MỤC LỤC
Phần mở đầu.
Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu trong thương mại quốc tế.
I. Thương mại quốc tế.
1. Lý thuyết thương mại quốc tế.
2. Đặc trưng của thương mại quốc tế.
II. Xuất khẩu hàng hoá và vai trò của xuất khẩu hàng hoá.
1. Khái niệm xuất khẩu.
2. Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu.
3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
III. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
IV. Nội dung của hoạt động xuất khẩu.
V. Những nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam trong thời gian qua.
I. Kim ngạch xuất khẩu.
II. Thị trường xuất khẩu.
III. Mặt hàng xuất khẩu.
IV. Tình hình xuất khẩu giầy dép của tổng công ty da giầy Việt Nam.
V. Đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu giầy dép của Việt Nam trong thời gian qua.
1. Những kết quả đạt được.
2. Những hạn chế và nguyên nhân.
Chương III: Triển vọng xuất khẩu và một số biện pháp nhằm thúc đầy hoạt động xuất khẩu giầy dép của Việt Nam.
I. Định hướng phát triển.
II. Dự báo về xuất khẩu giầy dép trong những năm tới của nước ta.
1. Dự báo về thị trường.
2. Dự báo về nhu cầu giầy dép xuất khẩu.
III. Một số biện pháp thúc đầy hoạt động xuất khẩu giầy dép của Việt Nam.
1. Về phía doanh nghiệp.
2. Về phía nhà nước.
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.
46 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2155 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu giầy dép Việt Nam-Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu hay nhập khẩu từ một thị trường trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép. Hạn ngạch nhập khẩu của một nước sẽ ảnh hưởng đến số lượng hàng hoá xuất khẩu của nước khác.
+ Hạn chế xuất khẩu tự nguyện: là hình thức quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt số lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách tự nguyện, nếu không họ sẽ áp dụng biện pháp trả đũa kiên quyết. Khi một mặt hàng xuất khẩu gặp phải hạn chế xuất khẩu tự nguyện sẽ gặp khó khăn trong số lượng hàng được xuất khẩu tương tự như hạn ngạch
+ Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật: bao gồm những quy định về về sinh, đo lường, an toàn lao động, bao bì đóng gói đặc biệt là các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường sinh thái đối với máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ.
+ Trợ cấp xuất khẩu: chính phủ có thể áp dụng những biện pháp trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp đối với các nhà xuất khẩu hoặc có thể thực hiện một khoản vay ưu đãi cho các bạn hàng nước ngoài để họ có điều kiện mua các sản phẩm do nước mình sản xuất. Khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ dễ dàng hơn, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng lên đáng kể.
+ Chính sách tỷ giá: trong trường hợp tỷ giá hối đoái tăng lên nghĩa là đồng nội tệ mất giá thì giá cả hàng hoá xuất khẩu rẻ tương đối so với các hàng hoá của những nước xuất khẩu cùng loại hàng hoá đó từ đó số lượng hàng hoá xuất khẩu sẽ tăng lên nhưng lúc đó giá cả nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu đó (nếu có) sẽ tăng lên không có lợi cho hoạt động xuất khẩu. Ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm xuống nghĩa là đồng nội tệ lên giá thì giá cả hàng hoá xuất khẩu trở nên đắt tương đối so với mức giá chung thế giới dẫn đến số lượng hàng hoá xuất khẩu sẽ giảm đi. Lúc này sẽ cần đến sự điều chỉnh của chính phủ.
Quan hệ kinh tế quốc tế.
Rõ ràng là quan hệ kinh tế quốc tế ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu. Ta có thể lấy ví dụ Iraq khi bị cấm vận về kinh tế, không có một mối liên hệ kinh tế nào với thế giới bên ngoài do đó cũng không có hoạt động xuất khẩu gì, dẫn đến tình hình kinh tế trong nước vô cùng khó khăn. Một nước có mối quan hệ tốt với thế giới bên ngoài thì hoạt động xuất khẩu sẽ phát triển.
Yếu tố chính trị.
