Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã thực hiện chương trình cải cách kinh tế toàn diện. Cùng với tiến trình cải cách này, hệ thống ngân hàng cũng được cải cách, chuyển đổi theo cơ chế thị trường, góp phần đem lại cho Việt Nam nhiều thành tựu trong những năm đầu của thập kỷ 90 như ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được cải thiện, Tuy nhiên, từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 – 1998, những yếu kém vốn có của khu vực ngân hàng đã lộ rõ. Một số ngân hàng yếu kém đứng trước nguy cơ đổ vỡ, tình hình dollar hoá trở nên trầm trọng Trong giai đoạn này, kinh tế Việt Nam cũng đã suy giảm đáng kể, đầu tư và tiêu dùng giảm sút mạnh dẫn đến hậu quả vốn ứ đọng tại các ngân hàng và mở rộng tín dụng gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Chính phủ Việt Nam đã chủ trương thực hiện một bước mới cải cách kinh tế toàn diện. Khu vực ngân hàng cũng được đặt trong chương trình cải cách toàn diện đó.
Cải cách hệ thống NHTM đảm bảo để hệ thống này hoạt động lành mạnh và hiệu quả, làm tốt chức năng kênh dẫn vốn từ khu vực tiết kiệm sang khu vực đầu tư theo cách phân bổ hiệu quả nhất. Kết quả của cải cách hệ thống ngân hàng sẽ góp phần cải thiện tỷ lệ tiết kiệm trong nước và phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả hơn, tăng cường khả năng cạnh tranh, năng lực quản lý rủi ro của hệ thống NHTM Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế tự do hoá tài chính. Cải cách cũng đảm bảo để hệ thống NHTM là kênh truyền tải chính sách tiền tệ, qua đó đảm bảo để NHNN thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả. Trong quá trình cải cách NHTM, Việt Nam đã và đang từng bước tách bạch cho vay chính sách và cho vay thương mại đảm bảo hạn chế những rủi ro đạo đức, đảm bảo sự minh bạch giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá. Tính hiệu quả, lành mạnh hơn của hệ thống ngân hàng trong nước do cải cách này mang lại cũng tăng cường lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam, giảm thiểu rủi ro do có sự chuyển vốn ồ ạt như tình trạng ở Thái Lan năm 1997.
75 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1040 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xu thế cạnh tranh mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
äng của các NHTM
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
1
NH Quốc doanh
143.640
175.560
218.950
2
NH Cổ phần
34.020
47.355
52.200
3
NH nước ngoài &ø liên doanh
11.340
12.705
18.850
Tổng cộng
189.000
231.000
290.000
Tổng nguồn vốn huy động năm 2004 ước tính tăng 22,7% so với cuối năm 2003, trong đó nguồn vốn huy động nội tệ tăng 20,3% và nguồn vốn huy động ngoại tệ tăng tới 29%. Tương tự, cũng tính đến hết năm 2004, tổng dư nợ cho vay ước tính tăng 26,9% so với năm 2003, trong đó dư nợ nội tệ tăng 23,3% và ngoại tệ tăng 39,2%. Tỷ lệ nợ quá hạn giảm trên 0,8% so với tỷ lệ tương ứng ở thời điểm cuối năm 2003, xuống còn 4,5%. Tại Hà Nội, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM và tổ chức tín dụng trên địa bàn tính đến hết năm 2004 là 1.900 tỷ đồng, chiếm 2,1% tổng dư nợ. Sức cạnh tranh, năng lực tài chính, trình độ công nghệ, quy mô vốn, của các NHTM Việt Nam được nâng lên một bước.
Bảng 5: Tình hình huy động vốn của NHTM
Năm
Số lượng (tỷ đồng)
Tỷ lệ tăng so với năm trước
1991
13.880
18%
1992
16.520
19%
1993
20.800
26%
1994
27.840
33,80%
1995
31.920
14,70%
1996
46.330
45%
1997
90.540
95%
1998
115.650
27,70%
1999
147.340
27,40%
2000
189.000
28,30%
2001
231.000
22%
2002
290.000
25,50%
Nguồn: Tổng hợp báo cáo thường niên của NHNN
Tại Hà Nội, đầu mối của các NHTM lớn trong cả nước, tính đến hết năm 2004, tổng nguồn huy động đạt 172.160 tỷ đồng, lớn nhất trong toàn quốc, tăng 17% so với cuối năm 2003; dư nợ cho vay đạt 94.580 tỷ đồng, đứng thứ 2 sau Tp.Hồ Chí Minh, tăng 27% so với cuối năm trước.
