Lời nói đầu 1
Chương 1: Tổng quan về việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam 3
1. Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với sự phát triển kinh tế 3
1.1. Khái niệm về xuất khẩu 3
1.2. Lợi ích của xuất khẩu 3
1.3. Xuất khẩu với sự phát triển kinh tế 4
1.4. Vai trò của xuất khẩu 5
2. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 6
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu các mặt hàng chủ lực 8
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam 18
1. Khái quát về hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 18
1.1 Kết quả hoạt động xuất khẩu của Việt Nam 18
1.2 Những thành tựu và hạn chế trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa 22
1.2.1 Những thành tựu 22
1. 2.2 Những hạn chế. 23
2. Thực trạng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam 24
2.1 Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực 24
2.2 Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 26
2.3. Cơ cấu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam 33
2.4 Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực 34
3. Đánh giá về việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực trong giai đoạn hiện nay 39
4. Thuận lợi và khó khăn đối với việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 40
4.1 Thuận lợi 40
4.2 Khó khăn và thách thức 40
Chương 3: Giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 43
1. Mục tiêu và phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu của Việt Nam 43
2. Phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu 46
3. Giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng chủ lực 49
3.1. Các giải pháp vi mô 49
3.1.1 Xúc tiến thương mại 50
3.1.2 Lựa chọn kênh phân phối 51
3.1.3 Hoàn thiện công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu 52
3.1.5 Tập trung nâng cao chất lượng hàng hóa 54
3.1.6 Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế 55
3.1.7 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 56
3.2 Các giải pháp vĩ mô 57
KẾT LUẬN 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
64 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2091 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó biến động thì kim ngạch xuất khẩu bị ảnh hưởng.
Thứ hai, nhu cầu của thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, các đơn hàng xuất khẩu dệt may, đồ gỗ, một số nông sản vào Mỹ và EU đều giảm do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu; Trong khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn thì các chi phí đầu vào không giảm, thậm chí còn tăng cao như lương công nhân, lãi suất ngân hàng, khiến nhiều doanh nghiệp dệt may phải chuyển từ sản xuất mua nguyên liệu bán thành phẩm sang gia công để bảo toàn vốn, vì vậy giá trị gia tăng trên sản phẩm dệt may ngày càng thấp là lợi nhuận giảm.
Thứ ba, xuất khẩu vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản; các mặt hàng công nghiệp chế biến chủ yếu vẫn mang tính chất gia công; Các mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, phong phú, số lượng các mặt hàng xuất khẩu mới có kim ngạch lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh chưa nhiều. Xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.
Thứ tư, vẫn chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc.
Thứ năm, việc tiếp cận nguồn vốn vay bằng VNĐ cho sản xuất kinh doanh vẫn còn bất cập, nhất là đối với các mặt hàng nông sản, thuỷ sản, trong khi đó lãi suất cho vay mặc dù đã giảm nhưng vẫn ở mức cao , điều này đã làm chi phí tăng cao ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
2. Thực trạng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam
2.1 Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực
Trong tháng 12/2008, trị giá hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đạt 4,67 tỷ USD, tăng 9,8% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 12, cả nước có 12 nhóm hàng đạt trên 1 tỷ USD, đặc biệt mặt hàng dầu thô đã vượt 10 tỷ USD; có 5 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực vượt kế hoạch năm (gạo, hạt điều, hải sản, hàng giày dép, hàng rau quả). Tuy nhiên, có rất nhiều nhóm hàng có kim ngạch cao đã không thể hoàn thành kế hoạch năm về sản lượng như cà phê, cao su, dầu thô, than đá, chè các loại, hạt tiêu. Và có một số nhóm hàng không hoàn thành kế hoạch năm về kim ngạch như hàng dệt may, máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện, gỗ & sản phẩm gỗ.Uớc tính ba tháng đầu năm 2009, Việt Nam xuất siêu tới 1,647 tỷ USD.Đây là con số kỷ lục từ trước tới nay cho cán cân thương mại Việt Nam.Đó là thống kê mới nhất của Bộ Công Thương ước tính tình hình xuất nhập khẩu tháng 3 và 3 tháng đầu năm nay.Kim ngạch xuất khẩu tháng 3 đạt 4,7 tỷ USD, giảm 2,8% so với cùng kỳ năm 2008. Tính chung trong 3 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 13,479 tỷ USD, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2008.
