Đề tài Xuất khẩu cà phê sang thị trường EU, thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

 

Phần I: Lời mở đầu .

Phần II: Nội dung

CHƯƠNG 1: : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ TỔNG QUAN VỀ SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM

1.1 Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa .

1.1.1 Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu .

• Khái niệm về hoạt động xuất khẩu .

• Vai trò của hoạt động xuất khẩu .

1.1.2 Các hình thức xuất khẩu chủ yếu

• Xuất khẩu trực tiếp .

• Xuất khẩu gián tiếp .

• Buôn bán đối lưu .

• Giao dịch tái xuất

• Hình thức gia công quốc tế .

1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa .

• Các yếu tố về điều kiện tự nhiên, vốn, lao động, công nghệ .

• Chính sách tỉ giá hối đoái

• Hạn ngạch và những tiêu chuẩn kĩ thuật .

• Các yếu tố về thế chế chính trị-kinh tế- xã hội

• Các yếu tố cạnh tranh .

1.2 Tổng quan về sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam

1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngành sản xuất cà phê trong nước

1.2.2 Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu cà phê sang thị trường EU .

1.2.3 Lợi thế của Việt Nam khi xuất khẩu cà phê

• Lợi thế khách quan .

• Lợi thế chủ quan .

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM

SANG THỊ TRƯỜNG EU

2.1 Tình hình chung về xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2001-2008

2.1.1 Về cơ cấu sản phẩm

• Cà phê Robusta

• Cà phê Arabica

2.1.2 Về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu

2.1.3 Về chất lượng cà phê xuất khẩu

2.1.4 Giá cả cà phê xuất khẩu

2.1.5 Phương thức và hình thức xuất khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam.

2.1.6 Về thị trường xuất khẩu .

2.2 Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU trong giai đoạn 2001-2008

2.2.1 Về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu .

2.2.2 Cơ cấu thị trường xuất khẩu

2.2.3 Giá cà phê xuất khẩu

2.2.4 Các hình thức xuất khẩu chủ yếu .

2.2.5 Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang EU trong thời gian qua .

• Những kết quả đạt được .

• Những nguyên nhân và tồn tại

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẢY XUẤT

KHẨU CÀ PHÊ SANG THỊ TRƯỜNG EU

3.1 Định hướng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian tới .

3.2 Giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường EU .

3.2.1 Tạo nguồn vốn đầu tư

3.2.2 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng .

3.2.3 Nâng cao năng xuất, hạ giá thành sản phẩm .

3.2.4 Đổi mới công nghệ

3.2.5 Xây dựng hệ thống đồng bộ giữa các khâu .

3.2.6 Tổ chức hệ thống thu thập thông tin

3.2.7 Tăng cường hợp tác quốc tế .

Phần III: Kết Luận .

Danh mục tài liệu tham khảo .

 

 

 

 

doc61 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11328 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu cà phê sang thị trường EU, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Robusta nhân sống. Điều này lảm ảnh hưởng trực tiếp đến tiềm năng xuất khẩu cà phê. Không tạo dựng được thương hiệu cà phê trong mắt người tiêu dung. Bên cạnh đó, do tính chất của cà phê Robusta đòi hỏi kĩ thuật trồng trọt cao nhưng các hộ nông dân lại chưa đáp ứng được, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hương vị của cà phê Robusta. Cà phê Arabica( cà phê chè) Cà phê Arabica được chọn giống, trồng và chăm sóc trong môi trường tự nhiên ở độ cao từ 800m-1200m so với mặt nước biển. Chính điều kiện này tạo nên sự khác biệt của cà phê Arabica Việt Nam với cà phê Arabica của các nước khác Năm 1998 cà phê Arabica của Việt Nam được xuất khẩu nhưng theo những tiêu chuẩn của cà phê Robusta. Đến năm 2000, cà phê Arabica của Việt Nam mới có tiêu chuẩn riêng. Sản lượng cà phê xuất khẩu: sản lượng ngày càng tăng do nhu cầu tăng mạnh, chênh lệch giá bán giữa cà phê cùng loại của Việt Nam và các nước khác được rút ngắn một cách đáng kể. Đến nay cà phê Arabica của Việt Nam được rất nhiều nước quan tâm. Diện tích cà phê Arabica vào năm 2007 đạt 793,89ha. Hiện nay, có hai loại cà phê Arabica được trồng tại Việt Nam đó là: Moka va Catimor Moka: là loại cà phê Arabica có mùi thơm quyến rũ, ngào ngạt, vị nhẹ, nhưng sản lượng lại thấp, giá trong nước không cao vì không xuất khẩu được trong khi giá xuất cao gấp 2-3 lần loại cà phê Robusta Catimor: Loại cà phê này có mùi thơm nồng nàn, hơi có vị chua, giá xuất gấp 2 lần cà phê Robusta, chi phí sản xuất cao. Hiện nay, Quảng trị là nơi trồng đại trà loại cây này. Chế biến cà phê Arabica: Cà phê Arabica được chế biến theo dây chuyền khép kín, công nghệ tiên tiến nhất của Việt Nam với công suất chế biến là 15 tấn quả tươi/giờ, chế biến cà phê nhân công suất 2000 tấn nhân/ năm. Thị trường tiêu thụ chính loại cà phê này là Châu Âu và Hoa Kỳ. Hiện tại nhu cầu về loại cà phê Arabica bắt đầu tăng mạnh và Việt Nam tận dụng tốt cơ hội đó. Về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu Trong vòng 26 năm trở lại đây, ngành cà phê đã có những bước phát triển nhanh chóng vượt bậc. Một trong những nguyên nhân dẫn tới thành công là nhờ chính sách đổi mới của nhà nước phù hợp với nguyện vọng của nông dân lao động, chính điều này đã tác động lớn đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Một nguyên nhân nữa mà không thể không nhắc tới là trong vài năm trở lại giá cà phê trên thị trường thế giới diễn biến theo hướng có lợi cho người sản xuất làm thu nhập của người nông dân tăng lên đáng kể. tính tất yếu là kích thích sản xuất phát triển. Tuy nhiên mặt trái của sự “ tăng trưởng nóng” này cũng gây nhiều thiệt hại. Theo số liệu thống kê năm 2007, diện tích trồng cà phê đạt hơn 500.000ha và lượng xuất khẩu đầu tiên đạt hơn một triệu tấn, giá trị xuất khẩu cũng đạt mức kỉ lục hơn 1,6 tỉ USD. Đây là một con số gây sốc cho ngành cà phê Việt Nam. Nó góp phần đáng kể vào việc cung cấp dư thừa cà phê trên thị trường thế giới đẩy giá cà phê đến mức thấp nhất. Ngành cà phê của Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng do sản lượng lớn. Trong niên vụ tiếp theo, niên vụ 2007-2008 tình hình xuất khẩu cà phê tương đối ổn định, Đức vẫn là bạn hàng số một tiếp theo là Mỹ. Trong mấy tháng đầu giá cà phê tương đối ổn định.Tuy nhiên trong mấy tháng tiếp theo giá cà phê giảm mạnh đặc biệt là vào tháng 9 và tháng 10 vừa qua. Tại thị trường Luân Đôn vào ngày 30/10 già cà phê là 1.557USD/T. Giá cà phê thế giới giảm kéo theo giá