MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Phần 1: Xuất khẩu và các yếu tố tác động
1.1 Vai trò của xuất khẩu
1.1.1Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
1.1.2 Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp
1.2 Mục tiêu và nhiệm vụ của xuất khẩu
1.2.1 Mục tiêu của xuất khẩu
1.2.2 Nhiệm vụ của xuất khẩu
1.3 Nội dung và các hình thức xuất khẩu
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
Phần 2: Xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
2.1 Đánh giá chung về ngành dệt may trong nền KTQD
2.1.1 Vai trò của ngành dệt may trong nền KTQD
2.1.2 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu
2.2 Thực trạng xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
2.3 Những ách tắc cần tháo gỡ để phát triển hàng dệt may xuất
khẩu của Việt Nam
Phần 3: Một số giải pháp thúc đẩy dệt may Việt Nam
1.1 Giải pháp từ phía Nhà nước
1.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp
1.3 Một số kiến nghị
Kết luận
Tài liệu tham khảo
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3424 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nghệ ) mặt khác còn tác động trực tiếp mạnh mẽ đến hoạt đông xuất khẩu.
Chính sách tỷ giá hối đoái: Đây là công cụ hữu hiệu của nhà nước để quản lý xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm làm cho giá cả của hàng xuất khẩu trở lên rẻ hay đắt một cách tương đối. Sự thay đổi đó có thể tạo ra biến động về nhu cầu của hàng hoá xuất khẩu. Nhưng một chính sách tỷ giá hối đoái ổn định luôn là điều mà bất kỳ doanh nghiệp xuất khẩu nào cũng mong đợi.
Chính sách tiền tệ và quản lý ngoại tệ: Quản lý ngoại tệ khiến cho việc thanh toán các hợp đồng kinh doanh xuất khẩu trở nên khó khăn do đối tác không đủ lượng ngoại tệ do sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Trong khi đó, chính sách tiền tệ là công cụ nhà nước quản lý lạm phát hay tác động đến tỷ giá hối đoái. Chính sách đó có thể khuyến khích hay hạn chế nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Hệ thống pháp luật: ở mỗi quốc gia quy định khác nhau về các mặt hàng được phép hay không được phép xuất nhập khẩu qua biên giới của mình. Cùng với đó là các quy định về mức thuế, hạng nghạch cho từng nhóm hàng. Thuế nhập khẩu là nhân tố tác động mạnh đến hoạt động xuất khẩu, các nước nhập khẩu dùng nó để bảo hộ cho nền sản xuất nội địa và làm tăng giá cả sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp. Hạn ngạch tuy không làm tăng giá cả nhưng hạn chế về quy mô, số lượng sản phẩm được phép xuất khẩu.
Hệ thống các chính sách ưu đãi : đây là chính sách mà doanh nghiệp cần triệt để lợi dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Do mỗi quốc gia trong các giai đoạn khác nhau có chiến lược, sách lược khác nhau để đạt được mục tiêu cho chiến lược xuất khẩu. Do vậy, họ thường xây dựng nhiều chính sách ưu đãi. Đỗi với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu, đó có thể là việc giảm thuế, miễn thuế hay biện pháp hỗ trợ xuất khẩu…Doanh nghiệp có thể hưởng ưu đãi do các hiệp định thương mại, quy chế đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) đối với quốc gia mình để có được mức thuế ưu đãi gia tăng hạn ngạch xuất khẩu.
Hệ thống các chính sách, pháp luật của mỗi quốc gia luôn thay đổi, buộc các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu cần phải có những điều chỉnh linh hoạt và hợp lý để thích ứng kịp đối với quy định mới ở những thị trường đã, đang và sẽ tiến hành hoạt động xuất khẩu.
Đối thủ cạnh tranh.
Hoạt động xuất khẩu chính là việc doanh nghiệp phải cạnh tranh để tiêu thụ hàng hoá ở thị trường nước ngoài. Trong bối cảnh hiện nay, khi các quốc gia đang đẩy mạnh tiến trình hội nhập và phát triển. Sự cạnh tranh đó là tất yếu, nó đảm bảo cho doanh nghiệp chỗ đứng trên thị trường quốc tế, giúp doanh nghiệp nâng cao hình ảnh của mình. Việc nắm rõ về đối thủ cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu doanh nghiệp có thể lựa chọn chiến lược kinh doanh, chiên lược cạnh tranh có hiệu quả nhất.