Trong 35 nhóm hàng hoá được thống kê, chỉ có 9 nhóm hàng hoá xuất khẩu tăng.
Sở dĩ kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 3 tháng tăng nhẹ là do có sự đóng góp tăng kỷ lục của nhóm đá quí và kim loại quí. Kim ngạch tháng 3/2009 của loại hàng hóa này đạt 850 triệu USD, tăng tới 49 lần so với cùng kỳ năm 2008 và chiếm 18% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Tính trong ba tháng đầu năm, nhóm hàng này đã đạt kim ngạch 2,287 tỷ USD, tăng 48 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Sự tăng đột biến này là do việc tái xuất vàng.
Còn lại, xuất khẩu của đa số nhóm hàng hoá đều chững hoặc giảm. Đáng lo ngại nhất là trong 13 mặt hàng chủ lực thuộc “CLB xuất khẩu tỷ USD” của Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu của 12 mặt hàng đều giảm mạnh từ 10-20%, như điện tử và linh kiện máy tính, giày dép, than đá, thuỷ sản, cà phê, nhân điều, sản phẩm chất dẻo Trong đó, so với cùng kỳ năm 2008, dầu thô giảm mạnh nhất với mức giảm 48,6%, kế đến là dây điện và cáp điện giảm 47,3%, cao su giảm 43,9%.
Nguồn: Tổng cục thống kê- 2009
Nhóm hàng dệt may vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch xuất khẩu cả nước thì trong tháng 3, kim ngạch đã giảm 4,2%.
Chỉ có duy nhất mặt hàng gạo trong nhóm hàng chủ lực này là có kim ngạch xuất khẩu tăng. Tháng 3, gạo tăng 23,5% và tính chung 3 tháng, gạo tăng 76,4% so với cùng kỳ 2008.
Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu cả nước vẫn tiếp tục giảm mạnh. Kim ngạch nhập khẩu tháng 3 đạt 4,3 tỷ USD, giảm tới 47% so với cùng kỳ năm 2008. Tính chung 3 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu đạt 11,832 tỷ USD, giảm 45% so với cùng kỳ.
2.2 Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
- Dầu thô
Trong tháng 12/2008 xuất khẩu đạt 1,46 triệu tấn, tăng 35,6% so với tháng trước, nâng tổng lượng dầu thô xuất khẩu cả năm 2008 lên 13,75 triệu tấn, giảm 8,7% so với năm 2007. Mặc dù lượng giảm nhưng do giá bình quân tăng 33,6% nên kim ngạch xuất khẩu dầu thô cả năm 2008 đạt 10,36 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2007.
Tính đến hết tháng 12/2008, lượng dầu thô của Việt Nam chủ yếu xuất sang các thị trường là Ôxtrâylia: 4,16 triệu tấn, giảm 19,6%; Nhật Bản: 2,95 triệu tấn, tăng 72,4%; Singapore: 2,06 triệu tấn, giảm 29,5%; Hoa Kỳ: 1,46 triệu tấn, giảm 1%; Malaysia: 853 triệu tấn, tăng 2,7%; Trung Quốc: 604 triệu tấn, tăng 60,6% so với cùng kỳ 2007.
Cuối tháng 2 năm 2009 thì xuất khẩu trong tháng đạt 1,4 triệu tấn, tăng 1,1% so với tháng 1, nâng tổng lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam 2 tháng đầu năm nay lên 2,79 triệu tấn, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2008. Mặc dù lượng dầu thô xuất khẩu tăng nhưng do giá bình quân giảm mạnh (giảm 54% tương đương với giảm 394 USD/tấn) nên trị giá xuất khẩu dầu thô là 936 triệu USD, giảm 43,6% so với cùng kỳ năm 2008.