Chế độ chính trị là khá quan trọng trong mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước. Từ yếu tố chính trị mà chính phủ một nước sẽ có những định hướng khuyến khích hay ngăn cấm giao lưu thương mại với một nước khác. Điều này cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
Thực trạng khoa học công nghệ.
Khoa học công nghệ là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Khoa học công nghệ càng hiện đại thì chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất càng được nâng cao tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Chương II
Thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam trong thời gian qua
I. Kim ngạch xuất khẩu.
Giầy dép là mặt hàng có sự khác biệt so với những hàng hoá tiêu dùng khác ví dụ như thực phẩm . Mặt hàng này chỉ phát triển được khi đời sống của nhân dân đã đạt được một mức nhất định. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của xã hội, những năm gần đây nước ta đang chuyển đổi mạnh mẽ từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo kinh tế thị trường. Nhờ sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế này mà đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt . Do đó, phát triển và mở rộng sản xuất hàng tiêu dùng có chất lượng cao là vấn đề được quan tâm hàng đầu để đáp ứng nhu cầu trong nước và nhu cầu xuất khẩu.
Sau khi nước ta tiến hành chính sách mở cửa vào năm 1992, ngành da giầy nước ta đã có bước phát triển mạnh và trở thành một trong số những ngành có triển vọng xuất khẩu cao. Thời kỳ 1991-1993 xuất khẩu giầy dép đứng hàng thứ 10 trong số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thì đến năm 1994 giầy dép đã vươn lên hàng thứ 6 và hiện nay giầy dép đứng hàng thứ 3 trong số những mặt hàng xuất khẩu chỉ sau dầu khí và dệt may. Quy mô xuất khẩu của ngành giầy dép là rất lớn. Bảng 1 sẽ cho ta thấy điều đó.
Bảng 1. Giá trị xuất khẩu giầy dép Việt Nam.
Đơn vị: triệu USD.
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Giá trị xuất khẩu
118
244,14
388,04
528,5
964,5
1168
1400
trong đó
Giầy thể thao
55,5
130,6
193,04
326,2
666,5
-
-
Giầy nữ
30
63,84
72,46
90,1
155,2
-
-
Giầy vải
20,5
35,5
51,54
87,2
105,7
-
-
Dép và các loại khác
12
14,2
21
25
37,1
-
-
Nguồn: bộ Thương Mại và Ngân hàng thế giới Việt Nam.
Bảng số liệu trên không đầy đủ do điều kiện thu thập số liệu khó khăn nhưng qua đó ta cũng thấy một điều rõ ràng là lĩnh vực xuất khẩu giày dép hiện nay đang chiếm một phần đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Theo số liệu của tổng công ty da giầy Việt Nam, năm 1999 tổng kim ngạch xuất khẩu xấp xỉ 1,4 tỷ USD, tăng 30% so với năm 1998. Góp phần vào sự tăng trưởng này là một hệ thống các doanh nghiệp, công ty hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực sản xuất giày dép nói chung và xuất khẩu giày dép nói riêng bao gồm:
+ Doanh nghiệp quốc doanh trung ương chiếm 25% số lượng sản phẩm và 18,8% tổng kim ngạch xuất khẩu.
+ Doanh nghiệp quốc doanh địa phương chiếm 19,5% số lượng sản phẩm và 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 37,5% số lượng sản phẩm và 52,8% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Trong hệ thống doanh nghiệp sản xuất giày dép thì tổng công ty giầy da Việt Nam là đơn vị dẫn đầu trong vấn đề định hướng phát triển sản phẩm và tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Trực thuộc tổng công ty hiện nay là một hệ thống các công ty con sản xuất giày và thuộc da khá quy mô. Thị trường xuất khẩu của ta là khá rộng lớn nhưng do nguồn đầu vào còn thiếu nên đầu năm 1999, tổng công ty đã triển khai thực hiện dự án sắp xếp lại những cơ sở sản xuất da ở phía bắc bao gồm:
+ Tiếp nhận nhà máy thuộc da Nghệ An (đã ngừng sản xuất 10 năm nay).
