DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 2
Lời mở đầu 3
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SẢN PHẨM BẢO HIỂM VÀ KÊNH PHÂN PHỐI SẢN PHẨM BHNT 5
1. Sản phẩm bảo hiểm 5
1.1. Khái niệm 5
1.2. Đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm 6
1.2.1. Đặc điểm chung của sản phẩm dịch vụ 6
1.2.2. Đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm 9
1.3. Phân loại sản phẩm bảo hiểm nhân thọ 11
2. Kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm nhân thọ 14
2.1 Hệ thống phân phối. 14
2.2. Hệ thống phân phối thông qua trung gian 17
2.2.1. Hệ thống phân phối qua đại lý. 17
2.2.2. Hệ thống phân phối không qua đại lý. 23
2.3. Hệ thống phân phối trực tiếp. 27
PHẦN II: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG KÊNH PHÂN PHỐI SẢN PHẨM BHNT Ở VIỆT NAM 29
1. Vài nét về thị trường BHNT Việt Nam 29
1.1. Những thành tựu đạt được. 29
1.2. Những khó khăn và hạn chế gặp phải 34
2. Thực trạng hệ thống phân phối sản phẩm bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam 37
2.1. Kênh phân phối truyền thống 37
2.2. Phân phối không qua đại lý. 39
PHẦN III: ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN KÊNH PHÂN PHỐI SẢN PHẨM BHNT Ở VIỆT NAM. 41
1. Kinh nghiệm phân phối sản phẩm Bảo Hiểm nhân thọ tại một số nước 41
2. Một số đề xuất phát triển kênh phân phối sản phẩm Bảo Hiểm nhân thọ ở Việt Nam. 46
Kết Luận 49
Danh mục tài liệu tham khảo. 50
50 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xu thế trong phân phối sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên cơ sở lương cơ bản và hoa hồng phụ trội (quản lý) theo tổng doanh số của đại lý trong phòng khai thác.
Hệ thống tổng đại lý.
Không giống văn phòng chi nhánh do công ty bảo hiểm thành lập và duy trì hoạt động, văn phòng đại lý do tổng đại lý thành lập và duy trì hoạt động. Tổng đại lý là một nhà kinh doanh độc lập, lãnh đạo văn phòng đại lý thông qua hợp đồng với công ty bảo hiểm. Chức năng chính của tổng đại lý là xây dựng và quản lý một văn phòng với các đại lý chuyên nghiệp làm việc toàn thời gian, tâp trung vào phân phối sản phẩm của mtooj công ty trong một địa bàn nhất định. Công ty bảo hiểm chi trả thù lao cho tổng đại lý bằng hoa hồng dựa trên doanh số các đại lý trong phòng. Tổng đại lý trả lương cho nhân viên giúp việc và chịu hầu hết hoặt tất cả chi phí hoạt động của văn phòng đại lý.
Công ty bảo hiểm trao cho tổng đại lý những quyền hạn nhất định đại diện cho công ty và phát triển kinh doanh. Mức độ quản lý của công ty bảo hiểm đối với tổng đại lý được giới hạn bởi các điều khoản trong hợp đồng tổng đại lý. Nói chung, công ty bảo hiểm không thể thuyên chuyển hoặc xác định lại địa bàn của tổng đại lý, trừ khi hợp đồng tổng đại lý cho phép.
b. Hệ thống đại lý đa nghiệp vụ (MLA – Multiple line agency)
Hệ thống đại lý đa nghiệp vụ là hệ thống phân phối qua trung gian sử dụng đại lý chuyên nghiêp hưởng hoa hồng, toàn thời gian và đại lý – môi giới để phân phối các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ cho một nhóm các công ty bảo hiểm được quản lý chung hoặc có liên quan với nhau về tài chính. Đại lý chuyên nghiệp trong hệ thống MLA thường thành lập và duy trì văn phòng riêng của họ và thuê nhân viên phục vụ cần thiết. Hầu hết dịch vụ khách hàng và bồi thường của MLA được trụ sở chính hoặc văn phòng khu vực của công ty nắm giữ.
Mục đích của hệ thống MLA là để đại lý thực hiện bán hàng chéo tức là quá trình cung cấp nhiều loại bảo hiểm và dịch vụ tài chính tới khách hàng ( ở đây cần chú ý rằng bán hàng chéo không phải là đặc điểm riêng của hệ thống MLA). Giải pháp bán hàng này phản ánh sự dịch chuyển của ngành bảo hiểm từ định hướng sản phẩm sang định hướng thị trường.