Trong 2 tháng đầu năm 2009, lượng dầu thô của Việt Nam chủ yếu xuất sang các thị trường là Singapore: 680 nghìn tấn, Malaysia: 604 nghìn tấn, Ôxtrâylia: 582 nghìn tấn, Nhật Bản: 298 nghìn tấn, Trung Quốc: 222 nghìn tấn,
-Than đá
Tổng lượng than xuất khẩu của Việt Nam cả năm 2008 là 19,35 triệu tấn, giảm 39,4% so với năm 2007 và chỉ thực hiện được 96,8% so với kế hoạch năm. Giá bình quân tăng 129,2% nên kim ngạch xuất khẩu than cả năm 2008 đạt 1,39 tỷ USD tăng 38,8% so với cùng kỳ năm 2007.
Dẫn đầu trong các thị trường nhập khẩu than đá của Việt Nam trong năm 2008 là Trung Quốc với 14,61 triệu tấn, giảm 44,7% so với năm trước và chiếm 75,5% tổng lượng than xuất khẩu của Việt Nam. Tiếp theo là Nhật Bản với 1,93 triệu tấn,giảm 6,9%; Hàn Quốc là 974 nghìn tấn, tăng 25,6%; Philipin là 361 nghìn tấn, giảm 10,3%.
Trong 2 tháng đầu năm 2009, xuất khẩu trong tháng đạt 1,91 triệu tấn, tăng 29,5% so với tháng trước, nâng tổng lượng than xuất khẩu 2 tháng đầu năm nay lên 3,39 triệu tấn, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá xuất khẩu than đá 2 tháng đầu năm 2009 đạt 166,6 triệu USD tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2008.
Dẫn đầu trong các thị trường nhập khẩu than đá của Việt Nam trong 2 tháng qua vẫn là Trung Quốc với lượng và trị giá tương ứng là 2,89 triệu tấn và 116 triệu USD. Riêng xuất khẩu sang thị trường này đã chiếm 85% tổng lượng xuất khẩu than đá của Việt Nam, còn lại 15% xuất sang các thị trường khác như Hàn Quốc: 292 nghìn tấn, Nhật Bản: 116 nghìn tấn, Thái Lan: 64 nghìn tấn,
- Hàng dệt may
Tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này năm 2008 đạt 9,12 tỷ USD, tăng 17,7 % so với cùng kỳ năm trước và thực hiện được 96% kế hoach năm.
Thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam trong năm 2008 là Hoa Kỳ với hơn 5,1 tỷ USD, chiếm gần 56% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước, tiếp theo là Nhật Bản: 820 triệu USD, Đức: 395 triệu USD, Đài Loan: 293 triệu USD,...
Trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng 2/2009 là 563,6 triệu USD, giảm 24,1% so với tháng 1, nâng tổng kim ngạch 2 tháng lên 1,3 tỷ USD, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm.
Hoa Kỳ vẫn là đối tác lớn nhất nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong 2 tháng qua với 700 triệu USD, giảm 4,5%. Tiếp theo là EU với 239 triệu USD, giảm nhẹ (0,5%) so với cùng kỳ năm trước. Trong khi xuất khẩu nhóm hàng này sang 2 thị trường lớn nhất suy giảm thì tại thị trường Nhật Bản, sau khi Hiệp định đối tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản có hiệu lực từ tháng 1/2009, hàng may mặc được miễn thuế nên đã góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này với trị giá 138 triệu USD, tăng 25,1%.
- Giày dép
Tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này năm 2008 lên hơn 4,77 tỷ USD, tăng 19,4% so với năm trước và hoàn thành vượt 6% mức kế hoạch năm.
Hai đối tác lớn nhất nhập khẩu giày dép của Việt Nam trong 12 tháng năm 2008 vẫn là EU và Hoa Kỳ với trị giá và tốc độ tăng tương ứng là 2,51 tỷ USD, tăng 14,8% và 1,08 tỷ USD, tăng 21,5% so với cùng kỳ 2007.