+ Tiến hành giải thể một số đơn vị sản xuất thuộc da ở phía Bắc, chuyển toàn bộ trang thiết bị vào nhà máy thuộc da Vinh để tập trung sản xuất đồng thời tiến hành nhập khẩu bốn dây chuyền sản xuất da cao cấp của Italia, trang bị thêm cho nhà máy nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất của nhà máy.
+ Cải tạo lại nhà xưởng, trang bị thêm một số thiết bị máy móc mới.
Ngành giầy dép của ta đã có từ lâu đời nhưng trước đây chỉ chú trọng đến gia công giầy vải và giầy thể thao, giầy da chỉ được sản xuất với kỹ thuật lạc hậu để tiêu thụ nội địa với số lượng không nhiều.
Bên cạnh những công ty thuộc tổng công ty da giầy Việt Nam hiện đang hoạt động rất có hiệu quả, trong thời gian gần đây các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đang phát triển với quy mô lớn, số lượng và giá trị xuất khẩu ngày càng cao. Hiện nay ở nước ta có khoảng 100 nhà máy sản xuất giầy trong đó một nửa là xí nghiệp liên doanh, 18 nhà máy tư nhân, 34 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 21 xí nghiệp 100% vốn nước ngoài với số vốn đầu tư trên 33 triệu USD và hàng loạt những cơ sở sản xuất tư nhân khác. Tuy nhiên, doanh nghiệp quốc doanh sản xuất giầy dép xuất khẩu vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động xuất khẩu giầy dép của Việt Nam, thể hiện dưới bảng sau.
Bảng 2. Xuất khẩu giầy dép theo thành phần kinh tế.
Đơn vị: triệu USD.
1996
Tỷ trọng (%)
1997
Tỷ trọng (%)
Các doanh nghiệp quốc doanh
356,994
67,54
550,4
57,06
Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
79,576
15,06
262,12
27,18
Các doanh nghiệp liên doanh
91,978
17,4
152,01
15,76
Tổng số
528,748
100
964,53
100
Nguồn: tổng công ty da giầy Việt Nam.
Trong năm 1996 và 1997, các doanh nghiệp quốc doanh là những đơn vị kinh tế có giá trị xuất khẩu giầy dép lớn nhất trong các thành phần kinh tế. Năm 1996 doanh nghiệp quốc doanh chiếm 67,54% và năm 1997 chiếm 57,06% tỷ trọng xuất khẩu. Điều này chứng tỏ rằng thành phần kinh tế quốc doanh vẫn chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất nói chung và xuất khẩu giầy dép nói riêng. Đây có lẽ là một điều dễ hiểu vì ngành giầy dép có vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế nước ta nên được đầu tư nhiều và được nhà nước coi trọng. Mặt khác đây cũng là ngành đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao nên thành phần kinh tế cá thể không thể có đủ vốn, kinh nghiệm cũng như trình độ để tham gia vào lĩnh vực này.
II. Thị trường xuất khẩu giầy dép của Việt Nam.
Kể từ những năm 1980, đồ da Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh do có sự hợp tác giữa Việt Nam với Liên Xô và một số nước Đông Âu cũ trong hội đồng tương trợ kinh tế. Các sản phẩm giầy dép theo sự hợp tác này không có sự đảm bảo về chất lượng cũng như tính cạnh tranh cao do thói quen làm ăn xã hội chủ nghĩa. Kể từ khi hiệp định này bị cắt bỏ thì ngành giầy da nước ta mới có bước tiến bộ nhất từ sau khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường vào năm 1992. Ngành giầy dép trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật độc lập mang lại cho đất nước những khoản tiền không nhỏ.
Hiện nay, các sản phẩm giầy dép xuất khẩu của Việt Nam bao gồm giầy thể thao, giầy nữ, giầy da, dép đi trong nhà, sandal.. chất lượng khá tốt. Sản phẩm của chúng ta thường được xuất khẩu sang thị trường những nước tư bản như Tây Âu và Bắc Mỹ. Thị trường chủ yếu của giầy dép xuất khẩu là các nước thuộc liên minh châu âu do sản xuất giầy dép tại châu âu đang ngày càng giảm sút đồng thời hàng xuất khẩu giày dép của Việt Nam được hưởng ưu đãi theo hệ thống ưu đãi phổ cập GSP. Ngoài ra Việt Nam còn đang nhìn thấy Mỹ là một thị trường tiềm năng cho dù hiện nay Mỹ và Việt Nam mới ký hiệp định thương mại các điều kiện còn chưa ổn định nhưng hai hãng giầy thể thao danh tiếng là Nike và Reebok đã thành công trong việc sản xuất giầy thể thao tại Việt Nam.
