của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư nước ngoài cho rằng, mặc dù thay đổi nhưng các quy định luật pháp của Việt Nam vẫn thiếu minh bạch, thiếu nhất quán, hiệu lực thực thi pháp luật thấp. Những yếu tố này làm tăng chi phí đầu tư và kinh doanh và làm cho môi trường đầu tư ở Việt Nam trở nên kém hấp dẫn hơn so với trước và so với một số nước trong khu vực, nhất là so với Trung Quốc. 3.1 Một số đặc điểm của FDI tại Việt Nam: Về qui mô vốn/dự án: Nhìn chung các dự án FDI vào Việt Nam đều có qui mô vừa và nhỏ, trung bình cho cả giai đoạn 1988-2003 chỉ ở mức 8,3 triệu USD/dự án. Đáng chú ý, sau khi đạt mức 23 triệu USD/dự án vào năm 1996 thì quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....). Quy mô đầu tư . Về hình thức sở hữu: Do nhiều lý do trong đó có việc hạn chế thành lập doanh nghiệp FDI với 100% vốn đầu tư nước ngoài, các dự án FDI đăng ký ở Việt Nam cho đến giữa thập kỷ 90 chủ yếu dưới hình thức liên doanh giữa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và nhà đầu tư nước ngoài. Tính đến cuối năm 1998, số dự án liên doanh chiếm tới 59 % tổng số dự án và 69% tổng số vốn đăng ký. Từ năm 1997, hạn chế này đã được xóa bỏ và tác động mạnh tới chuyển dịch cơ cấu số dự án FDI theo hình thức sở hữu. Hiện tại, tính đến ngày 20-07-2011, hình thức liên doanh giảm xuống còn chiếm 30,34% tổng vốn đăng ký, trong khi hình thức dự án có 100% vốn nước ngoài chiếm 61,88%, còn lại là dự án BOT và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong các dự án liên doanh, số dự án liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng tăng lên đáng kể. Về cơ cấu đầu tư theo ngành: Vào những năm 1990 FDI tập trung vào các ngành khai khoáng và ngành thay thế nhập khẩu song từ những năm 2000 có xu hướng tăng mạnh ở các ngành chế biến và các ngành định hướng xuất khẩu. Từ năm 2006 nhà đầu tư nước ngoài đầu tư mạnh vào ngành dịch vụ và một số ngành công nghiệp đã có tăng trưởng cao. Trong dịch vụ, FDI tập trung vào nhóm ngành có mức độ mở cửa cao nhất và không yêu cầu thời gian kéo dài như sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước, khách sạn và nhà hàng, kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn,... Tuy nhiên, doanh nghiệp FDI chưa quan tâm đầu tư đến các ngành công nghệ cao, ví dụ như chỉ có 5% doanh nghiệp tham gia vào sản xuất hay dịch vụ CNTT (sản xuất phần mềm,phần cứng và các dịch vụ liên quan), 5,3% tham gia vào hoạt động khoa học kỹ thuật. Trong khi đó ở lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp, tổng số dự án và tổng số vốn đăng kí chỉ là 4% và 1,56%. Về địa bàn đầu tư: Cho đến nay FDI đã có mặt ở 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua cơ cấu dự án FDI theo vùng thay đổi rất chậm. Phần lớn các dự án FDI tập trung ở các đô thị lớn và các khu công nghiệp tập trung, nơi có điều kiện hạ tầng cơ sở thuận lợi, nguồn lao động dồi dào và có trình độ kỹ năng. Riêng 5 tỉnh/thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu chiếm tới 54,5% tổng vốn FDI đăng ký của cả nước, 72,21% tổng số dự án. Số tỉnh, thành phố còn lại chỉ thu hút được 45,5% tổng vốn FDI đăng ký. Từ vài năm lại đây, nhiều tỉnh đã rất tích cực cải thiện môi trường đầu tư và một số khá thành công như một số tỉnh lân cận của Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. 45.23% 0.39% 5.8% 1.36% 4.81% 1.26% 21.04% Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo vùng (chỉ tính các dự án còn hiệu lực đến hết ngày 20-07-2011) Nguồn: FIA Về đối tác đầu tư: Đến nay đã có 92 nước và vùng lãnh thổ có dự án FDI tại Việt Nam, trong đó Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Nhật Bản là những nhà đầu tư lớn nhất, chiếm 57,93% tổng số dự án và 45% tổng vốn đăng ký. Hầu như chưa có thay đổi đáng kể về cơ cấu FDI theo đối tác và các nước châu Á vẫn là nhà đầu tư lớn nhất cả về tỷ trọng số dự án và tỷ trọng vốn đăng ký trong khi các đối tác từ châu Âu chỉ giữ vị trí khiêm tốn với tỷ lệ tương ứng 16% và 24%. Đầu tư từ Hoa kỳ đã tăng đáng kể trong vài năm gần đây sau khi Việt Nam ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (2001), hiện chiếm khoảng 4,47% tổng số dự án và 6,52% tổng vốn đăng ký. 3.7% Nguồn: FIA 3.2 Tác động của FDI đến kinh tế Việt Nam: Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã tạo việc làm cho trên 1,7 triệu lao động trực tiếp và một số lượng lớn