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam 2008
Trị giá giày dép xuất khẩu trong tháng 2/2009 là 294 triệu USD, giảm 18,6% so với tháng trước. Hết tháng 2/2009, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước là 654,7 triệu USD, giảm 7,6% so với cùng kỳ năm.
Tính đến hết tháng 2 năm 2009, hai đối tác lớn nhất nhập khẩu giày dép của Việt Nam vẫn là EU: 324 triệu USD, giảm 18,1% và Hoa Kỳ: 166 triệu USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2008. Các thị trường nhập khẩu khác như: Nhật Bản: 25,1 triệu USD, Mêxicô: 19,5 triệu USD, Trung Quốc: 14,2 triệu USD,
Gạo
Trong tháng xuất khẩu 436 nghìn tấn, tăng 51,5% so với tháng trước, nâng tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 đạt 4,74 triệu tấn, tăng 4% so với năm trước và thực hiện được 105,4% kế hoạch năm. Giá bình quân xuất khẩu gạo cả năm là 610 USD/tấn, tăng 86,7% tương đương với tăng 283 USD/tấn, trị giá cả năm đạt 2,89 tỷ USD tăng 94,3% so với cùng kỳ năm 2007.
Tính đến hết tháng 12 năm 2008, Việt Nam xuất khẩu gạo sang Châu Á là 2,68 triệu tấn, giảm 19,1% so với năm 2007 và chiếm 56,4% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước (trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,69 triệu tấn, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2007, các nước còn lại 986 nghìn tấn, giảm 46,7%); tiếp theo là Châu Phi: 1,18 triệu tấn, tăng 88%; Châu Mỹ: 547 nghìn tấn, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2007,
Tháng 2 năm 2009 xuất khẩu gần 740 nghìn tấn, tăng 143,6% so với tháng trước, nâng tổng lượng gạo xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2009 lên 1,04 triệu tấn tăng 131% so với cùng kỳ năm trước. Do cả yếu tố giá và lượng tăng nên kim ngạch xuất khẩu gạo 2 tháng đầu năm nay đạt gần 470 triệu USD tăng 151% so với 2 tháng năm 2008.
Hết tháng 2 năm 2009, xuất khẩu gạo sang châu Á là 627 nghìn tấn, chiếm 60,1% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam với 382 nghìn tấn, tăng 49,4% so với cùng kỳ năm 2008. Cơ cấu xuất khẩu gạo sang các châu lục theo tỷ trọng so với tổng lượng xuất khẩu của cả nước lần lượt là: châu Á: 60,1%, châu Phi: 25%, châu Mỹ: 6,6%, châu Âu: 5,2%, châu Đại Dương: 3,1%.
- Hải sản
Tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này năm 2008 lên 4,51 tỷ USD, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước và hoàn thành vượt 6,1% kế hoạch năm.
Hết tháng 12/2008, trị giá hải sản xuất khẩu sang EU đạt 1,14 tỷ USD, tiếp theo là Nhật Bản: 830 triệu USD, Hoa Kỳ: 739 triệu USD, Hàn Quốc: 302 triệu USD. Trị giá xuất khẩu mặt hàng này ở các thị trường khác là 1,5 tỷ USD, chiếm 33,3% tổng kim ngạch hải sản xuất khẩu của cả nước.
Trong tháng 2/2009 xuất khẩu gần 232 triệu USD, tăng 7,9% so với tháng 1. Tính đến hết tháng 2/2009, xuất khẩu hải sản của Việt Nam đạt 444 triệu USD, giảm 9,2% so với cùng kỳ năm trước.