cà phê trong nước cũng giảm mạnh. Tại ĐăkLăk, giá cà phê hiện ở mức 25.000-26.000/kg giảm gần 20.000/kg so với tháng 3/2008. Với mức giá này người trồng cà phê lỗ nặng. Qua nguồn tổng hợp từ trung tâm thông tin thương mại cho thấy: Năm 2001 sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam ra thị trường thế giới đạt 931 nghìn tấn với kim ngạch 391 triệu USD. Đến 2002 sản lượng cà phê giảm 209 nghìn tấn so với năm 2001 tương đương 22,44%. kim ngạch giảm 391 triệu USD xuống còn 322 triệu USD tương đương với 17,6% so với năm 2001. Năm 2003 xuất khẩu cà phê đạt 749 nghìn tấn tăng 3,7% về sản lượng. kim ngạch đạt 505 triệu USD tương đương tăng 56,8% về giá trị so với năm 2002 Năm 2004 xuất khẩu đạt 975 nghìn tấn tăng 30,17% về sản lượng. kim ngạch xuất khẩu đạt 641 triệu USD tăng 26, 9% so với năm 2003. Năm 2005 xuất khẩu cà phê đạt 885 nghìn tấn giảm 12,3% , kim ngạch xuất khẩu đạt 735 triệu USD tăng 14,7% so với năm 2004 Năm 2006 xuất khẩu cà phê đạt 912 nghì tấn tăng 6,67% , kim ngạch xuất khẩu đạt 1,101 tỉ UsD tăng 49,7$ so với năm 2005 Năm 2007 sản lượng cà phê xuất khẩu đạt 1152273 tấn tăng 26,35% kim ngạch xuất khẩu đạt 1,6 tỉ USD tăng 45,32% so với năm 2006. Năm 2008 xuất khẩu cà phê đạt 1.077.375 tấn giảm 6,5%, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,087 tỉ USD tăng 31% so với năm 2007. thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam Năm Sản lượng (nghìn tấn) Tốc độ tăng SL(%) Kim ngạch (triệu USD) Tăng kim Ngạch(%) 2001 931 - 391 -22 2002 722 -22,44 322 -17,6 2003 749 3,7 505 56,8 2004 975 30,17 641 26,9 2005 855 -12,3 735 14,7 2006 912 6,67 1.101 49,9 2007 1.152 26,35 1.600 45,32 2008 1.077 -6,5 2.087 31 (Nguồn Trung tâm thông tin thương mại) Từ bảng trên ta có biểu đồ sau: Sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam Qua bảng số liệu trên ta thấy năm 2003 sản lượng cà phê xuất khẩu chỉ tăng 3,7% trong khi đó kim ngạch tăng 56,8% so với năm 2002. Nguyên nhân là do giá cà phê thế giới tăng đột biến, điều này được thể hiện rõ rệt vào năm 2004, với tâm lý tốt và diễn biến thị trường có lợi, người nông dân tiếp tục mở rộng diện tích nhằm tăng sản lượng và thu nhập làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng 26,9% so với năm 2003 đạt 641 triệu USD. Đến năm 2005, sản lượng xuất khẩu giảm 12,3% so với năm 2004 tuy nhiên kim ngạch vẫn tăng do giá cà phê trên thị trường thế giới vẫn cao. Từ năm 2006-2008 ngành cà phê Việt Nam lien tục đạt được nhiều thành công. Cụ thể là tổng kêt năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 1.101 triệu USD , năm 2007 đạt 1,6 tỷ USD đây là con số đáng kinh ngạc vì đã vượt chỉ tiêu đặt ra. Sang niên vụ 2007-2008, vào tháng 9 giá cà phê trên thế giới giảm mạnh kéo theo giá cà phê trong nước cũng có chiều hướng đi xuống , giá cà phê tiếp tục giảm vào tháng 10 gây tâm lý cho người xuất khẩu làm sản lượng cà phê xuất khẩu giảm 6,5% so với năm 2007 nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt hơn 2 tỷ USD. Nguyên nhân của sự “ trượt dốc không phanh “ của giá cà phê trong mấy tháng qua là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và sức ép của đồng USD lên giá. Chỉ tính riêng tháng 8/2008 sản lượng xuất khẩu cà phê sang Đức giảm trên 28%, vào Hoa kỳ giảm 48%, vào Italia giảm 22%. Theo Hiệp hội cà phê- ca cao nhận định, sản lượng cà phê trong niên vụ 2008-2009 sẽ đạt trên dưới 1 triệu tấn tương đương với vụ năm nay. Hiệp hội còn đưa ra những vấn đề quan tâm trong sản xuất và chế biến cà phê trước tình hình thế giới đang biến động phức tạp như áp dụng thực hành nông nghiệp tốt(GAP), phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM), và thực