Tại Tp.Hồ Chí Minh, trung tâm tài chính – tiền tệ và kinh tế nói chung sôi động và lớn nhất nước cũng tính đến hết năm 2004, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM đạt 98.500 tỷ đồng, tăng 27% so với cuối năm 2003; trong đó riêng nguồn vốn ngoại tệ tăng tới 31,9%; dư nợ cho vay đạt 131.300 tỷ đồng, đứng đầu cả nước, tăng trên 30% so với cuối năm trước, trong đó riêng dư nợ cho vay bằng ngoại tệ tăng tới 34,5%.
2.4.3 Về cho vay và tình trạng nợ quá hạn
Hoạt động cho vay của ngân hàng đáp ứng được phần lớn nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Cải tiến cơ cấu tín dụng theo hướng tích cực, chú trọng tập trung vốn tài trợ cho những ngành nghề then chốt, trọng điểm theo định hướng phát triển kinh tế, nâng dần tỷ lệ cho vay trung dài hạn và cho vay ngoài quốc doanh, mạnh dạn hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhiều hình thức cho vay khá phong phú như tín dụng ứng trước, tài trợ xuất nhập khẩu, chiết khấu, cho thuê tài chính đồng tài trợ, bảo lãnh, Các NHTM đã khai thác mạng lưới tín dụng bán lẻ cho vay các món nhỏ để mở rộng tín dụng và phân tán rủi ro, một số hình thức tín dụng mới như cho vay tiêu dùng, tín dụng sinh viên, tín dụng du lịch, cho vay phát hành và thanh toán thẻ tín dụng, Ngân hàng Á Châu, Sài Gòn Thương Tín còn có sản phẩm dịch vụ nhà đất: cho vay mua nhà trả góp, sửa chữa nhà. Ngân hàng Kỹ thương với chương trình mua nhà, ô tô xịn, cho vay đầu tư chứng khoán,
Bảng 6: Tình hình dư nợ tín dụng của các NHTM VN
Năm
Số lượng (tỷ đồng)
Tỷ lệ tăng so với năm trước
1991
10.120
24%
1992
16.520
63%
1993
25.430
54%
1994
38.070
49,70%
1995
45.500
19,50%
1996
82.810
82%
1997
104.330
26%
1998
124.710
19,50%
1999
139.020
11,50%
2000
172.000
23,70%
2001
215.000
25%
2002
281.000
30,70%
Nguồn: Tổng hợp báo cáo thường niên của NHNN
Bảng 7: Tăng trưởng dư nợ của hệ thống NHTM
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
1
NH Quốc doanh
123.840
156.950
206.535
2
NH Cổ phần
18.920
27.950
40.745
3
NH nước ngoài &ø liên doanh
29.240
30.100
33.720
Tổng cộng
172.000
215.000
281.000
Mặc dù quy mô tín dụng tăng nhưng chất lượng tín dụng của một số NHTM còn hạn chế, tỷ lệ nợ quá hạn khá cao trong khi theo thông lệ quốc tế các NHTM phải kiểm soát nợ quá hạn không quá 5%. Đa số các NHTM chưa chú trọng kỹ thuật phân tán rủi ro bằng cách đa dạng hoá nghiệp vụ cho vay, từ 80% - 90% tập trung vào tín dụng ứng trước, còn cho thuê tài chính, đồng tài trợ, chiết khấu rất hạn chế.
Bảng 8: Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)
7.8
9.3
12.4
12
13.2
11.7
9.1
Nguồn: Tạp chí ngân hàng năm 2001, báo cáo NHNN 2001
Bảng 9: Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ cho vay của các NHTMNN
Đơn vị tính: %
Năm
2001
2002
2003
2004
Nợ quá hạn /Tổng dư nợ
13
10
7
7,5
Nguồn: Công nghệ ngân hàng, số 3 tháng 3/2005
Nợ quá hạn từ năm 2001 đến năm 2003 có xu hướng giảm từ bình quân 13% xuống còn bình quân 7%, sang năm 2004 ước nợ quá hạn có xu hướng tăng từ 7% lên 7,5%, trong đó có ngân hàng lên tới 10%.
