Đề tài Xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường Hoa Kỳ

A/ Lời mở đầu

Nêu tầm quan trọng và mục đích của vấn đề cần nghiên cứu.

B/ Nội dung:

ChươngI: Vài nét tổng quan quản lý xuất khẩu ngành dệt may ở nước ta

I/ Vị trí vai trò của ngành dệt may trong nền kinh tế

1. Vai trò của ngành đối với quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá

2. Ảnh hưởng của ngành đến quá trình tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu.

II/ Quản lý nhà nước về chính sách xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam

1. Thủ tục hải quan - xuất khẩu.

2. Hạn ngạch xuất khẩu.

ChươngII: Thực trạng xuất khẩu của ngành dệt may Việt nam sang thị trường Mỹ trong những năm gần đây và những vấn đề đặt ra.

I/ Tình hình xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ.

1. Sự biến đổi về qui mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may.

2. Sự biến đổi về cơ cấu hàng xuất khẩu.

3. Khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam.

II/ Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ.

1. Những thuận lợi:

Về mặt cơ chế chính sách

Về vốn đầu tư và khả năng thu hút vốn

Những thuận lợi về nguồn nhân lực

2. Những trở ngại và thách thức của hàng dệt may vào thị trường Mỹ.

III/ Bàn về phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường khả năng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ trong những năm tới

1. Định hướng xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ

1.1 Phương hướng tổng quát.

1.2 Phương hướng cụ thể.

2. Một số giải pháp và chiến lược Marketing :

Tăng cường nghiên cứu thị trường và xây dựng chính sách phù hợp. Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư kết hợp với việc nâng cấp và đổi mới công nghệ.

C/ Kết luận : Khái quát một lần nữa về xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam.