Ngoài ra, một khối lượng lớn sản phẩm giầy dép của Việt Nam còn được xuất khẩu sang một số nước châu á như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông tuy nhiên phần lớn những số này được sử dụng để tái xuất khẩu.
Tóm lại, thị trường xuất khẩu giầy dép của Việt Nam là một thị trường rộng lớn (xem bảng 3) với đủ các thị hiếu nhưng đều có chung một yêu cầu chất lượng cao, mẫu mã đẹp và đa dạng.
Bảng 3. Tỷ lệ xuất khẩu giầy dép Việt Nam theo khu vực.
Năm 1999
Các khu vực
Tỷ lệ %
Các nước ASEAN
1,3
Các nước châu á không thuộc ASEAN
10,3
Châu Âu
68,9
Mỹ và Canada
9,6
úc và New Zealand
1,6
Các nước khác
8,3
Tổng cộng
100
Nguồn: báo cáo giữa năm 2000 của Ngân hàng thế giới.
Bảng 4 minh họa tình tình xuất khẩu giầy dép Việt Nam năm 1999 vào một số nước trên thế giới.
Bảng 4. Xuất khẩu giầy dép Việt Nam vào một số nước (1999).
Đơn vị: triệu USD.
Quốc gia
KNXK
Quốc gia
KNXK
Các nước ASEAN
1998
1999
Châu Âu
1998
1999
Singapo
4,2
9,3
Italia
60,3
66,8
Philipin
1,0
1,0
Nga
10,7
7,2
Indonesia
0,8
2,5
Tây Ban Nha
24,5
36,9
Malaysia
0,8
1,7
Đức
112,4
192,3
Campuchia
0
0,2
Vương quốc Anh
141
194,5
Thái Lan
1,5
0,7
Pháp
77,3
132,7
Lào
0,2
2,7
Hà Lan
65,3
125,6
Các nước châu á khác
1998
1999
Thụy Sĩ
4,7
6,4
Đài loan
87,5
46,7
Bỉ
119,6
146,4
Trung Quốc
1,9
2,1
Thụy Điển
10,9
16,7
Nhật
27,4
32,6
Đan Mạch
4,9
9,9
Hồng Kông
23,6
11,3
Ba lan
2,4
6,2
Hàn Quốc
23
50,5
Phần Lan
6
7,4
ấn Độ
0,4
0,3
Na Uy
4,4
5,2
Iran
0,1
0,4
áo
2,1
2,6
Mỹ và Canada
1998
1999
úc và NewZealand
1998
1999
Mỹ
99,3
102,7
úc
14,4
16,6
Canada
24,2
30,5
New Zealand
5,2
5,8
Nguồn: Tổng cục hải quan.
Qua các bảng trên ta có thể thấy thị trường châu âu (bao gồm các nước Anh, Hà Lan, Đức, Pháp, Bỉ, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Ba Lan, Tây Ban Nha, Phần Lan, Na Uy...) là thị trường lâu đời nhất và cũng là thị trường lớn nhất của giầy dép xuất khẩu Việt Nam. Tính từ năm 1993 đến 1997, giầy dép Việt Nam được đưa vào châu âu mỗi năm tăng từ 1,4 đến 1,5 lần về tổng giá trị. Hiện nay, Việt Nam là một trong 5 nước có lượng giầy dép được tiêu thụ nhiều nhất tại châu âu không chỉ vì giá rẻ mà còn là vì chất lượng và mẫu mã chấp nhận được. Năm 1996, Việt Nam là nước xuất khẩu giầy dép thứ ba sau Indonesia và Trung Quốc vào thị trường châu âu. Năm 1997, tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam đạt đến 851 triệu USD. Năm 1998 do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực giá trị xuất khẩu của ta có giảm đi nhưng đến năm 1999 giá trị xuất khẩu đã khôi phục lại và đạt mức 870 triệu USD. Các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam là giầy thể thao, giầy vải, giầy nữ, giầy da và da thuộc. Bảng số liệu sau đây sẽ cho ta thấy tình hình tổng quan xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào châu Âu.