Vị trí địa lý, khí hậu.
Trong hoạt động xuất khẩu, hàng hoá thương chuyển qua các quốc gia, do vậy khoảng cách giữa các quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu,ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển, lựa chọn hình thức vận chuyển. Những vấn đề nay thường được quy định rõ trong các hợp đồng xuất khẩu. Còn điều kiện khí khác biệt giữa các quốc gia lại tác động đến hoạt động bảo quản hay ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ, chủ yếu là đối với sản phẩm sản xuất và tiêu thụ theo vụ mùa như nông sản.
1.4.2 Nhân tố chủ quan.
Tiềm lực tài chính.
Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp cũng như bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh khác đều cần có vốn. Khi xem xét nhân tố nay, cần phải chú ý đến các chỉ tiêu về quy mô vốn và khả năng thanh toán. Quy mô vốn của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô khả năng sản xuất hàng hoá tức là tác động đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Dựa trên quy mô vốn của mình, doanh nghiệp lựa chọn đoạn thị trường mà doanh nghiệp dự định kinh doanh xuất khẩu. Còn đối với phía nước ngoài, các chỉ tiêu về khả năng thanh toán là cơ sở để họ lựa chọn bạn hàng để ký kết hợp đồng.
Nguồn lao động, máy móc thiết bị và công nghệ.
Đây là các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sản xuất của doanh nghiệp và quyết định đến chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là tiêu chí hàng đầu trong việc cạnh tranh với các sản phẩm khác ở thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp quản lý và sử dụng hợp lý lao động, máy móc, thiết bị thì chất lượng sản phẩm sẽ được nâng cao, qua đó làm tăng hiệu quả hoạt động xuất khẩu.
Quản lý chi phí và chính sách giá.
Quản lý chi phí và chính sách giá là các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới xuất khẩu. Việc quản lý chi phí tốt sẽ dẫn tới việc giá thành sản phẩm hạ, và do đó giá cả hàng hoá giảm. Giá cả hàng hóa cũng là một yếu tố cạnh tranh của sản phẩm. Sản phẩm cá chất lượng tốt, đảm bảo thì giá cả thấp là một lợi thế để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Khách hàng sẽ chấp nhận sản phẩm với giá cả thấp và hàng hoá của doanh nghiệp thâm nhập thị trường nước ngoài dễ ràng hơn.
Trình độ quản lý.
Trình độ quản lý của doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng đến xuất khẩu. Một doanh nghiệp xuất khẩu có trình độ quản lý tốt sẽ là một đảm bảo cho chất lượng sản phẩm, tạo cho khách hàng một sự đảm bảo và tin cậy giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp được thị trường nước ngoài chấp nhận, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp.
Uy tín và hình ảnh doanh nghiệp trên trường quốc tế.
Đây là một trong những lợi thế vô hình mà doanh nghiệp không thể lượng hoá hết. Doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp có thể được thị trường trong và ngoài nước biết đến và chấp nhận hay không phụ thuộc vào các yếu tố này. Nhiều sản phẩm có thể tiêu thụ mạnh tại thị trường nội địa nhưng khi xuất khẩu sang thị trường nước ngoài lại không tiêu thụ được mặc dù giá cả rẻ, chất lượng cao. Đó là do tên tuổi, nhãn hiệu sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp còn quá xa lạ với người tiêu dùng nước ngoài, tạo cho họ sự lưỡng lự khi lựa chọn tiêu dùng hàng hoá của doanh nghiệp.Khi doanh nghiệp đã xây dựng cho mình một hình ảnh, tên tuổi trên thị trường thế giới chính là tạo ra cho khách hàng và đối tác kinh doanh khác một sự đảm bảo tin cậy. Nhờ vậy sản phẩm của doanh nghiệp dễ dàng được thị trường nước ngoài chấp nhận, dễ dàng tiêu thụ hơn và có khả năng cạnh tranh cao hơn so với sản phẩm chủa doanh nghiệp khác.
Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, doanh nghiệp chỉ có thể kiểm soát một phần. Do vậy, việc dự báo các ảnh hưởng của chúng là hết sức khó khăn. Mỗi doanh nghiệp cần phải nắm rõ từng nhân tố để phát huy những tác động tích cực, hạn chế mặt tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu của mình.