hành chế biến tốt (GMP), tìm cách hạ giá thành sản xuất thông qua việc bón phân và tưới nước hợp lý. Ngoài ra Hiệp hội còn đặt ra các mục tiêu mở rộng sản xuất các sản phẩm cà phê có giá trị gia tăng, đặc biệt quan tâm về yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời kiến nghị với chính phủ có chính sách ưu tiên về vốn hợp lý cho ngành cà phê trong niên vụ 2008-2009. Về chất lượng cà phê xuất khẩu Hiện nay cà phê xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên đó mới chỉ là số lượng tương đối, nguyên nhân là do từ khâu trồng trọt đến thu lượm sản phẩm không được quản lý qui mô và đồng bộ. Tâm lý người nông dân muốn thu hoach sớm để gia tăng thu nhập do vậy mặc dù tỉ lệ cà phê chín mới khoảng 10-20% họ tiến hành thu hoạch điều này ảnh hưởng đến chất lượng cà phê khi chế biến. Cà phê xanh sẽ teo lại, da nhăn nheo, vỏ dính chặt vào nhân rất khó đánh bóng sạch, hạt cà phê có màu tối và không thơm. Mặt khác nông dân thu hái bằng tay, sau đó được phơi trên sân xi măng, sân đất do đó cà phê của Việt Nam có lẫn cả mùi đất, không thơm. Chất lượng cà phê không tốt cũng do các công ty xuất khẩu không quản lý kĩ từ khâu thu gom sản phẩm dẫn tới tình trạng chất lượng cà phê xuất khẩu không đồng bộ, công nghệ chế biến sản phẩm chưa theo kịp các nước phát triển. Tất cả những nhân tố này làm cho cà phê Việt Nam giảm đi sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vì vậy ngành cà phê Việt Nam cần phải có những tiêu chuẩn và sự điều chỉnh thật tốt trong vấn đề quản lý chất lượng cà phê. Bảng 2.2: Tiêu chuẩn về cà phê của Việt Nam TCVN 4193:2001 Cà phê nhân- yêu cầu kĩ thuật ( Soát xét lần 3- Thay thế TCVN 4193-1993) TCVN 4334:2001 ( ISO 3509-1985) Cà phê và các loại sản phẩm của cà phê- Thuật ngữ Và ĐN ( Soát xét lần 1- Thay thế TCVN 4334-86) TCVN 4870:2001 ( ISO 4150-1991) Cà phê nhân- Phương pháp xác định cỡ hạt bằng sàng tay( Soát xét lần 2- Thay thế TCVN 4807-89) TCVN 6928:2001 ( ISO 6673-1983) Cà phê nhân- xác định sự hao hụt khối lượng ở 150 độ C TCVN 6929:2001 ( ISO 9116-1992) Cà phê nhân- Hướng dẫn phương pháp mô tả các qui định TCVN 4193:2005 Tiêu chuẩn về chất lượng cà phê xuất khẩu (Nguồn: http// www.vicofa.org.vn) Trong thời điểm hiện tại, Việt Nam vẫn xuất khẩu chủ yếu là cà phê theo tiêu chuẩn TCVN 4193-93 với các thông số phần trăm lượng ẩm, tỉ lệ chất tạp, tỉ lệ hạt vỡ. Vì vậy cà phê Việt Nam chưa đáp ứng được hết các điều kiên của tổ chức ISO khi áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế. Do thiếu công nghệ chế biến sản phẩm, và các công nghệ sơ chế mà chúng ta đang có còn yếu và chưa đồng bộ nên chất lượng cà phê chưa đạt hiệu quả như mong muốn, mặt khác thói quen của nông dân thích thu hoạch sớm làm lẫn lộn trái xanh và trái chín càng làm giảm chất lượng cà phê khi tiến hành sơ chế. Hiện nay cà phê Robusta của Việt Nam rất được ưa chuộng vì có chất lượng cao trên thị trường. Loại cà phê này có nguồn gốc từ Châu phi nóng ẩm khi sang Việt Nam được trồng ở cao nguyên khí hậu nhiệt đới nên có chất lượng rất cao. Tuy nhiên có nhiều hạn chế trong khâu trồng trọt, hái lượm đã làm giảm hương vị thơm ngon của loại cà phê này. Vào 5/3 vừa qua giá cà phê Robusta leo lên ngưỡng 2.738USD/tấn đây là mức giá cao nhất trong vòng 14 năm qua tính đến hết tháng 3/2008. Cà phê Robusta vẫn là thế mạnh của Việt Nam. Hiện nay chúng ta vẫn đang chiếm vị trí quán quân về xuất khẩu loại cà phê này.Tuy nhiên trong 10/2006-6/2007 đã có tới 958,667 bao cà phê của Việt Nam bị loại thải trên thị trường LIFFE , chiếm 74% tổng sản lượng cà phê bị loại thải tại thị trường này. Chất lượng đang là thách thức lớn nhất mà cà phê Việt Nam phải đối mặt. Giá