Những lợi thế của việc sử dụng hệ thống đại lý đa nghiệp vụ
+ Phục vụ một cách có hiệu quả trên những thị trường nhất định. Đáp ứng về nhu cầu sản phẩm bảo hiểm của khách hàng một cách hiệu quả.
+ Cơ hội giảm chi phí bán hàng. Đại lý đã thường xuyên phụ vụ một khách hàng thì họ sẽ chủ động nhận biết được những nhu cầu mới về các sản phẩm bảo hiểm của khách hàng.
+ Quan hệ lâu dài. Đại lý càng cung cấp được nhiều sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng thì khách hàng càng được thỏa mãn nhu cầu hơn và từ đó tạo ra được mối quan hệ lâu dài và bền vững giữa đại lý và khách hàng.
+ Tiết kiệm chi phí đối với công ty bảo hiểm. Một số các chi phí duy trì hệ thống phân phối, lưu trữ dữ liệu, và các chi phí quản lý khác có thể giảm bằng cách chia sẻ các chi phí này giữa công ty và đại lý trên nhiều loại sản phẩm.
c. Hệ thống phục vụ tại nhà (Home service agency)
Hệ thống phân phối phục vụ tại nhà dựa vào việc sử dụng đại lý bán hàng hưởng hoa hồng để bán những sản phẩm chuyên biệt và cung cấp dịch vụ khách hàng trong một vùng địa lý hoặc địa bàn đặc biệt. Hệ thống này nhằm chủ yếu vào những hộ gia đình có thu nhập thấp. Đại lý làm việc trong hệ thống phân phối phục vụ tại nhà là đại lý độc quyền và được gọi là đại lý phục vụ tài nhà. Dịch vụ khách hàng mà đại lý phục vụ tại nhà thực hiện là thu phí bảo hiểm đầu tiên và phí bảo hiểm định kỳ.
Đa số công ty bảo hiếm sử dụng hệ thống phục vụ tại nhà phân chia vùng thị trường theo địa bàn quận\huyện. Trưởng phòng quận\huyện là nhân viên của công ty, đóng vai trò giống như vai trò của trưởng chi nhánh trong hệ thống phân phối thông thường. Quy mô của văn phòng quận\huyện phụ thuộc vào đặc điểm địa lý của địa bàn quận\huyện. Một thành phố lớn có thể chia ra nhiều quận\huyện, nhưng ở vùng nông thôn, một quận\huyện có thể bao gồm nhiều thị trấn. Địa bàn quận\huyện có thể chia ra các địa bàn nhỏ hơn và mỗi đại lý phụ trách một địa bàn nhỏ đó.
d. Hệ thống bán hàng hưởng lương (Salary Sales Agency)
Hệ thống phân phối bán hàng hưởng lương dựa vào các nhân viên bán hàng hưởng lương để bán bảo hiểm và phục vụ khách hàng. Giống như đại lý chuyên nghiệp, nhân viên bán hàng hưởng lương được coi là đại diện hợp pháp của công ty. Không giống như đại lý chuyên nghiệp, nhân viên bán hàng hưởng lương là nhân viên được công ty bảo hiểm trả lương và cũng có thể nhận được tiền lương và hoa hồng dựa trên kết quả làm việc.
Mặc dù hệ thống phân phối bán hàng hưởng lương có thể được sử dụng để phân phối tất cả sản phẩm nhưng công ty bảo hiểm chủ yếu sử dụng hệ thống phân phối này để bán các sản phẩm bảo hiểm nhóm, người bán được gọi là đai diện nhóm (cán bộ khai thác bảo hiểm nhóm). Đại diện nhóm là nhân viên hưởng lương của công ty bảo hiểm và được đào tạo kỹ năng chuyên để marketing và làm dịch vụ bảo hiểm nhóm. Đại diện nhóm có nhiệm vụ:
+ Xúc tiến dịch vụ do các đại lý, môi giới và tư vấn mang lại.
+ Tìm khách hàng tiềm năng(KHTN) bảo hiểm nhóm.
+ Tư vấn các chương trình bảo hiểm
+ Thu xếp các hợp đồng bảo hiểm nhóm.
+ Đàm phán tái tự hợp đồng.