Phần 2 : xuất khẩu của ngành dệt may việt nam
2.1.Đánh giá chung về ngành dệt may trong nền kinh tế quốc dân
2.1.1.Vai trò của ngành dệt may trong nền kinh tế quốc dân
2.1.1.1 Dệt may-Ngành xuất khẩu trọng yếu của Việt Nam
Dệt may được đánh giá là ngành kinh tế có tiềm năng của Việt Nam với truyền thống lâu năm về sản xuất hàng dệt, may mặc, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, có thể cung cấp đủ nguyên vật liệu cho cả dệt và may theo hướng công nghiệp và đặc biệt là nguồn nhân lực dồi dào, rẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ mới cao. Có thể nói ,dệt may là ngành truyền thống có thế mạnh của nước ta. Tổng sản lượng của ngành thường chiếm một tỷ trọng rất cao trong giá trị sản lượng công nghiệp toàn ngành. Sau khi thoát khỏi khủng hoảng thị trường năm 1988-1992, nhiều năm liền ngành dệt may luôn dẫn đầu về tổng giá trị xuất khẩu. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may là 1,9 tỷ USD(đứng thứ hai sau dầu thô) chiếm 14,8% trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Dệt may cùng với tám mặt hàng khác đã chiếm 82% tổng kim ngạch xuất khẩu, góp phần tăng mức độ tập trung, phát triển theo chiều sâu trong sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Bên cạnh các thị trường truyền thống quen thuộc, dệt may Việt Nam đang dần vươn tới và xâm chiếm các thị trường hứa hẹn mới như :Hoa Kỳ, Canada, Australia, Thụy Sỹ, Bỉ, Nauy, Hà Lan…Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang hơn 40 nước trên thế giới. Từ nay đến năm 2010, số nước nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam sẽ tăng rất nhiều, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Theo mục tiêu của Tổng công ty dệt may Việt Nam đặt ra, đến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu của ngành là 4 tỷ USD và đến năm 2010 là 8 tỷ USD(1) Thời báo kinh tế Việt Nam số 96, 10/8/2001
. Đây là một chỉ tiêu đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của toàn ngành nhưng hoàn toàn tương xứng với sự đầu tư và trông đợi của Nhà nước.
2.1.1.2 Lĩnh vực thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước
Không chỉ có vậy, với tốc độ phát triển nhanh chóng 22% năm (từ năm 1990 đến năm 1997) cùng với đòi hỏi không đòi hỏi vốn lớn, khả năng thu hồi vốn nhanh, lợi nhuận cao, xuất khẩu và sản xuất hàng dệt may xuất khẩu là một lĩnh vực thu hút được rất nhiều vốn đầu tư nước ngoài, trong nước cũng như vốn ngân sách và vốn tư nhân. Năm 2000, có đến 165 dự án dệt may có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có 98 dự án đã đi vào hoạt động và ngoài ra có rất nhiều xí nghiệp cũ được nâng cấp và mở rộng quy mô. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc đổi mới may móc thiết bị, nâng cao hiệu quả vào chất lượng dản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế.
2.1.1.3 Góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội của đất nước.
1,6 triệu đó chính là số người hiện nay đang lao động trong nhành dệt may với thu nhập bình quân là 1.120.000 đồng/tháng(thu nhập ở miền Bắc thấp hơn từ 100.000đến 200.000 đồng). Trong đó, 1 triệu người lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh, còn lai là trong doanh nghiệp tư nhân và liên doanh. Con số 1,6 triệu này sẽ được nhân đôi vào năm 2005 và đến năm 2010 sẽ có tất cả là 4 triệu người lao động trong ngành. Bên cạnh đó dệt may xuất khẩu còn tạo rất nhiều công ăn việc làm cho hàng loạt các ngành hữu quan như : vận tải, bảo hiểm, tín dụng, trồng bông , nuôi tằm…Điều đó, đồng nghĩa với việc nhiều lao động dư thừa, nhàn rỗi ở nông thôn sẽ được sử dụng với thu nhập ổn định hơn. Đây chính là một đóng góp thiết thực của ngành trong việc giảm áp lực về việc làm, từng bước chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo định hướng nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động trong ngành nói riêng và người Việt Nam nói chung.