cả cà phê xuất khẩu của Việt Nam Trong mấy năm qua, diễn biến giá cà phê luôn ở mức cao, đây là tín hiệu tốt cho người kinh doanh sản xuất trong nước. Trong những tháng đầu niên vụ 2005-2006 cả nước xuất khẩu được gần 600.000 tấn, đạt kim ngạch gần 620 triệu USD giá xuất bình quân đạt 1.033USD/tấn. So với cùng kì niên vụ 2004-2005 cà phê xuất khẩu giảm 9,1% về lượng nhưng tăng 32,8% về giá trị. Sang đầu năm 2006 giá cà phê xuất khẩu liên tục tăng cao từ 1.169USD/tấn đến 1.570USD/tấn, giá bình quân 6 tháng đầu năm 2006 đạt 1.142USD/tấn. Vào ngày 13/10/2006 Hiệp hội Cà phê- Ca cao cho biết giá cà phê xuất khẩu đã giảm mạnh xuống còn 1.360- 1.370USD/tấn đối với cà phê giao FOB tại TP.HCM, giảm 70-80USD/tấn so với đầu tháng 10. Kết thúc phiên 9/10/2006, giá cà phê chè tại New york giao tháng 12 giảm 0,85 xu xuống 1,0305USD/libre và giá cà phê Robusta tại Luân Đôn giao tháng 11 đã giảm 38USD/tấn xuống còn 1.430 USD/tấn. Tuy nhiên giá thu mua tại thị trường trong nước vẫn tăng do nhu cầu xuất khẩu tăng trong khi nguồn cung ngày càng hạn hẹp. Tại Lâm Đồng, giá thu mua cà phê vối tăng 400 đồng/kg và cà phê chè loại 1 tăng khoảng 200 đồng/kg. Trong năm 2007 giá cà phê tăng tương đối ổn định. Đến năm 2008, đây là năm có nhiều biến động nhất của ngành cà phê Việt Nam cũng như ngành cà phê thế giới chỉ trong 8 tháng đầu năm, giá cà phê tăng mạnh ở mức 2.240- 2.520 USD/tấn thì đến tháng 10/09 giá cà phê giảm mạnh xuống còn 1.700USD/tấn và tiếp tục giảm vào tháng 11 xuống còn 1.480 USD/tấn. giá cà phê thế giới giảm kéo theo giá cà phê trong nước cũng giảm. Tại Đăk Lăk giá cà phê giảm gần 20.000/kg so với tháng 3. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ảnh hưởng đến đầu ra của cà phê thế giới, đồng thời sức ép của đồng USD lên giá đã đẩy giá cà phê xuống mức thấp nhất. Tình hình giá cà phê bất lợi vẫn tiếp tục tái diễn vào đầu tháng 12 khi nông dân đang vào vụ thu hoạch 2008-2009. Nông dân phải bán với giá là 25.000 đồng/kg. 10-12-2008 do đồng USD giảm giá và thị trường chứng khoán Mỹ mất điểm giá cà phê thế giới bắt đầu tăng trở lại. Tại thị trường Luân đôn giá cà phê Robusta kỳ hạn tháng1/09 đạt 1646USD/tấn, tăng 27 USD/tấn so với phiên giao dịch trước. Trong khi đó giá cà phê cùng loại kỳ hạn tháng 3/09 cũng tăng 21 USD/tấn lên mức 1670 USD/tấn. Tại thị trường New york giá cà phê cũng tăng nhẹ. Ngày 17/12/08 giá cà phê tại thị trường Luân Đôn giảm nhẹ, thị trường New york tăng nhẹ Bảng 2.3: Giá cà phê thế giới Loại cà phê Kỳ hạn Thị trường 19/12/08 12/12/08 Đơn vị Cà phê Arabica Giao tháng 03/09 New york 110,95 112,15 US cent/lb Cà phê Robusta Giao tháng 3/09 London 1597 1641 USD/T Cà phê Arabica Giao tháng 3/09 Tokyo 16.710 17.000 Yen/69 kg Cà phê Robusta Giao tháng 9/09 Tokyo 16.000 15.790 Yen/100kg ( Nguồn: Vinanet) Phương thức và hình thức xuất khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam Hiện nay, cà phê của Việt Nam xuất sang 75 quốc gia và vùng lãnh thổ với nhiều hình thức, phương thức khác nhau. Phương thức phổ biến được nhiều các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng là ký hợp đồng bán cho khách hàng, nhưng giá cả thực tế chỉ được hai bên ấn định vào thời điểm giao hàng. Đây là phương thức truyền thống được sử dụng rộng rãi. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của Việt Nam đang đổi mới phương thức xuất khẩu bằng cách đưa hạt cà phê lên mạng, buôn bán bằng future contracts ( hợp đồng tương lai) thỏa thuận về việc mua hay bán một lượng hàng hóa nào đó, ở một thời điểm xác định trong tương lai với mức giá được qui định ngay khi kí kết hợp đồng. Phương thức này sẽ giúp được các bên tránh được nhiều rủi ro. Ở Việt Nam hiện nay có 3 đơn vị tham gia vào giao dịch hợp đồng giao ngay cho mặt hàng cà phê là Techcombank, Ngân hàng đầu tư phát triển (BIDV) và Công ty cổ phần môi giới đầu tư và thương mại Châu Á (ATB) của Ngân hàng Vietcombank. Hình thức xuất khẩu cà phê của Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu gián tiếp thông qua trung gian. Trung gian ở đây có thể là trung gian của nước thứ 3 hoặc các nhà phân phối, đại lý của nước nhập khẩu cà phê Việt Nam. Tuy vậy hình thức xuất khẩu trực tiếp cũng đang được áp dụng phổ biến, nguyên nhân của tình trạng này là do : Cà phê Việt Nam vẫn chưa có thương hiệu mạnh, các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn chưa nắm rõ thông tin về thị trường xuất khẩu chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu lâu bền, bên cạnh đó là sự phối hợp của các khâu trong quá trình sản xuất và xuất khẩu chưa cao. Việc xuất khẩu qua trung gian sẽ làm giảm lợi ích ròng do lợi nhuận bị phân chia.Do vậy nhiệm vụ trước hết đặt ra cho ngành cà phê Việt Nam hiện nay là phải xây dựng được thương hiệu mạnh tương xứng với tiềm năng mà ngành cà phê đang có. Thị trường xuất khẩu Với hơn 30 năm phát triển, ngành cà phê Việt Nam hiện nay đã đạt được nhiều thành công rực rỡ. Sản lượng cà phê tăng đều theo các năm. Trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực cà phê đứng thứ 2 sau gạo. Sản phẩm cà phê của Việt Nam đã có mặt ở 75 quốc gia và vùng lãnh thổ, giá trị cà phê xuất khẩu chiếm gần 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của cả nước. Theo báo cáo, Liên minh châu Âu (EU) là thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam tiếp theo đó là Hoa Kỳ và Nhật Bản. Tính từ 2001-2005 xuất khẩu cà phê sang các nước này chiếm khoảng 47,8% tổng sản lượng xuất khẩu. Mặt hàng được tiêu thụ tại các nước này chủ yếu là cà phê nhân sống. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng xuất khẩu được 869,7 tấn cà phê hòa tan với trị giá hơn 2,77 triệu USD sang 25 thị trường, trong đó Nhật bản 232 tấn, Hoa Kỳ 192 tấn, Đài loan 141,5 tấn, Đức 104.6 tấn. Hiện nay cà phê Arabica của Việt Nam đang được ưa chuộng. Thị trường chính tiêu thụ sản phẩm này là EU và Hoa Kỳ đang có nhu cầu lớn hứa hẹn thành công mới cho cà phê Việt Nam. Bảng 2.4: Sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường qua các năm (đơn vị tấn) Thị trường Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Liên minh EU 323.641 403.876 497.483 446.799 479.944 602.157 Tốc độ tăng(%) - 24,79 23,18 -14,81 6,75 26,25 Hoa kỳ 90.100 109.421 135.412 117.781 131.275 134.966 Tốc độ tăng(%) - 21,42 23,76 -13,07 11,3 3,03 Nhật Bản 34.821 24.678 28.987 29.385 33.890 44.606 Tốc độ tăng(%) - -29,1 17,42 1,37 15,33 37,5 Philippin 21.789 20.303 19.964 27.979 12.351 24.033 Tốc độ tăng(%) - -6,82 -1,67 40,15 -55,86 94,58 Ấn Độ 17.856 19.202 21.213 23.287 23.691 25.029 Tốc độ tăng(%) - 7,54 10,47 9,78 1,73 5,65 Hàn Quốc 26.288 35.310 29.638 25.888 35.326 32.376 Tốc độ tăng(%) - 34,32 -16,06 -12,65 36,46 -8,35 Malaysia 7.958 9.831 12.081 11.507 16.365 17.744 Tốc độ tăng(%) - 23,54 22,886 -4,75 42,21 8,43 Singapore 8.328 8.754 8.645 11.862 8.819 9.036 Tốc độ tăng(%) - 5,12 -1,25 37,21 -25,65 2,77 Canada 8.924 11.462 13.295 17.688 15.341 16.058 Tốc độ tăng(%) - 28,44 15,99 33,04 -13,27 4,67 Trung Quốc 8.729 9.213 11.420 11.479 13.753 17.927 Tốc độ tăng(%) - 5,54 23,96 0,52 19,81 30,35 (Nguồn: Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy cà phê của Việt Nam xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật…Nhưng sản lượng xuất khẩu không đồng đều theo các năm. Nguyên nhân chính vẫn là do chất lượng cà phê vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu và thị hiếu của nước nhập khẩu. Cụ thể là: mặc dù có nhu cầu lớn về cà phê, nhập khẩu năm 2003 tăng 24,79% và tiếp tục tăng trong năm 2004 nhưng đến năm 2005 sản lượng nhập khẩu cà phê của EU giảm 14,81% so với năm 2004 sản lượng nhập khẩu chỉ đạt 446.799tấn. Sang năm 2006 sản lượng nhập khẩu đạt 476.944 tăng 7,75%. Tính đến hết năm 2007 sản lượng cà phê xuất khẩu ra thị trường thế giới của Việt Nam là 1.152000 tấn trong đó sản lượng xuất khẩu sang thị trường EU đạt 602.167 tấn. Trong 10 tháng đầu năm 2008 sản lượng cà phê xuất khẩu sang thị trường EU giảm chỉ đạt 396.000 tấn chiếm 39,6% tổng sản lượng ,nguyên nhân là do cuộc suy thái kinh tế ảnh hưởng tới nhu cầu tiêu dung của người dân EU. Hoa Kỳ vẫn là thị trường thứ 2 nhập khẩu cà phê Việt Nam với khối lượng lớn. Đây là thị trường tiềm năng nhưng có nhiều rủi ro do các hệ thống tiêu chuẩn khắt khe. Rất nhiều các hàng hóa không ngoài cà phê xuất khẩu sang thị trường này bị loại thải.Năm 2003 sản lượng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ tăng 21,42% so với năm 2002 đạt 109.421 tấn và tiếp tục tăng trong năm 2004. Đến năm 2005 sản lượng xuất khẩu sang thị trường này giảm 13,07% so với năm 2004. Giải thích cho điều này vẫn là ở chất lượng cà phê của Việt Nam. Tuy vậy sang năm 2006, 2007 sản lượng nhập khẩu cà phê của Hoa kỳ tăng trở lại. Sản lượng cà phê nhập khẩu đạt 134.966 tấn tăng 3,03% so với năm 2006. Tính đến hết tháng 10/2008 sản lượng cà phê xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt hơn 116 ngàn tấn chiếm 10,77% tổng sản lượng. Ngoài ra tại các thị trường khác như Nhật Bản, Hàn Quốc…sản lượng nhập khẩu cà phê Việt Nam hàng năm vẫn tăng đều . Như vậy cà phê Việt Nam đang dần tạo lập được uy tín và thương hiệu trên thế giới. Đây là bước ngoặt lớn cho ngành cà phê Việt Nam. Bảng 2.5 : Kim ngạch xuất khẩu của cà phê của Việt Nam Thị trường Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Liên minh EU 150.816 271.808 337.293 359.226 589.873 815.000 Tốc độ tăng(%) - 80,22 24,09 6,5 64,21 38,17 Hoa kỳ 41.029 75.384 89.975 97.542 162.113 238.889 Tốc độ tăng(%) - 83,73 19,36 8,41 66,19 47,36 Nhật Bản 15.684 18.464 20.839 25.939 42.395 75.509 Tốc độ tăng(%) - 17,73 12,86 24,47 63,44 78,11 Philippin 9.478 12.486 13.576 23.026 15.142 40.496 Tốc độ tăng(%) - 31,74 8,73 69,6 -34,24 67,44 Ấn Độ 7.410 12.347 14.467 19.375 27.458 37.694 Tốc độ tăng(%) - 66,63 17,17 33,93 41,72 37,28 Hàn Quốc 12.224 23.869 20.243 21.409 41.402 52.255 Tốc độ tăng(%) - 95,26 -15,19 5,76 93,39 26,21 Malaysia 3.557 6.154 8.070 8.711 15.394 24.811 Tốc độ tăng(%) - 73,01 31,13 7,94 79,72 61,17 Singapore 4.081 5.751 5.930 9.881 11.033 11.981 Tốc độ tăng(%) - 40,92 3,11 66,63 11,66 35,78 Canada 4.794 7.657 8.908 14.079 18.089 25.709 Tốc độ tăng(%) - 59,72 16,34 58,05 28,47 42,14 Trung Quốc 4.015 6.173 7.766 8.058 14.379 24.594 Tốc độ tăng(%) - 53,75 25,81 3,76 78,44 71,04 (Nguồn : Nhìn trên bảng số liệu ta thấy kim ngạch xuất khẩu tăng theo các năm mặc dù sản lượng có giảm. Nguyên nhân của tình trạng này là do giá cà phê tăng và ít có biến động. Trong mấy tháng đầu năm 2006 giá cà phê tăng từ 1.169USD/tấn đến 1.570USD/tấn đến tháng 10 giá cà phê mạnh tuy nhiên sau đó lại tăng trở lại do nguồn cung đang thiếu hụt. Tháng 3/2007 giá cà phê đạt 1.626 USD/tấn và liên tục tăng. Năm 2007 là năm mà ngành cà phê đạt được nhiều con số đáng kinh ngạc về cả sản lượng và kim ngạch. Bước sang năm 2008 trong mấy tháng đầu năm giá cà phê ở mức cao đạt 2.240- 2.520 USD/tấn, tuy nhiên do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới sau đó đã kéo theo giá cà phê giảm