Hết tháng 2/2009, trị giá hải sản xuất khẩu sang EU đạt 115 triệu USD, giảm 13,8% so với cùng kỳ năm 2008; tiếp theo là Nhật Bản: 77,9 triệu USD, giảm 9,4%; Hoa Kỳ: 66,7 triệu USD, giảm 2,5%; Hàn Quốc: 32,6 triệu USD, giảm 9,8%. Trị giá xuất khẩu mặt hàng này ở các thị trường khác là 152 triệu USD, giảm 8,1% và chiếm 34,1% tổng kim ngạch hải sản xuất khẩu của cả nước.
-Cà phê
Xuất khẩu trong tháng đạt 173,7 nghìn tấn, tăng 133,8% so với tháng trước, nâng tổng lượng cà phê xuất khẩu năm 2008 lên 1,06 triệu tấn, giảm 13,8% so với năm 2008 và chỉ hoàn thành có 96,3% kế hoạch năm. Trị giá kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 2008 đạt 2,11 tỷ USD, tăng 10,5% so với năm 2007.Thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam là Đức: 136 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 106 nghìn tấn, Tây Ban Nha: 88 nghìn tấn, Ý: 86 nghìn tấn.
Hết tháng 2, tổng lượng cà phê xuất khẩu là 289 nghìn tấn, đạt kim ngạch 444 triệu USD, tăng 11,9% về lượng và giảm 8,7% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Các thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong 2 tháng qua là Bỉ: 52 nghìn tấn, Đức: 35,1 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 27,6 nghìn tấn, Ý: 27,5 nghìn tấn,
Cao su:
Tổng lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 lên 658 nghìn tấn, giảm 7,9% và chỉ hoàn thành có 84,4% kế hoạch năm. Tuy nhiên, do năm 2008 giá bình quân tăng 25% (tương đương với tăng 487 USD/tấn) nên kim ngạch xuất khẩu cao su cả năm đạt hơn 1,6 tỷ USD tăng 15,1% so với năm 2007.
Năm 2008, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam gần 431 nghìn tấn, chiếm tới gần 65,5% khối lượng xuất khẩu cao su của cả nước. Tiếp theo là Hàn Quốc: 29 nghìn tấn, Đức: 24 nghìn tấn, Đài Loan: 21,2 nghìn tấn, Malaysia gần: 21 nghìn tấn,
lượng xuất khẩu cao su tháng 2/2009 đạt 37 nghìn tấn, giảm 4,3% so với tháng trước, nâng tổng lượng cao su xuất khẩu 2 tháng năm 2009 lên 75,7 nghìn tấn, giảm 14,3% so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu cao su bình quân vẫn tiếp tục giảm mạnh trong 2 tháng qua, giảm 41,9% tương đương với giảm 971 USD/tấn so với 2 tháng đầu năm 2008 nên trị giá là 101,8 triệu USD giảm 50,2%.
Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của cao su Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2009 với 52 nghìn tấn, tiếp theo là Hàn Quốc: 4,7 nghìn tấn, Đài Loan: 2,8 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 2,7 nghìn tấn, Malaysia: 2,1 nghìn tấn, Đức: gần 2 nghìn tấn,
Gỗ và sản phẩm gỗ
Tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này năm 2008 lên 2,83 tỷ USD, tăng 17,7 % nhưng chỉ hoàn thành 94,3% kế hoạch năm.
Tính đến hết tháng 12/2008, Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu nhóm mặt hàng này nhiều nhất của Việt Nam với 1,06 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2007. Tiếp theo là thị trường EU: 795 triệu USD, tăng 24%; Nhật Bản: 379 triệu USD, tăng 23,4% ; Đức: 152 triệu USD, tăng 54,7%; Trung Quốc: 141 triệu USD, giảm 13,2%;...
Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện
Trong tháng xuất khẩu gần 158 triệu USD, giảm 39,1% so với tháng trước, nâng kim ngạch xuất khẩu của năm 2008 lên 2,64 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm trước nhưng hoàn thành kế hoạch năm chỉ đạt 75,4%.
Các thị trường chính trong năm 2008 cho sản phẩm này là Thái Lan với 405 triệu US, Nhật Bản: 379 triệu USD, Hoa Kỳ: 305 triệu USD, Trung Quốc: 274 triệu USD, Hà Lan: 206 triệu USD, Singapore: 163 triệu USD,
Hết tháng 2/2009, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này là 315,6 triệu USD, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm trước.