Bảng 5. Tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào châu Âu.
Đơn vị: triệu USD.
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng kim ngạch
26
119
271
380
520
851
630
870
Nguồn: tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới.
Trong đó bốn nước sau là những nước có giá trị nhập khẩu giầy dép của Việt Nam năm 1999 lớn nhất.
Đơn vị: triệu USD.
Quốc gia
1999
Tăng so với 1998
Đức
192,3
79,9
Hà lan
125,6
60,3
Pháp
132,7
55,4
Anh
194,5
53,5
Nguồn: Báo cáo giữa năm 2000 của Ngân hàng thế giới Việt Nam.
Từ thị trường châu âu, nhờ vào giá rẻ và độ tin cậy cao trong thực hiện hợp đồng của phía Việt Nam mà giầy dép Việt Nam xuất khẩu đã dần xâm chiếm được một số thị trường tiềm năng khác như thị trường Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc...
III. Cơ cấu xuất khẩu.
Trong những năm gần đây, ngành giầy-đồ da Việt Nam đã có sự tăng trưởng khá nhanh. Sản phẩm của ngành công nghiệp này đã chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu, lý do chủ yếu là chất lượng hàng hoá nhưng một khía cạnh không kém phần quan trọng là mẫu mã và chủng loại đa dạng và phong phú. Sau nhiều năm phát triển, hiện nay sản phẩm giầy dép đã tăng lên khá nhiều về số lượng với hình thức mẫu mã đẹp và chất lượng tốt. Có thể nói một cách khái quát rằng trong những năm gần đây, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của giầy dép Việt Nam là giầy thể thao, giầy nam nữ, giầy vải, cặp túi các loại. Theo như dự báo của tổng công ty da giầy Việt Nam thì năm 2000 các loại giầy thể thao sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu là 104 triệu USD, chiếm tỷ lệ cao nhất trong tất cả các loại sản phẩm giầy dép. Tiếp theo đó là giầy vải, dự kiến đạt kim ngạch xuất khẩu là 45 triệu USD. Các loại sản phẩm trên là các loại hàng hoá có khả năng phát triển cao trong những năm tới.
Trên đây là một số nét cơ bản về tình hình xuất khẩu giầy dép của nước ta. Để có được những thành quả đáng khích lệ trên là do ngành da giầy đã chú trọng tới việc đầu tư trang thiết bị phục vụ quá trình sản xuất. Các nhà đầu tư đã trang bị mới gần 200 dây chuyền sản xuất giầy hoàn chỉnh và gần 1.600 thiết bị chuyên làm túi, cặp, va li.. Trong vòng 4 năm, từ năm 1993 đến năm 1997, ngành công nghiệp da giầy Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế đã đầu tư trên 2.000 tỉ đồng trong đó khoảng một nửa dùng mua sắm máy móc thiết bị. Hơn 55% vốn đầu tư huy động từ nước ngoài thông qua góp vốn liên doanh, vay trả chậm.
IV. Tình hình xuất khẩu giầy dép của tổng công ty da giầy Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của ngành giầy da nói chung và sự phát triển của xuất khẩu giầy dép nói riêng, số lượng cũng như chất lượng sản phẩm của các công ty sản xuất giầy dép đã tăng lên rất nhanh trong những năm gần đây do Việt Nam được hưởng khá nhiều các ưu đãi về xuất khẩu của các đối tác nước ngoài nên thị trường xuất khẩu giầy dép của các doanh nghiệp Việt Nam là rất rộng. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau về mẫu mã, giá cả, uy tín vì thế có thể nói rằng sự cạnh tranh hiện nay trong nội bộ ngành giầy dép nội địa là khá quyết liệt. Trong số những công ty đang ngày càng phát triển đó, tổng công ty da giầy Việt Nam là đơn vị dẫn đầu trong hoạt động xuất khẩu của toàn bộ ngành da giầy Việt Nam.