Đại diện nhóm thường làm việc trong các văn phòng khai thác nhóm. Trong một số trường hợp, đại diện nhóm là mối liên hệ duy nhất giữa khách hàng tiềm năng (doanh nghiệp và tổ chức) và công ty bảo hiểm.
e. Hệ thống phân phối tại các điểm (Location Selling Agency)
Hệ thống phân phối tại các điểm được thiết kế để thực hiện giao dịch bán hàng ban đầu tại một cơ sở của công ty bảo hiểm, như văn phòng hay ki ốt thông tin, đặt tại địa điểm thường diễn ra hoặt động mua bán. Hệ thống phân phối tại điểm cung cấp các thông tin sản phẩm và mẫu yêu cầu bảo hiểm thông qua giao dịch tại những nơi như của hàng, siêu thị hay nhà tang lễ. Công ty bảo hiểm có thể liên kết với các của hàng và văn phòng hoặc ký thỏa thuận phân phối với các tổ chức. Làm việc trong các văn phòng bảo hiểm này là đại lý bán hàng hưởng hoa hồng hay nhân viên bán hàng hưởng lương
f. Hệ thống marketing tại công sở.
Đây là hệ thống phân phối các sản phẩm cá nhân hoặc sản phẩm nhóm cho khách hàng tại cơ quan của họ với hình thức thu phí đối trừ từ tiền lương. Sự dụng hệ thống bán hàng tại công sở, công ty bảo hiểm phải tiếp xúc với người chủ doanh nghiệp để thỏa thuận về việc sẽ cung cấp các sản phẩm bảo hiềm cho những người lao động trong doanh nghiệp tại chỗ làm việc. Nếu được chủ doanh nghiệp đồng ý, đại lý hoặc môi giới của công ty bảo hiểm sẽ tiến hành giới thiệu các sản phẩm cho người lao động ngay tại công sở. Chủ doanh nghiệp giao ước sẽ trừ phí bảo hiểm từ lương của những người lao động đồng ý nộp phí bảo hiểm và nộp cho công ty bảo hiểm.
Những ưu điểm của hình thức bán hàng tại công sở đối với công ty bảo hiểm:
+ Phương pháp tiếp cận và tìm hiểu nhu cầu có hiệu quả với đối tượng khách hàng thuộc thị trường trung lưu, những người có thu nhập không cao.
+ Tiết kiệm chi phí so với việc giới thiệu và bán sản phẩm đến từng cá nhân.
+ Một cách quảng cáo thương hiệu
+ Chuẩn bị những điều kiện thuận lợi để bán các sản phẩm bảo hiểm nhóm mà người tham gia bảo hiểm là chủ doanh nghiệp
+ Thu phí thông qua việc đối trừ từ lương sẽ đảm bảo tỷ lệ duy trì hợp đồng cao hơn so với việc duy trì hợp đồng của đối tượng khách hàng tương tự bằng cách thu phí trực tiếp
Tuy nhiên, hình thức bán hàng tại công sở cũng có những nhược điểm sau:
+ Phải thuyết phục cả hai đối tượng là người chủ doanh nghiệp và nhân viên
+ Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm thấp.
+ Duy trì hợp đồng hoặc hủy hợp đồng theo phong trào.
Các sản phẩm phù hợp với hình thức bán hàng tại công sở là bảo hiểm chi phí răng hàm mặt, chi phí mắt, bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, bảo hiểm thương tật ngắn hạn hoặc dài hạn, bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm chi phí y tế dài hạn, bảo hiểm sinh mạng người hôn phối.
2.2.2. Hệ thống phân phối không qua đại lý.
Trong hệ thống phân phối qua đại lý, công ty bảo hiểm tuyển dụng và đào tạo đội ngũ đại lý bán hàng, cung cấp tài chính và cơ sở vật chất cho đội ngũ đại lý này. Một vài công ty sử dụng hệ thống phân phối không qua xây dựng đại lý, còn gọi là hệ thống phân phối qua bên thứ ba, trong đó công ty bảo hiểm không đào tạo, tài trợ hay cung cấp văn phòng cho người bán. Người bán làm việc trong hệ thống phân phối không qua xây dựng đại lý nói chung được coi là đại lý độc lập hay nhà cung cấp độc lập, vì họ có hợp đồng đại lý với nhiều công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm không được coi là ông chủ của hệ thống không qua đại lý và công ty bảo hiểm không thể quản lý sâu hoạt động của hệ thống này như đối với hệ thống phân phối qua xây dựng đại lý.
a. Hệ thống phân phối qua môi giới.
Hệ thống phân phối qua môi giới là hệ thống phân phối không qua đại lý mà dựa vào việc sử dụng đại lý – môi giới, môi giới bảo hiểm nhân thọ được cấp phép, môi giới và đại lý bảo hiểm phi nhân thọ độc lập để phân phối sản phẩm của một công ty bảo hiểm.
Đại lý – môi giới: Như đã đề cập, đại lý – môi giới là một đại lý chuyên nghiệp có hợp đồng đại lý với nhiều công ty bảo hiểm trong đó có công ty bảo hiểm chính.
Môi giới được cấp phép: hay còn gọi là môi giới thuần túy, là người môi giới được cấp phép để bán bảo hiểm nhưng không theo hợp đồng đại lý với bất kỳ công ty bảo hiểm. Người môi giới được cấp phép kỳ hợp đồng với công ty bảo hiểm – nhưng không phải là hợp đồng đại lý trước khi bán bảo hiểm. Vì công ty bảo hiểm không có hợp đồng đại lý hay mối quan hệ chủ thợ với người môi giới được cấp phép, công ty bảo hiểm không thể quản lý hoạt động của những người môi giới này.
Giống như đại lý thông thường, đại lý – môi giới và môi giới được cấp phép trả thù lao trên cơ sở chính là hoa hồng.
Việc sử dụng hệ thống phân phối qua môi giới có sự khác nhau lớn giữa các công ty. Một số công ty thích lựa chọn kinh doanh qua môi giới, một số công ty khác chấp nhận môi giới nhưng không khuyến khích, nhưng có những công ty chỉ sử dụng môi giới. Công ty bảo hiểm chỉ sử dụng môi giới và không sử dụng lực lượng đại lý chuyên nghiệp thường được gọi là công ty sử dụng hệ thống môi giới.
Cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm sử dụng hệ thống phân phối qua môi giới diễn ra căng thẳng vì một môi giới có thể bán hợp đồng có nhiều công ty khác nhau. Để hấp dẫn và duy trì quan hệ với người môi giới, công ty bảo hiểm phải không ngừng cải tiến sản phẩm, quy định khai thác, nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, quy định mức hoa hồng có tính cạnh tranh.
b. Hệ thống tổng đại lý cá nhân (PPGA).
Hệ thống tổng đại lý cá nhân(PPGA) sử dụng các tổng đại lý cá nhân để phân phối sản phẩm bảo hiểm. Tổng đại lý cá nhân là người bán hàng hưởng hoa hồng làm việc độc lập, hoạt động chủ yếu có tính cá nhân và không làm việc trong văn phòng đại lý. Mỗi PPGA thường ký hợp đồng đại lý với nhiều công ty bảo hiểm. Công việc chủ yếu của PPGA là bán bảo hiểm chứ không tập trung vào xây dựng và quản lý tổ chức đại lý, mực dù thường PPGA có thể chỉ định đại lý vệ tinh – là những đại lý chuyên nghiệp do PPGA tuyển dụng. PPGA được nhận hoa hồng từ kết quả bán hàng của riêng mình và hoa hồng quản lý từ kết quả của đại lý vệ tinh.
PPGA và người môi giới giống nhau ở chỗ thường hoạt động cho nhiều công ty. Sự khác nhau chủ yếu là ở hợp đồng đại lý. Trong khi hợp đồng môi giới thường giống hợp đồng đại lý bảo hiểm, hợp đồng PPGA thường giống với hợp đồng tổng đại lý. Thêm nữa, đa số các công ty không có chỉ tiêu khai thác tối thiểu đối với người môi giới thì PPGA phải hoàn thành kết quả khai thác tối thiểu mới được tiếp tục hợp đồng đại lý.