Hoa Kỳ vẫn là thị trường dẫn đầu nhập khẩu mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện của Việt Nam với 54,3 triệu USD. Tiếp theo là Nhật Bản: 51 triệu USD, Thái Lan: 38,5 triệu USD, Hà Lan: 20,3 triệu USD, Trung Quốc: 18,7 triệu USD, Singapore: 16,3 triệu USD, Hồng Kông: 13,5 triệu USD,
Dây điện & dây cáp điện
Tính đến hết tháng 12 năm 2008, xuất khẩu hơn 1 tỷ USD, đây là năm đầu tiên Việt Nam xuất khẩu mặt hàng dây điện & dây cáp điện trên 1 tỷ USD trong cả giai đoạn 2004- 2008. Trong đó, Nhật Bản là thị trường nhập khẩu chủ yếu của nước ta, với 727 triệu USD chiếm 73% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này.
2.3. Cơ cấu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu đã có những chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô. Nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và giá trị xuất khẩu lớn là nhóm hàng công nghiệp và chế biến như: thủy sản, dệt may, giầy dép, hàng điện tử và linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ Nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là cà phê, hạt tiêu, sản phẩm nhựa. Tuy nhiên, nhóm hàng đặt mục tiêu giảm tốc độ tăng trưởng trong năm nay là nhóm hàng nguyên liệu và khoáng sản nhưng thực tế vẫn tăng trưởng.
Tuy nhiên, hoạt động XK vẫn còn nhiều hạn chế: quy mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới (xuất khẩu bình quân đầu người của Xingapo là 60.600 USD/người, Malaixia 5.890 USD/người, Thái Lan 1.860 USD/người, Philipin546 USD/người và Việt Nam 473 USD/người).
Mặt khác, xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài như sự biến động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước ngoài.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý, thể hiện trên cả ba phương diện: Thứ nhất, là chủng loại hàng hóa còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim ngạch đáng kể. Thứ hai, các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng còn thấp, vẫn phụ thuộc vào các mặt hàng: khoáng sản (dầu thô, than đá), nông, lâm, thủy, hải sản; trong khi các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính.. chủ yếu vẫn còn mang tính chất gia công. Thứ ba, quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu còn chậm, cơ cấu hàng xuất khẩu thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng mà chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh, hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Thêm nữa, thị trường xuất khẩu không đồng đều, trong khi thị trường Asean, EU, Mỹ tăng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như Trung Quốc, Nhật Bản và Ôxtrâylia.
2.4 Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực
Theo nhân định của Bộ Công Thương, các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam giai đoạn 2009-2010 vẫn là thị trường Châu Á (Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc), Châu Âu (chủ yếu là EU), Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada) và Châu Đại Dương (Australia).
Bảng 2: MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ YẾU CỦA
VIỆT NAM SANG HOA KỲ
Đơn vị tính: ngàn USD
STT
Mặt hàng
Tháng 1-09
Tháng 12-08
Tỷ lệ % T1-09/ T12-08
Tháng 1-08
Tỷ lệ % T1-09/ T1-08
Tổng cộng đến T1-09
Tỷ lệ % tháng 1-09 /tháng 1-08
1
Dệt may
477.209,00
403.719,00
18,20
410.135,00
16,35
477.209,00
16,35
2
Đồ gỗ
132.537,00
128.886,00
2,83
129.961,00
1,98
132.537,00
1,98
3
Giày dép
146.481,00
106.189,00
37,94
105.867,00
38,36
146.481,00
38,36
4
Thủy sản
59.027,00
66.491,00
-11,23
81.373,00
-27,46
59.027,00
-27,46
5
Dầu khí
86.630,00
64.343,00
34,64
72.884,00
18,86
86.630,00
18,86
6
Nông sản
59.820,00
48.822,00
22,53
59.804,00
0,03
59.820,00
0,03
7
Thiết bị, dụng cụ điện dây điện
36.768,00
31.931,00
15,15
27.875,00
31,90
36.768,00
31,9
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Bộ Thương Mại Hoa Kỳ
Hoa Kỳ - thị trường lớn nhất cho mặt hàng dệt may. Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ năm 2008 đạt 12 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường này năm 2009 sẽ tăng 5,8% và sẽ tăng lên 12% vào năm 2010.