Tổng công ty da giầy Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp nhất 15 đơn vị của ngành da giầy Việt Nam trong đó có 9 đơn vị hạch toán độc lập là công ty da Sài Gòn, công ty giầy An Lạc, công ty giầy Hiệp Hưng, công ty giầy Phú Lâm, công ty giầy Yên Viên, công ty giầy Sài Gòn, công ty giầy Thăng Long, công ty da giầy Hà Nội, công ty XNK da giầy Hà Nội và 7 đơn vị hạch toán phụ thuộc bao gồm nhà máy thuộc da Vinh, nhà máy da giầy Huế, nhà máy giầy Bạch Đằng, nhà máy giầy Phúc Yên, công ty sản xuất thương mại dịch vụ, xí nghiệp cặp túi Đà Nẵng. Nhiệm vụ chính của tổng công ty là sản xuất và xuất khẩu giầy dép
Đối với những thị trường xuất khẩu, tổng công ty da giầy Việt Nam đã có một chỗ đững vững chắc. Sản phẩm của công ty đã có mặt trên thị trường nhiều nước thuộc liên minh châu Âu, các nước SNG, Đông Âu, Đông á. Gần đây, tổng công ty đã và đang mở rộng thị trường của mình sang một số nước Bắc Mỹ trong khi các thị trường truyền thống vẫn được giữ vững. (Mọi số liệu được lấy theo báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 1996-1999 của tổng công ty).
Bảng 6. Cơ cấu thị trường của tổng công ty da giầy Việt Nam.
Khu vực thị trường
Tỷ lệ %
Đông á
8
Châu âu
75
Bắc Mỹ
8
SNG-Đông Âu
9
Tổng số
100
Qua bảng 6 ta thấy thị trường châu Âu chiếm tỷ lệ lớn trong số các thị trường xuất khẩu của tổng công ty (75%). Bởi vì đây là thị trường mà tổng công ty có quan hệ từ lâu, các sản phẩm đã trở nên quen thuộc, người tiêu dùng đã hình thành thói quen trong tiêu dùng đối với sản phẩm. Mặt khác, sản phẩm của tổng công ty xuất sang các nước châu Âu được hưởng chính sách ưu đãi phổ cập thuế quan (GSP).
Tuy nhiên trong những năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu của tổng công ty sang thị trường này có phần suy giảm do một vài lý do khách quan và chủ quan, ví dụ như công ty đang tiến hành mở rộng một số thị trường mới nên không tập trung được hoàn toàn vào thị trường này và Trung Quốc, Inđonêsia đã xâm nhập thị trường này một cách mạnh mẽ. Điều này được thể hiện qua số liệu trong bảng 7.
Bảng 7. Kim ngạch xuất khẩu sang châu Âu của tổng công ty.
1996
1997
1998
1999
Số lượng (triệu sản phẩm)
212,192
252,512
216,336
219,696
Giá trị (triệu USD)
112,5136
134,2095
124,9818
120,90625
Qua bảng 7 ta thấy số lượng cũng như giá trị xuất khẩu của tổng công ty tăng mạnh từ năm 1996 đến 1997 song vì những lý do kể trên đã giảm đáng kể vào hai năm tiếp theo 1998 và 1999. Năm 1998 giảm 3,6176 triệu sản phẩm tương đương 9,2277 triệu USD so với năm 1997. Năm 1999 số lượng sản phẩm có tăng lên chút ít (0,336 triệu sản phẩm) song về giá trị lại giảm đi đáng kể (4,07555 triệu USD). Đây là những khó khăn thách thức đặt ra cho tổng công ty trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, tổng công ty cũng đã chú trọng thích đáng đến một số thị trường mới như Đông á. Do những đặc thù riêng của khu vực và sự cạnh tranh của Trung Quốc và Inđônêsia, Đông á mới chỉ chiếm tỷ lệ 8% trong cơ cấu thị trường của tổng công ty.