c. Hệ thống bán bảo hiểm qua ngân hàng
Bán bảo hiểm qua ngân hàng là một loại hệ thống bán hàng tại các điểm phát triển mạnh từ giữa những năm 1990 và được coi là sẽ tiếp tục tăng trưởng. Bán bảo hiểm qua ngân hàng là việc công ty bảo hiểm khai thác và phát triển kinh doanh bảo hiểm nhờ việc phân phối sản phẩm qua ngân hàng. Ngân hàng có thể được chọn để bán rất nhiều loại sản phẩm bảo hiểm, như bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm nhân thọ, và sức khỏe nhóm, bảo hiểm chăm sóc dài hạn, bảo hiểm mất thu nhập do tàn tật, cũng như niên kim. Ngân hàng thường bán bảo hiểm qua đại lý được cấp phép, ki ốt, marketing qua điện thoại và gửi thư trực tiếp. Một đại lý muốn bán bảo hiểm qua ngân hàng phải được cấp phép. Ngân hàng không được yêu cầu người vay mua bảo hiểm như một điều kiện vay.
d. Người hoạch định tài chính.
Người hoạch đình tài chính là người chuyên nghiệp, có nhiệm vụ phân tích tình hình tài chính cá nhân, cũng như mục tiêu của khách hàng và chuẩn bị một kế hoạch, thường bằng văn bản để đáp ứng mục tiêu tài chính của khách hàng. Người hoạch định tài chính hỗ trợ khách hàng qua một số hoặc tất cả các hoạt động sau đây: chương trình bảo hiểm, quản lý đầu tư, tích lỹ tài sản, kế hoạch bất động sản, chương trình thuế và chương trình hưu trí. Một số người hoạch định tài chính thu phí tư vấn khách hàng trên cơ sở dịch vụ thời gian chứ không bán sản phẩm. Nhưng những người hoạch định tài chính khác được trả thù lao bằng hoa hồng khi bán sản phẩm bảo hiểm, quỹ tương hỗ cổ phiếu và trái phiếu. Người hoạch định tài chính được cấp phép bán bảo hiểm thường ký thỏa thuận bán hàng với công ty bảo hiểm. Trong một số công ty, thỏa thuận bán hàng xác định rõ rằng người hoạch định tài chính sẽ nhận một khoản phí khi bán sản phẩm của nhà bảo hiểm. Thỏa thuận của các công ty khác xác định người hoạch định tài chính sẽ nhận được hoa hồng đại lý thông thường.
e. Nhóm các nhà kinh doanh độc lập.
Nhóm các nhà kinh doanh độc lập là một tổ chức của các hãng hay nhà kinh doanh độc lập đàm phán với các công ty bảo hiểm về chương trình cung cấp dịch vụ, sản phẩm và chi trả thù lao phân phối. Nhóm các nhà kinh doanh độc lập thường tập trung vào đoạn thị trường đặc biệt như những cá nhân có thu nhập cao, doanh nghiệp nhỏ, phúc lợi người lao động hoặc marketing tại công sở. Tác động của nhóm các nhà kinh doanh độc lập trong việc phát triển các sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng và các dịch vụ đặc biệt ngày càng trở nên quan trọng đối với một số công ty bảo hiểm.
Nhiều nhóm các nhà kinh doanh độc lập sở hữu công ty tái bảo hiểm. Theo thỏa thuận giữa một công ty bảo hiểm và một nhóm các nhà kinh doanh độc lâp, công ty bảo hiểm nhượng – chuyển giao một phần phí của nhóm các nhà kinh doanh độc lập cho công ty tái bảo hiểm. Các nhà kinh doanh trong nhóm được trả thù lao bằng một phần lợi nhuận của công ty tái bảo hiểm. Mặc dù thỏa thuận tái bảo hiểm tạo ra cơ hội phân chia lợi nhuận nhưng kết quả không được đảm bảo
2.3. Hệ thống phân phối trực tiếp.
Mặc dù hầu hết quá trình bán bảo hiểm nhân thọ diễn ra trong hệ thống phân phối bán hàng cá nhân, công ty bảo hiểm cũng sử dụng hệ thống phân phối trực tiếp đối với một số hợp đồng. Trong hệ thống phân phối trực tiếp không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa khách hàng và người bán hay nhân viên bán hàng. Thay vào đó, người tiêu dùng mua sản phẩm trực tiếp từ công ty bảo hiểm như một động tác phản hồi lại quảng cáo hay chào bán trực tiếp của công ty. Hệ thống phân phối trực tiếp nói chung chỉ đáp ứng vai trò của bước đầu tiên và bước cuối cùng trong quy trình bán bảo hiểm truyền thống là tìm khách hàng tiềm năng và hoàn tất hợp đồng.