lao động gián tiếp do tác động lan tỏa của các dự án FDI. Các doanh nghiệp FDI hoạt động trong một số lĩnh vực như lắp ráp ô tô - xe máy, điện tử, may mặc, giày da, chế biến nông sản… có nhu cầu sử dụng số lượng lớn lao động, góp phần tạo nhiều việc làm cho người lao động Việt Nam. Thông qua các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và tăng thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho người lao động, các doanh nghiệp FDI đã góp phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân. Với tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn 2000-2010 bình quân khoảng 19,2%, các doanh nghiệp FDI đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 1,6%/năm. Nguồn: EIU (2010) Các doanh nghiệp FDI là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật trình độ cao (các nhà quản lý, chuyên gia và lao động lành nghề) phù hợp với kỹ thuật và công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Thông qua hoạt động của các các doanh nghiệp FDI, đã có trên 300.000 công nhân, 25.000 kỹ thuật viên và nhiều nhà quản lý đã được đào tạo tay nghề kỹ thuật, năng lực quản lý, đặc biệt là khả năng vận hành máy móc, thiết bị và công nghệ mới. Một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các các doanh nghiệp FDI đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại.       Các doanh nghiệp FDI cũng đã đầu tư vào các lĩnh vực xã hội như giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, phục vụ cá nhân và cộng đồng,... góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.        Cùng với sự phát triển các các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào ngân sách ngày càng tăng. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối các doanh nghiệp FDI đạt hơn 3,6 tỷ USD, gấp 2,4 lần giai đoạn 2006-2010 và tăng bình quân 24%/năm. Tính riêng 3 năm 2006, 2007 và 2008, các doanh nghiệp FDI đã nộp ngân sách đạt gần 5 tỷ USD, gấp hơn 3 lần thời kỳ 1996-2000 và bằng 1,4 lần thời kỳ 2001-2005. Các doanh nghiệp FDI đã có tác động nhất định đến các chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cân đối xuất nhập nhẩu, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua nguyên, vật liệu... tại Việt Nam. Nguồn thu NSNN từ các doanh nghiệp FDI, cùng với đóng góp của khu vực này vào bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đã tạo điều kiện để thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo. Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế Nguồn: Tổng cục thống kê 3.3 Bất cập FDI ở Việt Nam: Tuy đạt được một số thành tựu đáng kể trong việc thu hút FDI nhưng hiện nay vẫn còn khá nhiều bất cập khi đề cập đến luồng vốn FDI vào Việt Nam. Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ: Đa số các dự án đầu tư vào Việt Nam thường tập trung vào những nơi có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt. Điển hình như đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ là 2 nơi được các nhà đầu tư nước ngoài ưu ái hơn cả, chỉ tính riêng 2 vùng này đã chiếm tới 66,27% tổng số FDI đăng kí với 85,47% tổng số dự án trong khi Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung chỉ thu hút được 5,8% dự án , chiếm 25,9% tổng số FDI đăng kí. Chính điều này đã làm tăng thêm khoảng cách giữa các vùng miền về trình độ phát triển kinh tế-xã hội. Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành( chỉ tính các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/7/2011) TT Ngành Số dự án Tổng vốn đầu tư đăng ký (tỷ USD) Vốn điều lệ (USD) 1 CN chế biến,chế tạo 7,654 99.7 34.16 2 KD bất động sản 361 48. 11.7 3 Xây dựng 761 11.86 3.77 4 Dvụ lưu trú và ăn uống 310 11.77 3.2 5 SX,pp điện,khí,nước,đ.hòa 65 7.39 1.66 6 Thông tin và truyền thông 669 4.83 3.1 7 Nghệ thuật và giải trí 127 3.4 1.1 8 Vận tải kho bãi 307 3.2 1.0 9 Nông,lâm nghiệp;thủy sản 488 3.17 1.53 10 Khai khoáng 69 2.97 2.37 11 Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa 579 1.81 0.89 12 Tài chính,ngân hàng,bảo hiểm 75 1.32 1.17 13 Y tế và trợ giúp XH 75 1,02 0.22 14 HĐ chuyên môn, KHCN 1,042 0.79 0.4 15 Dịch vụ khác 108 0.68 0.152 16 Cấp nước;xử lý chất thải 26 0.39 0.04 17 Giáo dục và đào tạo 141 0.34 0.12 18 Hành chính và dịch vụ hỗ trợ 102 0.18 0.095 Tổng số

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXu hướng và tác động của fdi đến các nước đang phát triển.doc
Tài liệu liên quan