2.1.2 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu
Việt Nam nằm ở vị trí thuận lợi cho hoạt động giao dịch thương mại quốc tế nói chung và buôn bán hàng dệt may nói riêng. Có hơn 1300 km bờ biển và nhiều cảng nước sâu, nằm trong một tổng thể quy hoạch đường bộ, đường sắt xuyên á của ADB giúp các doanh nghiệp Việt Nam giảm chi phí vận chuyển hàng hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, cần mẫn, sáng tạo phù hợp với ngành dệt may, giá nhân công rẻ là những nhân tố hấp dẫn thu hút được nhiều hợp đồng gia công may mặc cũng như tiếp nhận sự chuyển dịch ngành dệt may từ các nước phát triển và các nước NICs. Tuy vậy, giá lao động rẻ chỉ là lợi thế nhất thời, không ổn định trong cạnh tranh. Khi khoa học kỹ thuật phát triển cao thì nhân công rẻ mạt không còn là yếu tố hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài nữa.
Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mưa nhiều là lợi thế để phát triển nghề trồng bông, trồng đay. Nhờ vậy, ngành dệt may nước ta có ưu thế lớn về nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định và rẻ. Điều này góp phần không nhỏ vào nỗ lực giảm giá thành sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên trường quốc tế.
Ngành dệt may với đặc điểm với có hàm lượng lao động lớn, yêu cầu về công nghệ không quá hiện đại và có tỷ lệ hàng xuất khẩu lớn được đánh giá là có tính phù hợp cao trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ ngành công nghiệp mới này như miễn thuế nhập khẩu với các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, quy định mức thuế 0% để được hoàn thuế đối với các mặt hàng xuất khẩu. Nhà nước cũng thực hiện cho vay ưu đãi đối với một số doanh nghiệp dệt may để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh.
Mặc dù có nhiều lợi thế song do hạn chế về kỹ thuật, thông tin thị trường, trình độ tay nghề của lao động nên cho đến nay các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn chưa có chỗ đứng ổn định trên thị trường. Về cơ bản, hàng dệt may xuất khẩu của ta mới chỉ có khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng bình thường nên giá trị xuất khẩu chưa cao.
2.2 Thực trạng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam
Ngành dệt may nước ta phát triển đã lâu nhưng chỉ từ thập niên 90 trở lại đây, nó mới thực sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và hoạt động thương mại nói riêng. Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta không ngừng tăng.” Năm 1991, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt 158 triêu USD, đến năm 1998 đã gấp 9,18 lần, đạt 1450 triệu. Bên cạnh đó tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta luôn tăng, từ 7,6% năm 1991 lên 15% năm 1998”(1) Tạp chí kinh tế và phát triển số 33/99, trang 20
. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may là 2,15 tỷ USD, tăng 13% so với năm trước(2) Báo nhân dân số 16954, 17/12/2001
. Đến nay hàng dệt may đứng thứ hai (sau dầu thô) trong số 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong 10 năm qua thể hiện trong biểu đồ sau :
(Nguồn :tạp chí kinh tế và phát triển số 33/99)
Mặc dù hàng dệt may Việt Nam là một mặt hàng xuất khẩu trong yếu nhưng so với các nước trong khu vực và với tiềm năng của nó thì kim ngạch đạt được còn khiêm tốn. Năm 1994, riêng Trung Quốc cũng đã xuất khẩu được 15 tỷ USD hàng dệt may, ấn Độ là 9,5 tỷ USD và Thái Lan là 4,2 tỷ USD.