Hệ thống phân phối trực tiếp có thể sử dụng nhiều phương tiện quảng cáo như truyền hình, phát thanh, báo viết, tạp chí và internet. Một số công ty cũng gửi quảng cáo sản phẩm trực tiếp tới khách hàng tiềm năng qua đường thư tín và mời chào bán hàng trực tiếp qua đường điện thoại.
Vì thường đại lý không tham gia hệ thống phân phối trực tiếp nên sản phảm bán phải dễ hiểu và không phức tạp. Sản phẩm cũng phải tương đối đơn giản khi khai thác, quản lý và thanh toán phí. Bảo hiểm tử kỳ và một vài loại bảo hiểm trọn đời truyền thống và những sản phẩm thường được phân phối nhất qua hệ thống trực tiếp.
Nhiều sản phẩm bán trực tiếp được phát hành trên cơ sở đảm bảo, theo đó không có đánh giá rủi ro mà chỉ kiểm tra việc khách hàng trả lời câu hỏi trong giấy yêu cầu bảo hiểm. Mọi thành viên chính thức trong nhóm yêu cầu bảo hiểm và đáp ứng những điều kiện nhất định sẽ tự động được chấp nhận. Sản phẩm phát hành đảm bảo cho phép công ty bảo hiểm áp dụng một phương thức nhanh chóng, đơn giản để cung cấp một loại sản phẩm bảo hiểm đơn giản cho một số lượng lớn khách hàng.
Một số phương tiện được sử dụng để phân phối trực tiếp
Thư tín trực tiếp: là một phương tiện quảng cáo sử dụng dịch vụ bưu chính để phân phối giấy chào hàng in sẵn hay các thông điệp quảng cáo. Những tờ giấy in này thường bao gồm thư giới thiệu, tờ rơi miêu tả một sản phẩm nhất định, giầy yêu cầu bảo hiểm hay mẫu yêu cầu mà khách hàng có thể sử dụng để yêu cầu cung cấp thêm thông tin và một phong bì hồi âm.
Truyền thông điện tử: phát thanh và truyền hình, sử dụng truyền thông điện tử phát các thông điệp quảng cáo để hướng người tiêu dùng để công ty hay đại lý bảo hiểm để tìm hiểu thông tin về một hay một số sản phẩm nhất định.
Marketing qua điện thoại: là việc sử dụng điện thoại để bán hàng. Marketing qua điện thoại có thể được sử dụng để liên lạc ban đầu với khách hàng tiềm năng và có thể hỗ trợ hệ thống phân phối trực tiếp.
Bán hàng qua internet: Sử dụng công nghệ trực tuyến để bán bảo hiểm
Bao gồm:
+ Bán bảo hiểm qua site internet
+ Bán bảo hiểm qua thị trường bảo hiểm trực tuyến.
PHẦN II: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG KÊNH PHÂN PHỐI SẢN PHẨM BHNT Ở VIỆT NAM
1. Vài nét về thị trường BHNT Việt Nam
1.1. Những thành tựu đạt được.
Sau gần 10 năm mở của thị trường, hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng, đóng góp đáng kể cho việc giảm thiểu rủi ro trong sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế
Với sự tham gia của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nước ngoài, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, sản phẩm, chất lượng dịch vụ và cả tính chuyên nghiệp. Sau thời gian thí điểm, Bộ Tài chính đã lần lượt cấp giấy phép hoạt động cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nước ngoài (trong năm 1999 cấp giấy phép cho 3 doanh nghiệp là Prudential, Manulife, Bảo Minh - CMG - nay là Daiichi Life), sau đó là AIA (năm 2000), Prevoir, ACE Life, Great Eastern Life và Cathay Life. Đến nay trên thị trường đã có 09 doanh nghiệp hoạt động và theo dự báo sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được cấp giấy phép hoạt động trong thời gian tới. Chính sự tham gia của những công ty nước ngoài đã tạo nên một không khí sôi động mới cho thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
Có thể kể ra một vài con số đang chú ý:
Về khai thác mới: nếu như năm 1996 doanh thu phí khai thác mới của toàn thị trường chưa đầy 1 tỷ đồng thì đến năm 2003 con số này là 2.050 tỷ đồng (bằng 0,61% GDP) và năm 2007 ước đạt 1.815 tỷ đồng (bằng 0,16 % GDP).