Dự kiến kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đến năm 2010 đạt trên 6 tỷ USD. Mặt hàng giày dép phấn đấu năm 2010 đạt 1,25 tỷ USD; mặt hàng thuỷ sản phấn đấu năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 1,2 tỷ USD; gỗ khoảng 1,3 tỷ USD; kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 250 triệu USD. Các mặt hàng khác như túi xách, ví, va li, ô dù... là những mặt hàng mới và có nhiều tiềm năng xuất khẩu vào Hoa Kỳ, phấn đấu đạt 420 triệu USD vào năm 2010.
EU - thị trường mà Bộ Công Thương đề ra mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 12,1 tỷ USD vào năm 2010. Đối với hàng dệt may, phấn đấu đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu 2,1 tỷ USD. EU là thị trường nhập khẩu giày dép lớn thứ 2 sau Hoa Kỳ, nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây khoảng trên 36 tỷ USD/năm. Phấn đấu đến năm 2010 nước ta đạt được 3 tỷ USD xuất khẩu giày dép vào thị trường này.
Bên cạnh đó, EU là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn trên thế giới, nhập khẩu nhiều nhất philê cá đông lạnh, chủ yếu là cá tuyết, cá tuyết vàng và cá tra, sau đó là tôm đông lạnh và cá ngừ. Hàng năm kim ngạch nhập khẩu của thị trường này vào khoảng 40 tỷ USD. Việt Nam phấn đấu kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này năm 2010 đạt 1,45 tỷ USD.
EU cũng là thị trường tiêu thụ lớn nhất đối với cà phê của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 45% trong xuất khẩu của nước ta. Phấn đấu đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 850 triệu USD. Ngoài ra, sản phẩm gỗ cũng có tiềm năng xuất khẩu vào EU do thị trường này tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới. Đồ gỗ của nước ta đã thâm nhập được vào hầu hết thị trường các nước EU trong đó những nước nhập khẩu chính là Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch. Mục tiêu xuất khẩu mặt hàng này năm 2010 là đạt kim ngạch 900 triệu USD.
ASEAN - thị trường quan trọng với xuất khẩu gạo. Kim ngạch xuất khẩu của ta vào ASEAN có xu hướng tăng chậm, trong khi kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN tương đối nhanh nên nhập siêu từ khu vực này đang có xu hướng tăng mạnh. Các mặt hàng xuất khẩu của ta hiện nay vẫn là dầu thô, một số mặt hàng nông sản, thủy sản, linh kiện điện tử, vi tính và hàng bách hóa trong đó chiếm tỷ trọng cao nhất là gạo và dầu thô.
ASEAN là thị trường quan trọng đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam. Dự kiến đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này đạt 1,6 tỷ USD. Trong khi đó, mục tiêu đối với mặt hàng cà phê là 180 triệu USD, với thủy sản là 320 triệu USD và hàng dệt may là 360 triệu USD. Với mặt hàng điện tử và linh kiện, chủ yếu do các công ty liên doanh tại Việt Nam xuất khẩu sagn các nước Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, và phấn đấu đạt 2,6 tỷ USD vào năm 2010.
Nhật Bản - khoảng 92% hàng hóa sẽ được miễn thuế trong vòng 10 năm. Nhật Bản hiện là thị trường xuất khẩu nhiều mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam, ngoài dầu thô, khoáng sản thì các mặt hàng thủy sản, dệt may, đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ, các mặt hàng chế tạo của Việt Nam đang được người Nhật ngày càng ưa chuộng.