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3044 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời thế so sánh về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật công nghệ, thị trường cho sự phát triển. Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia vào ành sản xuất trong nước trong quan hệ cạnh tranh với thị trường quốc tế nhằm phát huy những lợi thế so sánh, buộc các nhà sản xuất trong nước. Phải luôn đổi mới công nghệ nâng cao năng xuất chất lượng sản phẩm … đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường thế giới và đem lại nguồn ngoại tệ cho đất nước. Điều này thể hiện rõ ở ngành dệt may Việt nam: xuất khẩu hàng dệt may Việt nam đã và đang sẽ là ngành xuất khẩu quan trọng hàng đầu của Việt nam trong những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Với mức tăng trưởng cao và ổn định từ 30% đến 40%. Suốt chục năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã lần lượt vượt qua các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác. Gần chục năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã lần lượt vượt lên vị trí số một trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam(1998) và đứng thứ 2 (1999) với giá trị xuất khảu gần 1,7 tỉ USD ( Tăng 16% so với năm 1998)là mặt hàng có kim ngạch xuát khảu sau dầu thô_mặt hàng có mức sản lướng xuất khẩu 14,7 nghìn tấn và kim ngạch đạt tới gần 2 tỉ USD. Xuất khẩu hàng dệt may Việt nam hàng năm đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước khoảng 300 triệu USD ngành này còn góp phần tích cực giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động trên mọi miền đất nước. Điều đó có ý nghĩa trong lúc chúng ta đang thiếu vốn thừa lao động . Với đường lối mở cửa và hội nhập vào cộng đồng thế giới nói chung và các nước trong khu vức nói riêng , ngành dệt may phải trực tiếp tham gia hợp tác về các lĩnh vức lao động mậu dịch tham gia tiến hành cắt giảm thuế quan của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và tham gia vào các tổ chức quốc tế khác, ngành dệt may của chúng ta cần phải tích cực đổi mới với mức chi phí sản xuất thấp công nhân cần cù sáng tạo cùng với việc nâng cao chất lượng đặc biệt là quan tâm tới thị hiếu, mẫu mốt thời trang của thị trường thế giới. Việt nam sẽ phát triển sản phẩm dệt may của mình trong quá trình tự do hoá mậu dịch và thích ứng đước với xu thế chuyển dịch hàng dệt may của thế giới. II/ Quản lý nhà nước về chính sách xuất khẩu hàng dệt may ở Việt nam. Thủ tục hải quan - xuất khẩu: Hàng xuất khẩu phải làm thủ tục hải quan khi xuất khẩu theo qui định chính thức về xuất khẩu hàng hoá và khi theo yêu cầu của nước nhập khẩu. Việc làm thủ tục xuất khẩu cho hàng hoá liên quan đến các biện pháp quản lý như: Hạn chế số lượng (giấy phép xuất khẩu) Việt nam vẫn chưa thực hiện mạnh mẽ chính sách xuất khảu hàng dệt may do đó về số lượng vẫn còn bị hạn chế Hạn chế ngoại tệ (giám sát ngoại hối) Hạn chế tài chính (kiểm tra hải quan , thuế quan) Nhu cầu thống kê thương mại (báo cáo thống kê) Kiểm tra số lượng, chất lượng, kiểm tra vệ sinh, y tế, hàng nguy hiểm. Kiểm tra áp dụng các biện pháp ưu đãi thuế quan ( giấy chứng nhận xuất xứ) Các chứng từ phục vụ cho việc kiểm tra hải quan xuất khẩu hàng hoá bao gồm: Giấy phép xuất khẩu Tờ khai kiểm tra ngoại hối Tờ khai hàng hoá (khai hải quan) Giấy chứng nhận xuất xứ Tờ khai hàng nguy hiểm Hoá đơn lãnh sự (nếu có yêu cầu) hoặc hoá đơn thương mại. Khi làm thủ tục hải quan, thông thường phải kiểm tra tư cách pháp nhân của người xuất khẩu cũng như kiểm tra các chứng từ có hợp pháp và đúng qui định không. Những qui định về thủ tục hải quan là đối tượng hàng đầu trong việc đơn giản hoá các thủ tục thương mại quốc tế. Thời gian làm thủ tục các yêu cầu đối với chứng từ là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá công tác đơn giản hoá thủ tục thương mại. Hạn ngạch xuất khẩu: Đối với hàng hoá có hạn ngạch và có giấy phép của Bộ thương mại: Thương nhân có đủ điều kiện theo qui định tại khoản 1, điều 9 nghị định số 57 /1998 /NĐ - CP chỉ được uỷ thác xuất khẩu, nhạp khẩu hàng hoá có hạn ngạch và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có giấy phép của bộ thương mại trong phạm vi số lượng hoặc trị giá ghi tại văn bản pham bổ hạn ngạch của cơ quan có thẩm quyền hoặc giấy phép của bộ thương mại. Thương nhân có đủ điều kiện theo qui định tại khoản 2, điều 9 nghị định số 57 /1998/ NĐCP chỉ được nhận uỷ thác xuất nhập khẩu hàng hoá có hạn ngạch và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có giấy phép của bộ thương mại trong phạm vi số lượng hoặc giá trị ghi tại văn bản phân bổ hạn ngạch của cơ quan có thẩm quyền hoặc giấy phép của bộ thương mại cấp cho thương nhân uỷ thác. Không được sử dụng hạn ngạch hoặc giấy phép do bộ thương mại cấp cho mình để nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu. Trường hợp bộ thương mại có qui định riêng về việc uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu một số mặt hàng có hạn ngạch hoặc có giấy phép thì việc uỷ thác được thức hiện theo quy định đó. Đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu có giấy phép của bộ quản lý chuyên ngành. Thương nhân có đủ điều kiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 9 nghị định số 57 /1998 /NĐCP được uỷ thác hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá quản lý chuyên ngành khi bên uỷ thác hoặc bên nhận uỷ thác có văn bản của bộ quản lý chuyên ngành cho phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu hàng hoá đó. Chương II: Thực trạng xuất khẩu của ngành dệt may việt nam sang thị trương mỹ trong những năm gần đây và vấn đề đặt ra. I. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ Sự biến đổi về qui mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khảu hàng dệt may vào Mỹ. Mỹ là một thị trường rộng lớn giàu tiềm năng mạnh cả về khả năng thanh toán nhưng cạnh tranh cũng rất ác liệt. Bốn năm qua kể từ khi Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt nam, quan hệ buôn bán giữa hai nước phát triển theo chiều hướng tốt đẹp. Đến nay, kim ngạch xuất khẩu giữa Việt nam và Mỹ đã đạt 1 tỷ USD một năm. Việt nam xuất khẩu sang Mỹ cà phê, dầu thô, giày dép, hải sản, quần áo, hàng dệt may…. và nhập từ Mỹ thiết bị máy móc, nguyên vật liệu. Hiện nay Mỹ là thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt may lớn nhất thế giới. Với số dân khoảng 260 triệu người, đa số sống ở thành thị với thu nhập cao. Mỹ nhập khẩu hàng năm từ 40-50 tỷ USD các sản phẩm dệt may từ Trung quốc, Hồng kông, Hàn quốc, Đài loan, Mêxico, EU và Việt nam… trong đó sản phẩm dệt kim chiếm khoảng 40% Do đó Mỹ được xem là thị trường tiềm năng rất lớn cho mọi nhà sản xuất và xuất khẩu dệt may thế giới cũng như đối với các doanh nghiệp chúng ta. Mỹ là thành viên của APEC_khu vực kinh tế châu á thái bình dương, một khu vực có sự phát triển kinh tế hết sức năng động. GDP hàng năm của Mỹ lên tới 8000 tỷ USD kim ngạch xuất nhập khẩu xấp xỉ 14% buôn bán toàn cầu, trong đó nhập khẩu trên 800 tỷ USD mỗi năm và là nước có sức mua lớn nhất thế giới. Năm 1994 Mỹ đứng thứ nhất về nhập khẩu hàng may và đứng thứ ba về nhập khẩu hàng dệt. Mặt hàng 1995 1996 1997 Hàng dệt thường 22247 22870 25993 Hàng dệt kim 13886 15060 18653 Tổng 36103 37930 44646 Bảng 1: Kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ qua các năm Đơn vị tính: Triệu USD Từ khi Mỹ bỏ cấm vận với Việt nam, Mỹ đang dần trở thành thị trường nhập khẩu lớn hàng dệt may của Việt nam. Hàng dệt may Việt nam xuất khẩu Mỹ bao gồm các chủng loại như là sơ mi nam, quần âu, găng tay, áo jacket… trong các năm từ 1994_1999 xuất khẩu dệt may Viêt nam vào thị trường Mỹ tăng với tốc độ cao. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang thị trường Mỹ đạt 26,3 triệu USD tăng 12,5% so với năm 1997 và tới năm 1999 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đã lên tới 33,02 triệu USD Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Trị giá 2,436 15,092 20,013 23,041 26,343 33,026 Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam vào thị trường Mỹ Đơn vị tính: Triệu USD Tuy nhiên so với lượng hàng dệt may Mỹ nhập qua các năm thì giá trị hàng dệt may của Việt nam xuất vào Mỹ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Hiên nay, hiệp định thương mại Việt_Mỹ vừa được ký kết tạo ra những cơ hội lớn từ phía Mỹ dành cho Việt nam quy chế tối huệ quốc, miễn ía thuế do đó hàng dệt may Việt nam có thể triển vọng tăng nhanh xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Vì giá cả hấp dẫn có thể cạnh tranh với hàng dệt may của các nước khác. Đây là một cơ hội rất lớn dành cho ngành dệt may Việt nam. Sự biến đổi về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu: Bao gồm cả các mặt hàng như quần áo, dệt kim, quần áo may sẵn, khăn mặt, bit tất đen… Hơn nữa sản phẩm may của nước ta không ngừng tăng lên về chất lượng cũng như mẫu mã. Đặc biệt từ năm 1992 trở lại đây những tiến bộ này rất rõ nét, số lượng sản phẩm trong nước tăng lên rõ rệt hàng dệt may xuất khẩu ngoài những mặt hàng truyền thống như quần áo bảo hộ lao động, áo n phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp dệt may gồm hơn 10 chủng loại. Gồm: sợi, vải lụa, vải bạt, jacket… đã có thêm nhiều mặt hàng mới với chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của các thị trường khó tính. Tuy nhiên chủng loại và chất lượng của hàng dệt may xuất khểu vẫn còn nhiều hạn chế. Đáng chú ý là tỷ trọng hàng chất lượng cao trong tổng khối lượng hàng dệt may xuất khẩu vẫn còn nhỏ, nhiều mặt hàng ta chưa sản xuất được . Trong ngành dệt, sản phẩm sản xuất chủ yếu hiện nay là dệt kim. Mặt hàng khăn bông xuất khẩu có thị trường rất lớn nhưng tỷ trọng còn nhỏ bé. Trong ngành may ta mới sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng nhạy cảm, tập trung nhất là những nặt hàng áo jacket, sơ mi nam nữ , áo bảo hộ lao động. Các mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao như comple, veston …. ta chưa đáp ứng được yêu cầu của thụ trường thế giới. Các mặt hàng quần áo dệt kim, vải thun từ nguyên liệu sợi đàn tính cao còn rất ít. Đặc biệt về kiểu mốt may mặc của ta còn rất yếu do chưa đước coi trọng đầu tư cơ sở thông tin về mốt và công tác tiếp cận thị trường hàng dệt may của nước ta hiện nay đa phần được sản xuất và xuất khẩu theo mẫu mã của khách hàng nước ngoài. Tuy nhiên chất lượng hàng dệt may của Việt nam có phần được cải thiện từ chỗ sản xuất các loại sợi chỉ số trung bình (NM40) nay đã nâng lên đến chỉ số bình quân (NM61,22) từ chỗ chúng ta chỉ sản xuất các mặt hàng may mặc trung bình cho Liên xô cũ và các nước Đông âu nay chúng ta đã vươn sang thị trường tư bản và đòi hỏi chất lượng cao như Mỹ, EU… Đặc biệt sản phẩm dệt kim từ chỗ vài loại vải sản phẩm đơn giản mặc nót trong thì nay đã có nhiều chủng loại màu sắc phong phú dùng cho mặc trong, mặc ngoài như áo pull Thành Công, áo T_shirt, áo polo shirt Hà nội, dệt kim Đông Xuân, dệt kim Phương Đông, các loại tất dệt Xuân Đình, dệt Nha Trang….Chất lượng sản phẩm may (áo jacket, sơ mi) và dệt kim (T_shirt, polo shirt) cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại so với các nước trong khu vực như giá cả chưa cạnh tranh được ( đặc biệt so với hàng Trung quốc) vì chi phí sản xuất cao thiết bị nguyên vạt liệu đều nhập khẩu trong khi đó tỷ lệ vải phụ liệu sản xuất trong nước thấp, giá công nhân tuy thấp nhưng năng suất không cao, chi phí khác trong giá thành khá lớn. 3. Khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam: Theresa Guerro_ chuyên viên thuế quan phân ban dệt may tại cửa khẩu Los Angeles, dự kiến hàng khổng lồ từ Việt nam sẽ thâm nhập vào thị trường Mỹ. Khi Campuchia khởi động thương mại với Mỹ trên quy chế quan hệ thương mại bình thường (NTR) đã bùng nổ số hàng dệt may xuất khẩu từ Campuchia vào thị trường Mỹ với nức kim ngach 7,7 triệu USD năm 1996_1997 lên 171 triệu USD năm 1997_1998 , trong khi đó so với Campuchia hàng dệt may Việt nam có nhiều ưu thế hơn… Lạc quan nhưng dè dặt vụ khoa học bộ thương mại cho rằng mặc dù thị trường nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ lớn hơn cả EU, song lâu nay Việt nam mới xuất khẩu được một số loại vải thô, vải cotton, dệt may…. sang Nhật, Canada, EU với kim ngạch không đáng kể chủ yếu là gia công và xuất khẩu hàng may mặc trong đó mặt hàng áo jacket luôn chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đi EU. Nhưng thị trường Mỹ luôn đòi hỏi cập nhật về mẫu mã, chất lượng chủng loại. Ngoài ra, hàng dệt nội địa cũng chưa đáp ứng được yêu cầu nguyên liệu cho may xuất khẩu. Do đó tuy kim ngạch xuất khẩu hàng dẹt may tăng nhanh nhưng lợi nhuận thực tế thu dược lại nhỏ, ước tính chỉ chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Và tính riêng giá trị vải nhập dệt sản xuất gia công hàng may mặc đã lên tới trên dưới 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chưa kể đến các loại phụ liệu may khác mà Việt nam phải nhập khẩu phần lớn từ các nước thuê gia công. Giác độ khác, tuy với hiệp định thương mại Việt_Mỹ giúp hàng dệt may Việt nam vào thị trường này được hưởng giảm thuế suất nhập khẩu từ 45% trước đây xuống 15% (thuế tính trên giá trị hàng hoá chứ không tính riêng phần giá trị gia công ) song ông Lê Quốc Ân chủ tịch hiệp hội dệt may Việt nam vẫn lo ngại rằng sắp tới sự kiện Trung quốc ra nhập WTO thì đâu sẽ là đối thủ rất mạnh trong cạnh tranh về giá hàng hoá bán buôn trên trường quốc tế, nhất là ở Mỹ. Phó tổng giám đốc tổng công ty dệt may Việt nam_Vũ Đức Thịnh_cho hay ngành dệt may Việt nam đang phải nhập nhiều thiết bị, nguyên liệu bông của Trung quếc thêm vào đó tiền lương của công nhân dệt may ở Quảng châu (Trung quốc ) khoảng 45USD/ tháng, ở Trung hoa lục địa là 22 USD/ tháng còn mức lương trung bình công nhân dệt may Việt nam lên tới 1120000 đồng/ tháng (khoảng 79 USD) cho thấy chi phí giá thành của hàng dệt may Việt nam đắt hơn Trung quốc . Do chưa phải là thành viên của WTO nên hàng dệt may Việt nam đang chịu hai bất lợi lớn so với các nước xuất khẩu là thành viên WTO còn bị hạn chế bằng hạn ngạch theo các hiệp định song phương kể cả sau năm 2004 ( thời điểm chế độ kiểm soát nhập khẩu hàng dệt may bằng hạn ngạch được bãi bỏ hoàn toàn cho các nước thành viên WTO ) chịu thuế suất nhập khẩu cao hơn ở nhiều thị trường Do các nước phát triển sẽ tăng cường loại hàng rào phi thuế quan khác để hạn chế bớt việc nhập khẩu sản phẩm từ những quốc gia đang phát triển_ ông Lê Quốc Ân phân tích. Do vậy, từ cơ sở của hiệp định thương mại Việt_Mỹ đích sắp tới phải là gia nhập WTO có như vậy mới giúp tăng được khả năng xuất khẩu sản phẩm dệt may với số lượng lớn trong tương lai. II. Đánh gía chung tình hình thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ Những thuận lợi và cơ hội xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ. 