Trên thực tế các NHTMNN cho vay các doanh nghiệp nhà nước với số dư nợ cho vay chiếm gần 80% tổng dư nợ, trong khi đó có tới trên 70% các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, thiếu khả năng thanh toán. Với tình hình đó con số 7% nợ quá hạn của năm 2003 và 7,5% ước nợ quá hạn của năm 2004 có thể phản ánh đúng thực trạng nợ quá hạn của các NHTMNN hay chỉ là “phần nổi của tảng băng”.
Bảng 10: Tỷ lệ vốn tự có/ tài sản có của NHTMNN
(đơn vị tính %)
Ngân hàng
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Vốn 11/2004
NH No&PTNT
5,63
5,54
4,7
3,09
4,75
4,3
5,43
6.100
NH ĐT - PT
2,35
2,58
2,6
1,74
3
3,5
4,76
3.800
NHCT VN
2,08
2,42
2,33
1,47
3,38
3,4
3,64
3.300
NHNT VN
2,07
2,18
1,79
1,39
3,08
3,5
3,64
3.200
B/Q 4 NHTMNN
3,07
3,12
2,8
1,92
3,57
3,8
4,2
16.400
Nguồn: NHNN. Vốn điều lệ tính đến tháng 11/2004, đơn vị tính là tỷ đồng
Bảng 11: Tỷ trọng ngoại tệ trong cơ cấu dư nợ cho vay của các NHTM
(Đơn vị tính: Tỷ đồng VN (quy đổi))
Thời điểm
Hà Nội
Tp.Hồ Chí Minh
Số tiền
%
Số tiền
%
31/12/1998
16.307
49,8
31/12/1999
16.791
44,3
31/12/2000
16.938
32,5
31/12/2001
16.626
29,6
31/12/2002
21.546
37,1
21.793
29,4
31/12/2003
29.871
40,5
31.500
32,7
30/06/2004
31.710
38,2
41.000
32,3
30/09/2004
35.306
40,1
43.593
35
31/12/2004
36.610
38,71
45.500
34,27
Nguồn: Kinh tế Việt Nam 2004 - 2005
2.4.4 Năng lực cạnh tranh của các NHTM nước ta so với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và ngân hàng liên doanh
Đánh giá về năng lực cạnh tranh quốc gia, Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp Quốc hội khoá XI tháng 11/2002, cũng chỉ ra năng lực cạnh tranh của kinh tế Việt Nam chưa có chuyển biến rõ nét và việc nâng cao năng lực cạnh tranh phải được xem là nhiệm vụ trọng tâm của năm 2003 và những năm tiếp theo. Ngành Ngân hàng là một trong những ngành giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, theo đánh giá chung, tiến trình đổi mới hoạt động Ngân hàng đã có nhiều kết quả đáng ghi nhận, song vẫn bị coi là chậm so với yêu cầu đổi mới của nền kinh tế. Điều đó được thể hiện qua năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính - ngân hàng còn qua thấp so với thế giới cũng như trong khu vực. Đây có thể nói là một thách thức lớn đối với hệ thống ngân hàng nước ta trong tiến trình hội nhập. (Phụ lục 9)
Trong tiến trình cải cách hệ thống ngân hàng nước ta, bên cạnh việc nhìn nhận năng lực cạnh tranh của toàn hệ thống tài chính - ngân hàng đối với thế giới, việc nhìn nhận, đánh giá năng lực cạnh tranh trong nội bộ ngành ngân hàng cũng rất cần thiết để đảm bảo sự thành công trong quá trình hội nhập.
CHƯƠNG 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG
NHTM VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
3.1 HỆ THỐNG CÁC GIẢI PHÁP
3.1.1 Nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo nên sức mạnh nội tại của bản thân hệ thống NHTM Việt Nam
Thứ nhất: Tăng cường sức mạnh nội lực và khả năng tự bảo vệ của hệ thống ngân hàng, trong đó chú trọng nâng cao quy mô của các NHTM trong nước dựa trên cơ sở tăng vốn chủ sở hữu và chủ động áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế hiện nay (như các bộ quy tắc về an toàn vốn Basel I, Basel II).