Tổng doanh thu phí bảo hiểm: năm 2003 tổng doanh thu phí của toàn thị trường đạt 6.442 tỷ đồng (bằng 1,92% GDP) và năm 2007 đạt 9.485 tỷ đồng (bằng 2,06% GDP). Chính từ nguồn phí bảo hiểm này, ngành bảo hiểm nhân thọ đã cung cấp một lượng vốn lớn cho nền kinh tế.
Tổng số hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực đến cuối năm 2007: 3.834 nghìn hợp đồng chính (bằng khoảng 4,5% dân số).
Về kênh phân phối đại lý: thị trường đã tạo việc làm cho nhiều người lao động. Tổng số đại lý tại cuối năm 2007 là 70.000 người.
Về sản phẩm: Đến nay, thị trường đã cung cấp cho công chúng hầu hết các dòng sản phẩm từ sản phẩm truyền thống đến bảo hiểm liên kết chung (universal life) và gần đây là bảo hiểm liên kết đơn vị (unit linked).
Sự phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam cũng là một nhân tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển của khung pháp lý cho thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng, đánh dấu bằng sự ra đời của Luật kinh doanh bảo hiểm đầu tiên của Việt Nam vào năm 2000.
Bảng 2.1 Số đại lý và tốc độ tăng trưởng đại lý của các doanh nghiệp bảo hiểm (2006-2007)
STT
Doanh nghiệp
Đại lý mới
Tổng số đại lý
Tốc độ tăng trưởng(%)
2007
2006
1
AIA
10,190.00
9,742.00
8,632.00
12.86
2
Dai-chi life
4,730.00
5,771.00
6,025.00
-4.22
3
Bảo Việt
2,792.00
16,601.00
21,529.00
-22.89
4
Manulife
3,618.00
3,828.00
2,821.00
35.70
5
Prudential
24,947.00
30,042.00
20,989.00
43.13
6
Prévoir
-
-
478.00
-
7
ACE life
5,443.00
3,988.00
2, 735.00
45.81
8
Great Eastern
-
-
-
-
9
Cathay Đài loan
-
-
-
-
10
Tổng
51,720.00
69,972.00
63,209.00
10.70
(Nguồn: hiệp hội bảo hiểm Việt Nam)
Tính đến năm 2007, các DNBH Nhân thọ trên thị trường Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ được thể hiện rõ nét qua sự phát triển cả về quy mô, chất lượng, số lượng đại lý bán hàng trên toàn quốc tăng đáng kể so với cùng kỳ năm 2006. Mặc dù đa số đại lý của một số DN có xu hướng giảm như Dai-chi (giảm 4.22%) hay Bảo Việt (giảm tới 22.89%) xong nhìn tổng thể toàn thị trường thì số đại lý vẫn tăng khá nhiều. Có những Doanh nghiệp có mức tăng rất đáng kể như Manulife (tăng 35.70%) Prudential (tăng 43.13%) hay ACE life (tăng 45.81%) do đó số đại lý trên cả nước tăng từ 63.209 lên 69972 đại lý (Great eastern và Cathay life mới gia nhập thị trường Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam năm 2008)
Biểu đồ 2.1: Thị phần doanh thu phí khai thác mới năm 2007
(Nguồn: niêm giám bảo hiểm 2007)
Bảng 2.2 Tổng doanh thu phí của từng DNBH năm 2007
Đơn vị: 1 000 000 VNĐ
Doanh nghiệp
Năm 2007
Năm 2006
Tốc độ tăng trưởng(%)
Thị phần năm 2007
AIA
584,797.00
518,050.00
12.88
6.17
Dai-chi life
472,552.00
369,102.00
28.03
4.98
Bảo Việt
3,284,222.00
3,099,527.65
5.96
34.62
Manulife
968,173.00
896,811.00
7.96
10.21
Prudential
3,957,699.00
3,529,070.00
12.15
41.72
Prévoir
44,214.00
16,945.70
160.92
0.47
ACE life
173,900.00
52,184.00
233.24
1.83
Tổng
9,485,557.00
8,481,690.35
11.84
100.00
(Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam)
Trong năm 2007, xét về doanh thu phí Prudential vẫn là doanh nghiệp dẫn đầu về thị trường với 41.72%, tiếp đó là Tập đoàn Bảo Việt với 34.62%, tiếp theo là Menulife với 10.21%. Tuy chỉ đóng góp 13.45% vào thị phần chung nhưng cái doanh nghiệp như AIA, Dai-chi life, ACE life hay Prevoir cũng đã góp phần lớn tạo nên mội thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng sôi động
Năm 2008 thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam sau một năm gia nhập WTO đã có những hình ảnh đậm nét của một ngành sẵn sàng hội nhập và đáp ứng các chuẩn mực quốc tế tiếp tục duy trì đà tăng trưởng ở mức 13%, bắt chấp khó khăn, thách thức do lạm phát, giá dầu, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao. Theo số liệu của Hiệp hội BHVN đầu năm 2008, Tổng doanh thu phí Bảo hiểm nhân thọ đạt 7.514 tỉ đồng (trong đó phí bảo hiểm các sản phẩm chính đạt 7.243 tỉ đồng), tăng 11,7% so với cùng kỳ năm 2007. Về mặt tổng doanh thu phí, dẫn đầu thị trường lần lượt là Prudential với 3.102 tỉ, tiếp đến là Bảo Việt với 2.503 tỉ đồng, Manulife là 776 tỉ đồng.