Thị trường xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam khá đa dạng, trong đó hai thị trường lớn nhất là thị trường EU và thị trường Nhật Bản. Bên cạnh đó là thị trường Bắc Mỹ, thị trường SNG và Đông Âu,,.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang một số thị trường chính:
Đơn vị: Triệu USD
1994
1995
1996
1997
1998
EU
285,50
350,44
420,52
450,55
563,68
Nhật
261,80
352,30
441,90
501,60
300,00
LB Nga
48,77
44,69
45,83
46,40
59,34
Mỹ
2,56
16,87
23,60
25,928
26,40
( Nguồn: Vietnam INFOR, VCCI, 1999)
Hiện nay, phần lớn hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường có hạn ngạch như EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada…trong đó EU là thị trường trọng điểm. Với 360 triệu dân có mức tiêu dùng vải cao hàng đầu thế giới,(17kg/người/năm) đây là một thị trường tốt để Việt Nam đầu tư khai thác. Kể từ khi hiệp định thương mại về hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết ngay 15/12/1992, ngành may mặc của Việt Nam đã bước vào giai đoạn phát triển mới, tăng trưởng nhanh chóng và đầy hứa hẹn. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm từ 1993 đến 1997 là 23%. Năm 1997, chúng ta xuất khẩu sang Eu hơn 450 triệu USD quần áo các loại. Bước sang giai đoạn hai, nhờ một số thay đổi trong hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam-EU(1998-2000) mà ngành may mặc nước ta có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường sang EU. Theo hiệp định này, Việt Nam được phép tự do chuyển đổi Quata giữa các mặt hàng một cách rộng rãi hơn (17% so với 12% trước đây).Thêm vào đó, Việt Nam còn được hưởng quy chế tối hệ quốc(MFN) và quy chế ưu đãi phổ cập(GSP) của EU(Với tư cách là một nước đang phát triển, đồng thời Việt Nam được phép tận dụng các hạn ngạch dư thừa của các nước trong khối ASEAN. Như vậy, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được hưởng thuế nhập khẩu là 0%. Tuy nhiên, những thay đổi đó chưa đủ mạnh làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, thậm trí trong 2 năm 1999,2000 sự tăng trưởng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường này còn bị âm. Trong các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam sang EU hiện nay, các doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào một số sản phẩm dễ làm như jacket 2 hoặc 3 lớp, sơ mi nam, sơ mi nữ, quần âu còn các sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao thì rất ít doanh nghiệp thực hiện được. Trong khi đó EU là một thị trường rất nhạy cảm về thời trang, 85% đến 90% quần áo nhập vào thị trường này là theo mốt. Chính vì vậy, mặc dù số lượng hạn ngạch bị hạn chế nhưng vẫn nhiều mặt hàng bị bỏ trống vì không có doanh nghiệp tham gia. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chỉ mới tận dụng được 40% năng lực sản xuất của mình, còn lại 60% buộc phải xuất khẩu thông qua các nước thứ ba để vào thị trường này. Và tất nhiên những lô hàng này không được hưởng ưu đãi thuế quan. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do số lượng hạn ngạch của ta được hưởng còn thấp so với nhiều nước : chỉ bằng 5% của Trung Quốc và 10-20% của các nước ASEAN. Đồng thời số lượng mặt hàng bị hạn chế bằng hạn ngạch cũng rất lớn: của Việt Nam là 28 nhóm, trong khi đó của Thái Lan là 20 nhóm và Singapo là 8 nhóm(1) Tạp chí kinh tế và phát triển số 41 - 11/2000 trang 43
.Bên cạnh đó, việc phân phối hạn ngạch trong tổng công ty dệt may còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng doanh ngiệp thì thiếu, doanh nghiệp thì bỏ khê hạn ngạch. Điều này thực sự làm nản lòng các doanh nghiệp buộc họ phải xoay sang các thị trường không hạn ngạch khác cho dù lợi nhuận thấp.
Trên các thị trường không hạn ngạch của Việt Nam hiện nay, Nhật Bản là thị trường lớn nhất, không chỉ có lượng dân cư đông đúc hơn 125 triệu dân mà Nhật Bản còn là nước có mức tiêu thụ sản phẩm may mặc rất cao (27kg/người/năm). Năm 1997, Việt Nam đứng hàng thứ 7 trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản với thị phần hàng dệt thoi là 3,6% và dệt kim là 2,3%, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 501,6 triệu USD lớn hơn kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU . Tuy vậy, Việt Nam mới chỉ đáp ứng được nhu cầu bình thường của người Nhật Bản với các mặt hàng chủ yếu là áo gió nam, quần áo lao động và một số loại sơ mi, quần âu đơn giản. Năm 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, sức mua của thị trường Nhật Bản giảm mạnh khiến cho kim ngạch xuất khẩu của hàng may mặc của Việt Nam vào Nhật Bản giảm 180,6 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trương Nhật Bản chỉ đạt 321 triệu USD. Rất may cơn khủng hoảng nhanh chóng qua đi, trị trường Nhật Bản đang dần phục hồi sức mua của nó. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này tăng đến 620 triệu USD, đứng hàng thứ 5 về số lượng và giá trị xuất khẩu(1) Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 13/2001, trang 15
.Mặc dù ở thị trường Nhật Bản hàng may mặc của Việt Nam đang có uy tín, nhưng đây lại là một thị trường rất khó tính đòi hỏi các doanh nghiệp phải chính xác, cẩn thận, chu đáo hơn nữa để duy trì tín nhiệm của bạn hàng. Đã có một số doanh nghiệp xuất khẩu của ta bị trả lại hàng hoặc huỷ bỏ hợp đồng vì bao bì nhãn mác…không phù hợp, không đảm bảo. Điều này không chỉ gây thiệt hại trước mắt mà còn dẫn đến tình trạng “con sâu làm rầu nồi canh” của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sang Nhật Bản. Gần đây, để hạn chế sự gia tăng về số lượng và nâng cao chất lượng của hàng may mặc Việt Nam, các doanh nghiệp Nhật Bản đang đề nghị chính phủ Nhật Bản áp dụng chế độ hạn ngạch đối với hàng may mặc Việt Nam. Nếu đề nghị này được chấp nhận thì đây sẽ là một bất lợi lớn đối với hàng may mặc Việt Nam trong tương lai.