Mở rộng quy mô và hiệu suất hoạt động của hệ thống NHTM
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới được khai trương ngày 20/7/2000. Tại thời điểm tháng 6/2002, tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh mới chỉ có 17 cổ phiếu và 13 trái phiếu, một lượng giao dịch rất nhỏ bé. Hiện nay số cổ phiếu được phép giao dịch là 28 nhưng con số này vẫn chưa đáng kể. Vì vậy, các nguồn vốn từ khu vực ngân hàng trong nước vẫn là nguồn quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai gần. Tuy nhiên, các ngân hàng hiện nay có quy mô, hiệu suất và năng lực hoạt động còn hạn chế, khả năng đáp ứng vốn cho nhu cầu của nền kinh tế là rất thấp. Một số chỉ tiêu như tín dụng và huy động vốn so với GDP ở mức thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực .
Trong những năm tới, một trong những yêu cầu đặt ra cho Việt Nam là phải mở rộng quy mô và nâng cao hiệu suất của hệ thống NHTM trong nước để đảm bảo hệ thống này làm tốt hơn nữa vai trò là kênh dẫn vốn và phân bổ các nguồn vốn một cách hiệu quả.
Nâng cao mức vốn tự có
Duy trì mức vốn tự có hợp lý nhằm cung cấp một vùng đệm để bù đắp các rủi ro, thua lỗ và cho phép các NHTM tiếp tục tồn tại để từng bước có cơ hội nâng cao hiệu quả hoạt động trong tương lai. Mức vốn tự có càng cao sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao mức huy động và cho vay, mở rộng phạm vi hoạt động của NHTM, tạo điều kiện cho NHTM phát triển để duy trì và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa, mở rộng và chiếm lĩnh thị phần, từng bước vươn ra thị trường thế giới. Do đó, cần khuyến khích các NHTM nâng cao mức vốn tự có một cách hợp lý; quy định lại vốn tự có của NHTM trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và có tham khảo thông lệ quốc tế; đối với NHTM có quy mô vốn tự có thấp, cần tiến hành hợp nhất, sáp nhập nhằm hình thành những NHTM có quy mô vốn tự có lớn hơn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước, chuẩn bị cho lộ trình hội nhập khu vực và thế giới; cấp vốn bổ sung tăng vốn điều lệ cho các NHTM Nhà nước; thực hiện cổ phần hoá NHTMNN, kêu gọi vốn cổ đông trong và ngoài nước thông qua việc phát hành cổ phiếu (với tỷ lệ giới hạn 30%) để tăng vốn tự có; chưa nộp thuế sử dụng vốn hàng năm, khoản thuế này được giữ lại để tăng vốn tự có.
- Đối với các ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTMNN): Hiện nay, mức vốn của các NHTMNN là rất nhỏ, tuy nhiên nợ quá hạn lại khá cao và chưa được xử lý dứt điểm. Nếu xét mức thiếu vốn hiện nay của các NHTMNN, theo báo cáo đã kiểm toán, để đạt được tỷ lệ an toàn vốn theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) thì tại thời điểm năm 2000, các NHTMNN cần phải được bổ sung vốn tối thiểu là 25.500 tỷ đồng. Đến năm 2006, cần thiết phải bổ sung khoảng 30.000 tỷ đồng , tương ứng khoảng 6%GDP (Phụ lục 7)
- Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần (NTHMCP): Các ngân hàng này cũng phải được tăng vốn đạt đến mức yêu cầu (tối thiểu là 70 tỷ VND). Cùng với việc cơ cấu lại NHTMCP, Nhà nước sẽ cho phép một số NHTMCP đủ điều kiện niêm yết chứng khoán tại Trung tâm giao dịch Thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm Hà Nội.
Đồng thời phải củng cố sức mạnh của hệ thống ngân hàng trong nước (Phụ lục 8)
Thứ hai: Nâng cao chất lượng tài sản Nợ và Có cũng như khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng, xứ lý nhanh gọn số nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tài chính và nâng cao chất lượng hoạt động của các NHTM (kinh nghiệm của Trung Quốc) (phụ lục 11), sử dụng các công cụ thị trường để điều chỉnh cơ cấu tài sản và nguồn vốn phù hợp với những biến động của thị trường.