Doanh thu phí khai thác mới của các sản phẩm bảo hiểm đạt 1.475 tỉ đồng (trong đó sản phẩm bổ trợ là 68 tỉ đồng), tăng 28,4 % so với cùng kỳ năm trước. Các sản phẩm hỗn hợp vẫn là các sản phẩm được ưa chuộng với doanh thu gần 897 tỉ đồng. Một điểm đáng lưu ý là sản phẩm trả tiền định kỳ mới có 01 doanh nghiệp là Bảo Việt Nhân thọ cung cấp ra thị trường nhưng lại có tỉ trọng doanh thu phí khai thác mới 19.61%. Tỉ trọng khai thác mới của các sản phẩm trả tiền định kỳ cho thấy xu hướng xã hội Việt đang thay đổi: các cá nhân trong xã hội có xu hướng độc lập về thu nhập khi về hưu thay vì sống nhờ gia đình, con cái hoặc người thân.
Tổng số hợp đồng bảo hiểm mới khai thác trong 9 tháng đầu năm là 888.728 hợp đồng trong đó sản phẩm chính là 401.182 hợp đồng chính, tổng số hợp đồng khai thác mới giảm so với cùng kỳ năm ngoái là 3,3%. Dẫn đầu là Prudential 386.876 hợp đồng (168.467 hợp đồng chính), Bảo Việt 282.414 hợp đồng (106.370 hợp đồng chính), AIG Life 66.837 hợp đồng (trong đó có 35.736 hợp đồng chính).
Số lượng hợp đồng hết hiệu lực trong kỳ là 867.023 hợp đồng (trong đó có 456.882 hợp đồng chính) tăng 23,2% so với cùng kỳ năm trước. Số lượng hợp đồng hết hiệu lực tăng là điều đã được dự đoán trước trong bối cảnh kinh tế Việt không thuận lợi đã ảnh hưởng tới kế hoạch chi tiêu của các hộ gia đình. Số hợp đồng hết hiệu lực cao nhất thuộc về Bảo Việt nhân thọ 367.882 hợp đồng (trong đó có 188.946 hợp đồng chính), Prudential là 352.125 hợp đồng (187.406 hợp đồng chính), AIG Life 67.132 hợp đồng (trong đó có 37.529 hợp đồng chính).
Số lượng hợp đồng khôi phục trong kỳ là 102.980 hợp đồng (hợp đồng chính là 51.026 hợp đồng) giảm 14,25% so với cùng kỳ năm trước. Prudential là doanh nghiệp có số hợp đồng khôi phục cao nhất với 90.746 hợp đồng (45.669 hợp đồng chính), tiếp đến là Dai-ichi là 6.925 hợp đồng (2.488 đồng chính), AIG Life có số lượng khôi phục là 3.541 đồng (có 1.621 hợp đồng chính).
Tổng số hợp đồng có hiệu lực đến 30/09/2008 là 7.498.726 hợp đồng tăng 5,46% so với cùng kỳ năm trước (riêng đối với sản phẩm chính là 3.802.022 hợp đồng, tăng 2% với so với cùng kỳ năm trước). Dẫn đầu là Bảo Việt Nhân thọ 3.248.063 hợp đồng (1.534.219 hợp đồng chính), Prudential là 3.008.627 hợp đồng (trong đó có 1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5974.doc