1.1/ Về mặt cơ chế chính sách: Công cuộc đổi mới kinh tế bắt đầu từ năm 1986 đã giúp cho nền kinh tế Việt nam có những phương hướng và động lực phát triển mới. Và trong thời kỳ đổi mới này đã có những chính sách tác động tích cực đến ngành dệt may: Thứ nhất, đó là chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và đặc biệt là sự nới lỏng quy chế thương mại cho phép một số xí nghiệp tổ chức kinh doanh các địa phương được quyền xuất khẩu trực tiếp tạo ra môi trường thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh đối với ngành dệt may. Thứ hai, thông qua các đại hội VI, VII, VIII, Đảng cộng sản Việt nam đã xác định sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu là những mục tiêu quan trọng trong chiến lược đầu tư để chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam ra đời tháng 2/1987 và được sửa đổi đã tạo ra khả năng cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành dệt may nói riêng thu hút được khá lớn vốn đầu tư nhằm mục tiêu phát triển sản xuất. Thứ ba, với chính sách mở cửa nền kinh tế tích cực tham gia quan hệ ngoại giao đa phương hóa chính phủ Việt nam đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dệt may vươn ra chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, nhất là với Mỹ. Khi nước ta kí kết hiệp định song phương Việt_Mỹ giúp ngành dệt may tăng khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm . Hiện nay, sản phẩm nước ta đã có mặt trên 50 nước đã đủ sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả. Thứ tư, chính sách về khuyến khích xuất khẩu. Để khuyến khích xuất khẩu từ nhiều năm nay nhà nước không đánh thuế xuất khẩu vào mặt hàng dệt may hay nói cách khác là áp dụng biểu thuế bằng 0% đối với các mặt hàng dệt may. Đây là mức thuế thấp nhất nhằm tạo điều kiên cho hàng dệt may xuất khẩu được thuận lợi đặc biệt với sự thành lập của hiệp hội dệt may Việt nam có tên giao dịch quốc tế là VINATAS. Hiệp hội dệt may là một tổ chức trung tâm hội nhập đoàn kết giữa các doanh nghiệp trong ngành dệt may cả nước không phân biệt thành phần kinh tế, hoạt động theo điều lệ trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện và trên cơ sở tuân thủ luật pháp của nhà nước. Nhiêm vụ đặt ra cho hiệp hội là nắm bắt kịp thời hoạt động ngành dệt may Việt nam và thế giới, tư vấn các vấn đề về đầu tư kỹ thuật chuyển giao công nghệ liên doanh liên kết quốc tế và thị trường xúc tiến tham gia và hội nhập ASEAN, khu vực và thế giới. Sự ra đời của hiệp hội dệt may sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hợp tác lẫn nhau trong các lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm mua sắm thiết bị vật tư, quản lý nghiệp vụ lao động đào tạo, tư vấn dịch vụ, trao đổi thông tin…vì sự phát triển của ngành dệt may Việt nam. Ngoài ra để đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu chính phủ đã cho phép áp dụng hàng loạt các chính sách và biện pháp sau: Một là, tăng cường hơn nữa quyền kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp Hai là, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn lại thuế doanh thu trả cho nguyên liệu phụ liệu và bán sản phẩm đầu vào Ba là, với luật khuyến khích đầu tư trong nước đã được quốc hội sửa đổi bổ sung vào tháng 5/1998 đã giành thêm một số ưu đãi cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu, trong đó có việc thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu. 1.2/ Về vốn đầu tư và khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Hiện nay có 165 dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực dệt may với tổng số vốn đạt gần 1900 triệu USD, vốn thực hiện 738 triệu USD. Trong đó có 71 dự án về dệt với số vốn đăng ký là 1.577 triệu USD,94 dự án dệt may, vốn đăng ký 269 triệu USD. Đã có 98 dự án đi vào sản xuất tạo việc làm cho 4 vạn lao động với mục tiêu đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn. Chính phủ cùng bản thân các doanh nghiệp ngành dệt may đã có những chính sách thoả đáng trong thời gian qua. Một mặt, nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất , dùng các chính sách hỗ trợ sản xuất và đầu tư chiều sâu (khoa học công nghệ, trình độ quản lý) cho ngành dệt may. Mặt khác thống nhất quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã tạo ra hành lang thông suốt vững chắc cho ngành dệt may phát triển đồng bộ và hiệu quả. Việc đầu tư cho ngành dệt may không khó khăn về là ngành có xuất đầu tư không lớn thời gian thu hồi vốn nhanh, có điều kiện huy động vốn.Việc đầu tư có điều kiện huy động vốn của các thành phần kinh tế cùng tham gia. Hiện nay có 19 nước đầu tư trong lĩnh vực dệt may chủ yếu là các nước Châu á trong đó Đài Loan đứng đầu với 23 dự án, tổng số vốn 56,430 triệu USD, Hàn Quốc 14 dự án với số vốn 21,843 triệu USD, Hồng Kông 11 dự án với mức vốn đầu tư là 19,206 triệu USD. 1.3/ Những thuận lợi về nguồn nhân lực: Nước ta hiện nay có nguồn nhân lực hết sức dồi dào, phong phú. Với dân số cả nước gần 80 triệu người, số người trong tuổi lao động xấp xỉ 34 triệu trong đó phụ nữ chiếm 52% ngành dệt may có nhiều công đoạn thủ công, không đòi hỏi sức lực cao nên rất phù hợp bới nữ giới, với đức tính lao động cần cù sáng tạo. Giá nhân công của Việt nam tương đối rẻ hơn so với các nước khác và đây là thế mạnh để tăng ưu thế cạnh tranh trong giá bán hàng may mặc trên thị trường quốc tế. Những trở ngại và thách thức của hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam đã tăng trưởng không ngừng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu (đứng thứ hai sau dầu thô) Mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực song kim ngạch xuất khẩu dệt may vẫn tăng trưởng đều, đạt 1,45 tỷ USD trong năm 1998, tới năm 1999 đã tăng lên 1,75 tỷ USD và năm 2000 đạt khoảng 1,9 tỷ USD. Tuy nhiên kim ngạch hàng dệt may Việt nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ, một thị trường tiềm năng lớn còn rất nhỏ chỉ đạt 26,4 triệu USD năm 1998 , 48 triệu USD năm 1999 và 60 triệu USD năm 2000. Vì sao vậy? Vì có những trở ngại chính như sau: Nguyên nhân chủ yếu là do hiện nay hàng dệt may của Việt nam khi xuất khẩu vào Mỹ vẫn phải chịu thuế suất rất cao. Tại hội thảo "Xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ " do phòng thương mại và công nghiệp Việt nam phối hợp với công ty công nghệ Việt Mỹ và công ty xuất khẩu dệt may, cùng với sự hợp tác của công ty luật RUSSIN và VECCHI và công ty luật WHITE and CASE phối hợp tổ chức ngày 6/11/2000 tại Hà nội, luật sư FLLEN KERIGAN DRY thuộc công ty RUSSIN &VECCHI cho biết Mỹ có các luật về trách nhiệm đối với sản phẩm có hệ thông ưu đãi phổ cập (GSP) và hiện nay đã có trên 100 quốc gia được hưởng GSP khi hàng xuất khẩu dệt may vào thị trường Mỹ. Cũng cần phải nói rõ rằng các sản phẩm được miễn thuế phải thoả mãn yêu cầu là hàng được xuất khẩu từ chính nước được hưởng GSP và được chế biến toàn bộ sản phẩm hay ít nhất là trên 30% giá trị gia tăng tại chính nước này Trong khi đó hiện nay Việt nam vẫn chưa được hưởng ưu đãi GSP. Việc ưu đãi GSP chỉ được thực hiện sau khi Việt nam đạt được quy chế tối huệ quốc với Mỹ và là thành viên của WTO và IMF. Bên cạnh trở ngại thuế quan để tăng cường xuất khẩu sang thị trường Mỹ hàng dệt may Việt nam phải đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm của Mỹ và các nước xuất khẩu truyền thống vào Mỹ như: Trung Quốc, ấn Độ, và các nước nam Mỹ , đặc biệt là Trung Quốc đang có rất nhiều thế mạnh. Một bất lợi nữa là trong số các mặt hàng của Việt nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ thì hàng dệt may phải chịu mức thuế phí NTR rất cao, gần gấp 2,5 lần so với các nước khác. Thêm nữa cũng cần phải nói lên rằng chất lượng hàng dệt may của Việt nam chưa cao nên đã gặp rất nhiều khó khăn khi thâm nhập vào thị trường Mỹ. III. Bàn về phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường khả năng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ trong những năm tới Định hướng xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ Phương hướng tổng quát: Đảng và nhà nước cùng các cấp lãnh đạo ngành công nghiệp dệt may đã xây dựng được những quan điểm chủ đạo và các mục tiêu quan rrọng về phát triển xuất khẩu hàng dệt may trong thời gian tới. Với mục đích tạo công ăn việc làm cho người lao động và đóng góp một mức tăng trưởng nhanh về doanh thu xuất khẩu . Tổng công ty dệt may và toàn ngành dệt may cần phải thực hiện theo các bước: Một là, phải hoàn thành nhanh chóng kế hoạch tổng thể phát triển ngành dệt may đến năm 2010, xây dựng một chiến lược kinh doanh của toàn công ty trong đó kết hợp với chiến lược thị trường và chiến lược sản phẩm để tập trung đầu tư vào việc thực hiện chiến lược. Hai là, phải không ngừng mở rộng thị trường tại Mỹ . Phải chú trọng đến các mặt hàng mới, mặt hàng chất lượng cao theo tiêu chuẩn ISO 9000 và đa dạng hoá sản phẩm.Phải đẩy mạnh và khuyến khích phương thức giao hàng FOB để dần dần giảm bớt tỷ lệ hợp đồng phụ. Phải đánh giá cao thị trường nội địa. Ba là, phải tăng cường đẩu tư để nâng cao chất lượng vải đảm bảo đủ máy móc và thiết bị sản xuất, nguyên vật liệu thay thế, phát triển các sản phẩm mới và các sản phẩm truyền thống, đưa vào nhiều mẫu mã đẹp. Phải kết hợp giữa khuyến khích đầu tư và mở rộng đầu tư đẩy mạnh đầu tư thông qua các liên doanh và hợp tác trong và ngoài nước để thu hút vốn, công nghệ, thị trường và kỹnăng quản lý nhân sự. Phải tạo nhiều hướng đầu tư hướng tới thành lập các công ty cổ phần để nhanh chóng thực hiện quyền làm chủ của người lao động. Phải thúc đẩy nhanh chóng quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp đã đăng ký và tiến tới cổ phần hoá dần dần toàn bộ hệ thống các doanh nghiệp dệt may trong cả nước. Bốn là, để hoàn thành được mục tiêu tổng công ty cần sớm có một liên đoàn dệt may Việt nam để phối hợp hoạt động và tập trung mọi nguồn lực nhằm đối mặt với những thách thức của sự cạnh tranh khốc liệt trên khu vực và quốc tế. Đồng thời chúng ta cần đề nghị nhà nước tiếp tục hoàn thiện các chính sách trong việc cung cấp nguồn tài chính cho đầu tư và phát triển, giảm thuế, đấu tranh chống nạn buôn lậu, đào tạo nguồn nhân lực , khuyến khích xuất khẩu Phương hướng cụ thể: Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ trong những năm tới chúng ta cần quan tâm tới những vấn đề chính sau: Phải đảm bảo ổn định xản xuất ổn định thị trường. Đặc biệt cần ổn định hạn ngạch được cấp, nếu ngược lại sẽ mất thị trường. Tăng cường kiểm tra kiểm soát đánh giá thực chất việc thực hiện hạn ngạch. Liên bộ chỉ cấp hạn ngạch các chủng loại hàng các năm qua sử dụng hết hạn ngạch Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ tài chính, cơ sở hạ tầng đất đai, lao động… đối với các doanh nghiệp nhỏ , vừa và mới thành lập vì loại hình này thích hợp với kinh doanh xuất khẩu. Hàng năm tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp dệt may có doanh số xuất khẩu hàng năm trên 1 triệu USD để trao đổi thông tin, tìm kiếm giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may. 2. Một số giải pháp và chiến lược Marketing Trong năm 2001 ,ước tính kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta đạt 2,1 tỷ USD ,trong đó tập trung chủ yếu vào thị trường Eu và Nhật Bản .Còn với thị trường mỹ thì rất khiêm tốn (chỉ khoảng vào 70 triệu USD).Nguyên nhân cơ bản khiến các doanh nghiệp việt nam khá trầy trật khi xuất khẩu vào mỹ là do chưa được hưởng qui chế tối huệ quốc cho nên thuế nhập khẩu rất cao . Hơn nữa xuất khẩu vào mỹ từ trườc đến nay chủ yếu thông qua các đối tác thứ ba như hồng kông ,đài loa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc61018.DOC
Tài liệu liên quan