Chính phủ Việt Nam đã đưa ra mục tiêu của quá trình cải cách NHTM là đảm bảo hệ thống này hoạt động an toàn, hiệu quả và bền vững, ngăn chặn tình trạng đổ vỡ đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần khơi thông các nguồn lực tài chính từ nội bộ nền kinh tế, tiếp nhận có hiệu quả các nguồn vốn từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Chương trình củng cố sức mạnh đối với hệ thống NHTM bao gồm nhiều giai đoạn, nhưng trước mắt phải xử lý nợ tồn đọng đã từ lâu nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính của các NHTM đang là vấn đề cấp thiết cho năm 2005 và những năm tới.
Ngay cả các NHTM Nhà nước của Việt Nam cũng có mức vốn rất thấp, nợ quá hạn cao. Điều đó cho thấy tính dễ đổ vỡ của hệ thống này. Sự dễ đổ vỡ của hệ thống NHTM Nhà nước có thể là thách thức lớn khi hệ thống này chuyển đổi sang một cơ chế thị trường thực sự, đặc biệt khi tự do hoá lãi suất, thả nổi tỷ giá, trong điều kiện hội nhập quốc tế có sự cạnh tranh quyết liệt từ các ngân hàng nước ngoài.
Hiện nay, mặc dù một số NHTMCP yếu kém đã được đóng cửa (bị mua lại, sáp nhập) nhưng đây vẫn còn là khu vực dễ đổ vỡ và dễ bị tổn thương nhất. Các NHTMCP dường như được thành lập khá dễ dàng từ những năm 1993 – 1996 với những điều kiện chưa đủ (vốn và quản lý). Vào năm 1990 chỉ có 15 NHTMCP, năm 1997 có 53 NHTMCP. Một số ngân hàng cổ phần không đủ vốn và quản lý yếu đã bị đóng cửa và chỉ còn 39 ngân hàng vào thời điểm tháng 6/2002, và hiện nay còn 36 NHTMCP (phụ lục 4)
Nợ quá hạn của hệ thống NHTM Việt Nam có chiều hướng gia tăng kể từ năm 1997. Qua số liệu của IMF, WB công bố thì tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam dường như không cao so với các nước trên thế giới và cũng dường như không đáng lo ngại. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng chế độ hạch toán kế toán, phân loại tài sản theo cách định nghĩa nợ quá hạn của Việt Nam là không theo tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, có một số khoản nợ khó đòi liên quan đến đến các vụ án không được hạch toán vào khoản mục nợ khó đòi và thường được để vào “khoản mục chờ xử lý”, chế độ báo cáo cũng làm cho các con số nợ quá hạn bị bóp méo đi rất nhiều. Nếu theo tiêu chuẩn quốc tế, các con số này có thể tăng lên gấp 3 lần.
Việc cơ cấu lại nợ nhằm làm trong sạch Bảng cân đối kế toán của NHTM là cần thiết, nhưng mới chỉ giải quyết số nợ xấu đã phát sinh là chưa đủ, ngăn chặn nợ xấu phát sinh trong tương lai là việc làm quan trọng hơn. Do đó, cần tập trung ngăn chặn, hạn chế việc phát sinh nợ xấu mới theo hướng: chấm dứt việc cho vay mới đối với bên vay có nợ nần chồng chất, dây dưa, chây ỳ hoặc cho vay không có tài sản thế chấp; đánh giá tín dụng tốt hơn, nâng cao trình độ thẩm định dự án, giám sát tình trạng của bên đi vay sử dụng vốn vay; thông qua việc bổ sung, hoàn thiện quy trình thẩm định; nghiên cứu, xét duyệt cho vay một cách chặt chẽ, thận trọng hơn; quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi vật chất trong việc cấp tín dụng; thiết lập hệ thống quản lý rủi ro; giám sát tình hình tài chính đối với bên vay có số dư nợ lớn.