Mỹ là một thị trường nhập khẩu không hạn ngạch có tiềm năng lớn thứ hai của Việt Nam. Chỉ bằng 2/3 dân số EU nhưng mức tiêu thụ vải (27kg/người/năm) của người Mỹ gấp 1,5 lần EU. Đây là thị trường không chỉ hấp dẫn đối với ngành dệt may Việt Nam mà hầu hết các doanh nghiệp dệt may trên thế giới đều có mong muốn trở thành bạn hàng với Mỹ(2) Tạp chí kinh tế phát triển số 33/99, trang 21.
. Hiện nay Mỹ chưa cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc và chế độ ưu đãi phổ cập nên hàng xuất khẩu của ta sang Mỹ đang phải chịu nhiều loại thuế cao làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam vốn đã yếu lại càng yếu hơn. Thực tế trong thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ cũng
rất nhỏ bé, chỉ chiếm 0,06% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết 7/2000 và vừa được hai viện của Mỹ thông qua tháng 10/2001 sẽ mở ra một cơ hội lớn cho ngành dệt may Việt Nam. Trong khi chờ tổng thống G.Buss phê chuẩn hiệp định này thì nhiều doanh nghiệp của ta đã hoàn thành xong công việc thăm dò, khảo sát thị trường Mỹ, sẵn sàng chờ hiệu lệnh khai trương. Khi đó, thuế xuất hàng dệt may sang Mỹ của Việt Nam sẽ được giảm từ 45-75% như hiện nay xuống còn 0 - 5%.
Năm 1999,ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ đạt 43 triệu USD.Nhưng đến năm 2000, tuy hàng dệt may Việt Nam bán vào thị trường Mỹ vẫn bị đánh thuế nhập khẩu cao hơn 2- 3 lần so với hàng của các nước khác nhưng vẫn đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 60 triệu USD; trong đó, 19 triệu USD là của Vinatex. Với những con số đã thực hiện khả quan này và một khi thuế nhập khẩu giảm xuống,ngành dệt may có thể đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 300 triệu USD vào thị trường Mỹ trong năm 2001.Ông Lê Quốc Ân , Chủ tịch Hiệp Hội Dệt may còn tin tưởng rằng, trong vòng 3- 4 năm kể từ khi hai nước trao nhau quy chế thương mại bình thường(NTR), ngành dệt may hoàn toàn có thể đạt kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ 1 tỷ USD(1) Báo quân đội nhân dân, số 14252, 28 /1/ 2001
.
Tuy nhiên, cái mà thị trường cần ta lại không có, thị trường Mỹ ưa nhập khẩu hàng dệt may theo hình thức F.O.B (mua đứt bán đoạn) trong khi các doanh nghiệp Việt Nam lại chủ yếu thực hiện hàng gia công nên sẽ rất khó khăn để thâm nhập vào thị trường Mỹ. Thêm vào đó, kinh tế Mỹ còn ẩn chứa nhiều nhân tố khó lường, Việt Nam chân ướt chân ráo bước vào trong khi việc phân chia thị phần của nước này đã được định hình, rất khó có chỗ trống cho dệt may Việt Nam len chân vào. Để làm ăn với Mỹ có hiệu quả nhất định phải am hiểu luật pháp Mỹ và hải có khả năng dự báo chính xác những biến động phức tạp trên thị trường này.