Theo Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản về Đối tác kinh tế (VJEPA), trong vòng 10 năm, khoảng 92% hàng hóa sẽ được miễn thuế khi vào thị trường của mỗi bên. Hàng nông sản, may mặc và thủy sản của Việt Nam sẽ được miễn thuế khi vào thị trường Nhật Bản. Ngược lại hàng công nghiệp, gồm cả phụ tùng ôtô và sản phẩm điện tử của Nhật khi vào Việt Nam sẽ được miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu. Do vậy, việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Nhật Bản giai đoạn 2009-2010 sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn.
Trung Quốc - cơ hội mới cho hàng nông sản và hải sản. Giai đoạn 2009-2010 tình hình kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trưởng cao, kéo theo nhu cầu nhập khẩu các nhóm hàng nguyên nhiêu liệu như cao su, than đá và đặc biệt là dầu thô.
Theo nhận định của Bộ Công thương, nếu triệt để tận dụng cơ hội thì các mặt hàng nông sản và hải sản của Việt Nam có khả năng tăng khá do tác động của việc thực hiện chương trình thu hoạch sớm giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Mục tiêu xuất khẩu vào Trung Quốc đến năm 2010 đạt 6 tỷ USD.
Nguồn: Tổng cục thống kê- 2008
Việc thực hiện đầy đủ các cam kết theo Hiệp định thuế quan có hiệu lực chung cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (CEPT/AFTA) và việc Việt Nam gia nhập WTO Đã và đang tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước trên thế giới
Theo thống kê, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đang tăng trưởng nhanh ở các thị trường Châu Á (40%),Châu Phi và Tây Nam Á (33%), nhưng tăng chậm lại đối với Châu Mỹ (23%), Châu Âu (13%) và Châu Đại Dương (khoảng 11,6%), chủ yếu do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng thị trường nhà đất tại Mỹ và kinh tế Châu Âu đi xuống.
3. Đánh giá về việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực trong giai đoạn hiện nay
Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đã có dấu hiệu nhích lên so với tháng 1/2009, ước đạt trên 1,6 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu từ đầu năm đến hết trung tuần tháng 2 ước đạt 5,365 tỷ USD, thấp hơn gần 5% so với cùng kỳ năm 2008, do kim ngạch xuất khẩu tháng 1 đã đạt quá thấp.
Điểm đáng lưu ý nhất trong tháng 2 là xuất khẩu gạo đang đạt tiến độ rất tốt, lượng và kim ngạch xuất khẩu đều đạt mức cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2008. Riêng trong 10 ngày đầu tháng 2, lượng gạo xuất khẩu đã đạt trên 280 ngàn tấn, kim ngạch 124 triệu USD (gần bằng xuất khẩu trong cả tháng 1-2009), đưa lượng gạo xuất khẩu tính từ đầu năm đến nay đạt gần 600 ngàn tấn, kim ngạch đạt trên 220 triệu USD, tăng hơn gấp 3 lần về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2008. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giữ được tiến độ xuất khẩu tốt hơn so với cuối năm 2008.
Do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, thị trường xuất khẩu của Việt Nam đang bị đe doạ thu hẹp mạnh. Vì vậy, thời gian tới, hàng hoá của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khốc liệt hơn với hàng hoá cùng chủng loại của các nước châu Á, như mặt hàng nông sản, thuỷ sản, dệt may, giầy dép, điện tử trong bối cảnh nhu cầu nhập khẩu tại các thị trường chủ lực có xu hướng giảm.
Thuận lợi về giá sẽ không còn, giá hàng hoá tiếp tục đứng ở mức thấp do nhu cầu nhập khẩu tại các thị trường giảm, nền kinh tế thế giới suy thoái cũng sẽ làm cho giá hàng hoá khó có thể tăng trong năm tới.
Hơn nữa, năng lực sản xuất nhiều mặt hàng nông sản, khoáng sản của Việt Nam đã đến ngưỡng, khó có khả năng tăng trưởng cao nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1969.doc