Thứ ba: Hoàn thiện hệ thống thông tin rủi ro, sửa đổi quy chế lập dự phòng rủi ro để thực hiện chính xác hiệu quả và khuyến khích mở rộng nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ. Hoàn thiện cơ chế và hệ thống điều hoà các nguồn vốn nội bộ, đa dạng hoá các công cụ dự phòng thanh khoản để kịp ứng phó trước những biến động của thị trường đồng thời nâng cấp trang thiết bị và cập nhật các công nghệ ngân hàng hiện đại nhằm phát triển hệ thống thanh toán ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống thanh toán
Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, hệ thống thông tin là một vấn đề cấp thiết và quan trọng đối với hệ thống các NHTM khi các giao dịch trong nền kinh tế chủ yếu được thực hiện dưới dạng tiền mặt. Việc phát triển hệ thống thanh toán của ngân hàng theo mục tiêu đảm bảo thanh toán an toàn và hiệu quả, góp phần để hệ thống ngân hàng làm tốt chức năng của nó đối với nền kinh tế.
Hệ thống thanh toán của hệ thống ngân hàng Việt Nam cho đến nay vẫn còn khá lạc hậu và chưa đủ độ tin cậy. Điều này dẫn đến tình trạng thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt trong nền kinh tế và rất ít người dân thực hiện giao dịch qua ngân hàng. Do đó, việc tập trung hoàn chỉnh hệ thống thanh toán trong thời gian đến hết năm 2005 là việc làm cấp thiết đối với Việt Nam. Các biện pháp cụ thể:
Hiện đại hóa hệ thống thanh toán của Ngân hàng Nhà nước qua việc phát triển mô hình thanh toán bù trừ, cơ chế thanh toán bù trừ và hiện đại hóa hệ thống thanh toán này.
Cải tiến các hoạt động thanh toán bằng tiền mặt, cung ứng, thu hồi và điều hòa tiền mặt phải được đảm bảo an toàn, thuận tiện và phù hợp với điều kiện của từng vùng. Hoàn chỉnh cơ chế (các quy định pháp lý) thanh toán qua ngân hàng và thanh toán bù trừ.
Hiện đại hóa thông tin quản lý (MIS) của NHNN Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phối hợp giữa các Vụ, Cục, Chi nhánh, nâng cao hiệu quả quản lý điều hành, kiểm soát thị trường điều hành tài chính của NHNN. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng - CIC và tăng cường sự phối hợp thông tin giữa các đơn vị của NHNN trên cơ sở hoàn thiện các cơ chế có liên quan.
Hiện nay đang tập trung triển khai tốt dự án do Ngân hàng thế giới tài trợ (thanh toán bù trừ điện tử). Công việc hiện đại hóa sẽ đi cùng với việc xây dựng và chuyển đổi hệ thống kế toán Việt Nam hiện nay để tiến tới áp dụng các tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IAS) và kiểm toán quốc tế vừa làm cơ sở để chuyển giao công nghệ hiện đại vừa tạo điều kiện áp dụng các nguyên tắc và chuẩn mực thanh tra quốc tế đến hết năm 2005.
Thứ tư: Cơ cấu, sắp xếp lại bộ máy, nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ quản lý và trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng; tăng cường khả năng hoạch định chiến lược và khả năng định hướng hoạt động của hội đồng quản trị cũng như hiệu lực quản lý và năng lực điều hành của ban giám đốc điều hành trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng nhiệm vụ, quyền lợi gắn liền với trách nhiệm cá nhân nhằm nâng cao hiệu quả của bộ máy tổ chức.
Cơ cấu lại hệ thống các NHTM
Với thực trạng như hiện nay của hệ thống ngân hàng Việt Nam, trước diễn biến quốc tế và yêu cầu của nền kinh tế, Việt Nam cần tập trung vào việc củng cố hệ thống ngân hàng trong nước đảm bảo an toàn và hiệu quả. Chương trình củng cố/ cơ cấu lại/ cải cách hệ thống ngân hàng phải bao gồm cả các NHTMNN, hệ thống các NHTMCP và kể cả các quỹ tín dụng nhân dân (QTDND).
- Đối với NHTMNN:
Năm 2001, Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể cơ cấu lại các NHTMNN. Công việc tiếp theo của NHNN là chỉ đạo các NHTMNN hoàn thiện đề án cụ thể (bắt đầu từ năm 2001) và thực hiện theo lộ trình của đề án tổng thể. Các nội dung quan trọng của đề án cơ cấu lại là:
Lành mạnh hoá tài chính của các NHTMNN trên cơ sở cơ cấu lại nợ, làm sạch bảng cân đối tài sản và áp dụng các biện pháp ngăn ngừa phát sinh nợ xấu mới. Đó là điều kiện để tăng vốn điều lệ của các NHTMNN bằng các nguồn từ Ngân sách, tái đầu tư và từ nguồn hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế.