mạnh xuống còn 1.700USD/tấn và tiếp tục giảm vào tháng 11 xuống còn 1.480 USD/tấn. Năm 2008 là năm mất trắng của nông dân Việt Nam do giá cà phê thế giới giảm kéo theo giá cà phê trong nước cũng tụt nhịp. Tuy nhiên vào tháng 12 vùa qua giá cà phê thế giới cũng đang tăng trở lại. và nhu cầu cà phê của thế giới cung đang dần hồi phục. Châu Á cũng là thị trường lớn của ngành cà phê Việt Nam, trong đó Nhật Bản, Hàn Quốc là 2 quốc gia tiêu thụ nhiều cà phê Việt Nam nhất trong khu vực Châu Á. Thời gian qua nhu cầu cà phê ở thị trường này tăng mạnh. Tính đến hết niên vụ 2007-2008 sản lượng cà phê xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 52.000 tấn, Hàn Quốc đạt 40.000 tấn. Bên cạnh đó, sản lượng xuất khẩu cà phê sang các thị trường như Trung Quốc, Philipin, Newzealand, Hy Lạp tăng đột biến. Đây là tín hiệu đáng mừng cho ngành cà phê Việt Nam. Các sản phẩm cà phê của Việt Nam đang có được vị thế mạnh, sức cạnh tranh cao trên thế giới. Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU trong giai đoạn 2001-2008 Về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu Trong những năm gần đây, có tới hơn 91% tổng kim ngạch xuất khẩu và hơn 76% kim ngạch nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam - EU được thực hiện. Năm 2007, thương mại Việt Nam- EU được đánh giá là năng động với tổng kim ngạch buôn bán 2 chiều đạt 14,23 tỷ USD trong đó cà phê đạt 879 triệu USD. Hiện nay, EU là thị trường tiêu thụ lớn nhất đối với cà phê Việt Nam, chiếm tỉ trọng 45% trong xuất khẩu của Việt Nam. Bảng 2.6: Sản lượng và kim ngạch nhập khẩu của EU Năm Sản lượng (tấn) Tốc độ tăng S .lượng(%) Kim ngạch (nghìn USD) Tăng kim ngạch (%) 2002 323.641 - 150.816 - 2003 403.876 24,79 271.808 80,22 2004 497.483 23,18 337.293 24,09 2005 446.799 -14,81 359.229 6,5 2006 476.994 6,75 589.873 64,21 2007 602.157 26,25 815.000 38,17 (Nguồn:www.cafeviet.net) Biểu đồ sản lượng nhập khẩu cà phê Việt Nam của EU ( Đơn vị: tấn) Theo dõi bảng số liệu ta thấy sản lượng và kim ngạch cà phê xuất khẩu sang EU tăng giảm tương đối qua các năm. Năm 2002 sản lượng xuất khẩu đạt 323.641 tấn , kim ngạch xuất khẩu đạt 150.816 nghìn USD. Năm 2003, sản lượng xuất khẩu tăng 24, 79% so với năm 2002 cùng với giá thị trường thế giới tăng kéo theo kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng mạnh khoảng 80,22%. Với diễn biến thị trường tốt năm 2004 sản lượng cà phê tiếp tục gia tăng tại thị trường này cụ thể: sản lượng nhập khẩu cà phê của EU là 497.483 tấn tăng 23,18% kim ngạch đạt 337.293 nghìn USD tăng 24,09% so với năm 2003. Tuy nhiên sang năm 2005 sản lượng cà phê bị giảm do chất lượng cà phê của Việt Nam không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân EU. Sản lượng giảm14,81% trong khi đó kim ngạch chỉ giảm 6,5%. Từ năm 2006 do có nhiều thay đổi trong quá trình sản xuất và chế biến cà phê, sản lượng cà phê bắt đầu tăng trở lại kèm theo giá thị trường tăng làm kim ngạch xuất khẩu cà phê sang EU tăng mạnh 64,21% so với năm 2005, sản lượng xuất khẩu đạt 476.944 tấn. Năm 2006 cũng là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam ra thị trường thế giới đạt ngưỡng 1 tỉ USD Với diễn biến có lợi trong năm 2006. thì việc tăng sản lượng xuất khẩu là điều tất yếu. Trong năm 2007 Việt Nam đã xuất sang EU 602.157 tấn cà phê tăng 26.25 %, đạt 815.000 nghìn USD tăng 38,17% so với năm 2006. giá cà phê cũng đã đạt ngưỡng kỉ lục. Năm 2007 cũng là năm Việt Nam đạt ngưỡng xuất khẩu cà phê trên 1 tỉ USD. Đầu năm 2008 giá cà phê thế giới tăng mức kỉ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXuất khẩu cà phê sang thị trường EU, thực trạng và giải pháp.DOC
Tài liệu liên quan