Thị trường Liên Bang Nga được coi là thị trường truyền thống trước kia của hàng Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng. Những biến động chính trị kinh tế_xã hội ở Liên Xô cũ năm 1991_1992 đã làm xuất khẩu của Việt Nam sang Liên Bang Nga suy giảm mạnh, trong đó có xuất khẩu hàng dệt may. Những năm gần đây với sự nỗ lực của chính phủ cùng các doanh nghiệp, thị trường truyền thống này cũng dần được khôi phục trở thành một trong mười thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga vào các năm 1997, 1998 là 46,4 triệu, 59,34 triệu USD(1) Những vấn đề kinh tế thế giới số 3 (65) 2000, trang 59
. Đặc biệt sau chuyến đi thăm Liên Bang Nga của Chủ tịch nước Trần Đức Lương ngày 24-29/8/1998 đã mở ra những triển vọng mới trong phát triển quan hệ buôn bán hàng dệt may giữa hai nước. Song bên cạnh đó các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc sang Nga vẫn phải đương đầu với nhiều thách thức. Sức mua và nhu cầu trên thị trường Nga đã có những thay đổi về căn bản. Trước đây thị trường này được coi là khá dễ tính, hiện nay chất lượng cũng như hình thức ở thị trường này đòi hỏi phải ở mức cao, còn hàng phẩm cấp trung bình chỉ được tiêu thụ ở nông thôn với giá thấp. ở thị trường này, tuy Việt Nam chưa thiết lập được các khách hàng lớn song nhờ mạng lưới bán lẻ rộng khắp (chủ yếu là do cộng đồng người Việt tại Nga thiết lập) nên hàng Việt Nam cũng được tiêu thụ khá rộng rãi. Thời gian gần đây, mạng lưới này đang dần bị vô hiệu hoá do các cơ sở này chuyển sang tiêu thụ cho hàng hoá Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ với một lý do đơn giản là hàng các nước này rẻ hơn, phong phú, đa dạng hơn. Thêm một điều bất lợi cho hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu trên thị trường này là: quy định thuế của Liên Bang Nga xếp Việt Nam cùng hàng với các nươc trình độ sản xuất hàng may mặc cao như Trung Quốc, Singapore, Thái Lan...Vấn đề khó khăn trong thanh toán thương mại giữa hai nước vẫn chưa được giải quyết, tỷ giá đồng Rúp biến động mạnh đã làm ảnh hưởng nặng đến xuất khẩu, rủi ro thanh toán cao. Chính vì vậy vai trò của các phòng đại diện thương mại Việt Nam trên đất nước Liên Bang Nga trở nên cần thiết, quan trọng hơn bao giờ hết. Về lâu dài, thị trường Liên Bang Nga vẫn là một thị trường rộng lớn, quen thuộc của các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt khi quan hệ hợp tác giữa hai nước trở nên khăng khít như hiện nay, thì thị trường hàng may mặc xuất khẩu sang thị trường này sẽ mang lại rất nhiều hứa hẹn. Tuy nhiên, để biến những hứa hẹn đó trở thành hiện thực thì nhà nước và các doanh nghiệp vẫn cần có những bước đi thích hợp để tháo gỡ các khó khăn, thử thách đang đặt ra hiện nay.
2.3 Những ách tắc cần tháo gỡ để phát triển hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế,ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang còn tồn tại một số bất cập :
Thiếu thông tin và thiếu hợp tác trong đầu tư, sản xuất và phân công thị trường dẫn đến nhiều mặt hàng sản xuất trùng lặp gây ứ đọng, trong khi đó nhiều mặt hàng còn bỏ ngỏ cho nước ngoài xâm nhập.
Sự phát triển khập khiễng giữa ngành dệt và ngành may kìm hãm sự phát triển của ngành may nói riêng và ngành dệt may nói chung. Hàng năm, để đảm bảo hoạt động xuất khẩu ngành may phải nhập khẩu khoảng 80% nguyên phụ liệu mà chủ yếu là vải vóc và gần 60% kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may là để chi trả cho hoạt động này. Thật là vô lý khi chúng ta mua nguyên phụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 310dxc.doc