Tách bạch hoạt động tín dụng chính sách khỏi các NHTMNN, trên cơ sở thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách, tạo điều kiện cho các NHTMNN thực sự hoạt động kinh doanh tiền tệ – tín dụng và dịch vụ ngân hàng theo nguyên tắc thị trường.
Thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc các NHTM nhằm giúp các NHTM giải quyết kịp thời các khoản nợ tồn đọng, tránh tác động xấu đến tình hình tài chính của các ngân hàng.
Xây dựng thí điểm và đưa vào áp dụng mô hình tổ chức NHTM hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế. Theo đó, cơ cấu tổ chức chủ yếu của các NHTMNN là quản lý theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ của một ngân hàng đa năng, thay thế cho việc quản lý theo chức năng và nghiệp vụ hiện nay, đồng thời tổ chức và cơ cấu lại các định chế nội bộ như các cơ quan quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ – tài sản có, thanh tra và kiểm soát nội bộ; trên cơ sở đó tạo tiền đề hình thành một số tập đoàn tài chính mạnh, có khả năng hoạt động như một ngân hàng quốc tế (xuyên quốc gia) vào sau năm 2005.
Cơ cấu lại bộ máy NHTMNN nhằm làm rõ và tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan quản lý và cơ quan điều hành theo hướng nâng cao hiệu lực của Hội đồng quản trị và đặc biệt là quản lý chiến lược và quản lý rủi ro, nâng cao năng lực điều hành của Ban giám đốc trên cơ sở cơ cấu lại các ban, phòng nghiệp vụ ở Hội sở chính và các chi nhánh theo mô hình lấy nhóm khách hàng và loại dịch vụ làm nền tảng.
Tăng cường năng lực quản lý nguồn vốn và sử dụng vốn (tín dụng) nhất là quản lý rủi ro (rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái, ) của các NHTM.
- Đối với NHTMCP:
Đến cuối năm 2005, hệ thống NHTMCP sẽ được sắp xếp lại đảm bảo vững mạnh, an toàn và hiệu quả. Muốn vậy, một số NHTMCP yếu kém có thể được giải thể hoặc sáp nhập với các ngân hàng khác. NHNN sẽ thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị điều hành, lành mạnh hoá tài chính của các NHTMCP trên cơ sở cơ cấu lại nợ quá hạn, tiến hành các biện pháp giám sát đặc biệt đối với các ngân hàng có tình trạng nợ xấu nghiêm trọng.
. Tăng vốn điều lệ đối với các NHTMCP, cơ cấu lại sở hữu nhằm tăng quy mô hoạt động và chất lượng tín dụng của các ngân hàng.
Tái cơ cấu tổ chức và các chuẩn mực quản đối với các NHTMCP, đặc biệt là các cơ quan quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ – tài sản có, giám sát và kiểm toán nội bộ, quản lý vốn và đầu tư.
Tiến hành giải thể hoặc sáp nhập các ngân hàng yếu kém, mất khả năng thanh toán, chất lượng tín dụng thấp, khả năng sinh lời thấp và trình độ quản lý không đảm bảo yêu cầu an toàn và phát triển.
Cuối cùng, tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTMCP hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tham gia có hiệu quả vào thị trường tiền tệ thứ cấp, nghiệp vụ tái cấp vốn và hệ thống thanh toán của NHNN.
Tích cực bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực
Cần bổ sung, thay thế số cán bộ quản lý yếu kém tại các NHTM hoạt động thiếu an toàn, kém hiệu quả thời gian qua. Đây là một trong những giải pháp cấp thiết nhằm khôi phục lại lòng tin đối với khách hàng. Đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại cán bộ quản lý điều hành để từng bước có được đội ngũ các nhà quản lý điều hành giỏi, đáp ứng yêu cầu quản lý điều hành NHTM trong cơ chế thị trường, đặc biệt chuẩn bị cho hội nhập quốc tế