Bảng 8. Kim ngạch xuất khẩu sang Đông á của tổng công ty.
1996
1997
1998
1999
Số lượng (triệu sản phẩm)
2,1289
2,5251
2,16336
2,1969
Giá trị (triệu USD)
11,6705
13,9438
12,9851
12,5616
Còn thị trường Đông Âu và các nước SNG là thị trường có quan hệ buôn bán lâu đời với tổng công ty song sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ thì việc buôn bán của tổng công ty với thị trường này là rất ít do sự mất ổn định về chính trì. Vài năm trở lại đây, sự ổn định dần về chính trị và phát triển kinh tế trong khu vực này đã tạo ra sự hứa hẹn về một thị trường mới với dung lượng lớn và sự đa dạng về nhu cầu. Chính vì vậy tổng công ty da giầy Việt Nam đã đặt mối quan hệ buôn bán với những nước này nhằm giới thiệu sản phẩm trên cơ sở tìm kiếm và mở rộng phạm vi tiêu thụ. Đây mới chỉ là bước đầu của tổng công ty do vậy tỷ trọng của hàng xuất khẩu sang thị trường này còn thấp (9%).
Về hình thức xuất khẩu, do tổng công ty chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, việc tiêu thụ chủ yếu diễn ra tại thị trường nước ngoài nên các hình thức kinh doanh của tổng công ty cũng rất khác biệt so với các doanh nghiệp khác. Các hình thức xuất khẩu của tổng công ty được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 9. Các hình thức xuất khẩu của tổng công ty.
Đơn vị: triệu USD.
Hình thức xuất khẩu
1996
1997
1998
1999
Xuất khẩu trực tiếp
29,5
29,78
30,05
31,98
Gia công xuất khẩu
75,4
79,19
80,3
81,7
Uỷ thác xuất khẩu
14,28
19,35
13,4
8,6
Liên doanh xuất khẩu
5,945
10,578
9,8
2,591
Đổi hàng
9,537
10,1
6,564
7,55
Xuất trả nợ
11,22
25,3
22,2
23,15
Tổng số
145,882
174,298
162,314
157,021
Qua bảng 9 ta thấy hình thức gia công xuất khẩu là hình thức gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu chính của tổng công ty da giầy Việt Nam. Hình thức này luôn chiếm tỷ trọng lớn từ 45,43% năm 1997 đến 52,03% năm 1999 trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Với hình thức này tổng công ty có ưu thế là không phải quan tâm đến nguồn nguyên vật liệu, mẫu mã sản phẩm, thị trường tiêu thụ đồng thời tổng công ty khó có thể nắm bắt được nhu cầu thị trường và thụ động trong việc cải tiến mẫu mã và đặc biệt là thu nhập thấp. Nhận thức được điều này nên tổng công ty đã cố gắng phát triển hình thức xuất khẩu trực tiếp. Các hình thức xuất khẩu khác đã và đang được hạn chế để phục vụ cho xuất khẩu trực tiếp.
Mặt hàng chính của tổng công ty là giầy nữ, giầy vải và giầy thể thao, thời gian gần đây tổng công ty có thêm sản phẩm dép các loại. Điều đó được thể hiện qua bảng sau.
Bảng 10. Các sản phẩm chủ yếu của tổng công ty.
Mặt hàng
1996
1997
1998
1999
Giầy vải (1000 đôi)
5.984
8.154
7.450
6.471
Giầy thể thao (1000 đôi)
5.059
6.928
4.860
5.485
Giầy nữ (1000 đôi)
13.315
12.942
11.216
11.426
Dép các loại (1000 đôi)
1.955
4.274
3.516
4.303
Giầy da (1000 đôi)
-
-
-
305
Cặp, túi (1000 sản phẩm)
873
655
2.442
6.719
Bảng trên cho ta thấy sản lượng tiêu thụ các mặt hàng chính của tổng công ty tuy có giảm bớt song vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Mặt hàng giầy nữ giảm liên tục vào năm 1997 và 1998 (năm 1997 giảm 391.000 đôi so với năm 1996, năm 1998 giảm 1.726.000 đôi so với năm 1997) nhưng năm 1999 lại bắt đầu tăng 210.000 đôi so với năm 1998. Đặc biệt mặt hàng cặp túi sau khi giảm mạnh vào năm 1997 (218.000 sản phẩm so với năm 1996) đã liên tục tăng với khối lượng lớn vào những năm 1998 (tăng 3,73 lần so với năm 1997), 1999 (tăng 10,26 lần so với 1997) cho thấy việc tổng công ty đi vào sản xuất mặt hàng cặp túi da là hoàn toàn phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng nên đã đạt được những kết quả tốt. Các mặt hàng khác cũng có những thay đổi nhất định vào các năm nhất là hai mặt hàng chủ lực là giầy vải và giầy thể thao. Điều này thể hiện cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của tổng công ty đang có sự thay đổi, mặc dù chưa rõ nét nhưng là một dấu hiệu báo trước để tổng công ty chuẩn bị cho việc chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của tổng công ty da giầy Việt Nam, ta xem xét kết quả xuất khẩu của các đơn vị thành viên trong vài năm gần đây.
Bảng 11. Kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty theo các đơn vị.
Đơn vị: triệu USD.
Đơn vị
1996
1997
1998
1999
Công ty da giầy Hà Nội
-
-
0,023
0,540
Công ty da Sài Gòn
23,100
24,550
18,212
22,534
Công ty giầy An Lạc
9,539
18,2
16,837
15,500
Công ty giầy Hiệp Hưng
40
44,785
35,668
25,713
Công ty giầy Phú Lâm
19,350
31,200
35,405
40,397
Công ty giầy Sài Gòn
22,199
22,285
18,996
18,455
Công ty giầy Thăng Long
2,593
4,380
6,347
4,725
Công ty giầy Yên Viên
7,097
5,980
6,311
6,625
Công ty XNK da giầy
Sài Gòn
-
-
7,462
7,150
Các đơn vị phụ thuộc
11,965
15,898
18,990
13,806
Qua bảng trên ta thấy tình hình xuất khẩu của các đơn vị thuộc tổng công ty từ năm 1996 đến năm 1999 có nhiều biến động lớn. Sau khi kim ngạch xuất khẩu tăng vào năm 1997 thì hầu hết các đơn vị đều có kim ngạch xuất khẩu giảm vào hai năm tiếp theo 1998 và 1999. Mức giảm cao nhất của năm 1998 so với năm 1997 là của công ty da Sài Gòn (giảm tới 25,82%). Bước sang năm 1999, mức giảm kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thuộc về các đơn vị phụ thuộc (giảm đến 27,28% so với năm 1998. Có thể giải thích hiện tượng này bằng một số lý do sau:
+ Việc giảm kim ngạch xuất khẩu của các đơn vị thành viên vào hai năm 1998 và 1999 dẫn tới tổng kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty giảm 2,97% (1998/1997) và 4,23% (1999/1998) là do tổng công ty thực hiện kế hoạch 1997-1998 trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới. Tổng công ty phải vay vốn ngân hàng với lãi suất cao để đầu tư sản xuất mà không có hiệu quả. Một số nước cung cấp nguyên vật liệu cho tổng công ty chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nên tình hình nguyên vật liệu của công ty là khá khó khăn, dẫn tới khối lượng sản phẩm giảm. Mặt khác do khủng hoảng kinh tế nên sức mua trên thị trường xuất khẩu của tổng công ty cũng giảm.
+ Bước vào năm 1999, mặc dù tình hình thị trường của ngành da giầy Việt Nam có chiều hướng khả quan hơn năm 1998 nhưng trong năm 1999 nước ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thiên tai. Những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn còn có tác động đến nền kinh tế nước ta, đầu tư nước ngoài giảm sút. Thêm vào đó tình hình kinh tế châu Âu có nhiều biến động, tốc độ tăng trưởng chậm, giá trị đồng EURO giảm so với đồng đô la Mỹ. Tất cả những điều này đã tác động trực tiếp đến ngành da giầy Việt Nam, đơn hàng giảm, thị trường không ổn định, giá gia công cũng như gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61164.DOC