LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VÀ NGHÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 2
I. Xuất khẩu hàng hoá. 2
1.khái niệm 2
2:Đặc điểm của xuất khẩu. 2
3:Vai trò của xuất khẩu 2
3.1:Đối với nền kinh tế thế giới 3
3.2:Đối với nền kinh tế quốc gia 3
3.3.Đối với doanh nghiệp 5
4.Thông lệ quốc tế của các khối nước, khu vực mậu dịch tự do 5
4.1. Tổ chức thương mại thế giới( WTO) 5
4.2 Khối liên minh Châu Âu 7
4.3. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) 10
4.4 Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) 12
5.Chính sách xuất khẩu của Việt Nam 13
II. Ngành dệt may Việt Nam 15
III.Xu hướng cạnh tranh trên thị trường các sản phẩm dệt may thế giới 17
1. Xu hướng phát triển của sản phẩm dệt may trên thế giới 17
2. Xu hướng cạnh tranh sản phẩm dệt may trên thị trường thế giới 18
CHƯƠNG II 20
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM 20
I.Thực trạng và xu hướng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 20
1. Các thị trường xuất khẩu chính 23
1.1 Thị trường Mỹ 23
1.2 Thị trường EU 24
1.3 Thị trường Nhật Bản 26
1.4 Các thị trường khác 27
2. Những đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam 27
2.1 Ngành dệt may Trung Quốc 27
2.2 Ngành dệt may ấn Độ 29
II. Cơ hội, thách thức của ngành dệt may Việt Nam 30
1. Cơ hội của ngành dệt may Việt Nam 30
2. Những thách thức lớn đối với ngành dệt may Việt Nam 31
III. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may. 32
1. Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu 32
2. Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn 32
3. Nâng cao hiệu quả gia công 32
4. Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm 32
5. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu 33
KẾT LUẬN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
37 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam: Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển các dịch vụ như: tự do cung cấp các dịch vụ, tự do chuyển tiền bằng điện tín, công nhận lẫn nhau về cả các văn bằng.
Lưu chuyển tự do vốn: được áp dụng chính sách tháo dỡ tất cả các hạn chế về ngoại hối, thống nhất luật pháp và nguyên tắc quản lý thị trường của các thành viên, thanh toán tự do.
Tuy chính sách thương mại nội khối có một quy tắc hoạt động chung nhưng thực tế chưa hoàn toàn, cộng thêm những khác biệt về văn hoá giữa các nước thành viên nên nhiều công ty nước ngoài hiểu lầm thị trường Châu Âu có nhiều mặt đồng nhất do đó đã phải chịu nhiều thất bại.
*Chính sách ngoại thương:
Trong sự phát triển kinh tế của EU, ngoại thương đã đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó đã đem lại sự tăng trưởng kinh tế và tạo ra việc làm trong các ngành sản xuất, dịch vụ. Chính sách ngoại thương của EU được xây dựng trên những nguyên tắc:
-Không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng.
-Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan và hạn chế về số lượng hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
Chính sách thương mại và đầu tư của EU bấy lâu nay chủ yếu nhằm vào các thị trường truyền thống có tính chiến lược là Châu Âu và Châu Mỹ. Châu á thì chính sách thương mại mới hình thành. Trong khi đó EU coi Việt Nam không phải là nền kinh tế thị trường nên gần như Việt Nam không được hưởng ưu đãi của EU dành cho các nước đang phát triển.
*Bốn nguyên tắc khi thâm nhập thị trường EU:
- Nắm được thị hiếu của người tiêu dùng:
+Tính đa dạng của thị trường( 4 mùa, lứa tuổi ,khu vực)
+ Không phải “có cầu mới có cung”, phải chuyển sang cách nghĩ “cung tạo ra cầu”.
+ Chuẩn bị nhiều chủng loại sao cho phong phú, đa dạng…để đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng các nước thành viên EU.
-Nguyên tắc hạ giá thành sản phẩm:
+ Gía sản phẩm tại thời điểm hàng cập cảng của một nước thành viên( tính cả chi phí vận chuyển và thuế)
+Đối thủ cạnh tranh là quốc tế ( Trung Quốc và ASEAN)
+ Thị trường quyết định giá cả( vì người tiêu dùng EU không nghĩ đến giá cả là quan trọng nhất mà là thương hiệu của sản phẩm)
-Đảm bảo thời gian giao hàng.
-Duy trì chất lượng sản phẩm.
4.3. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
Để xây dựng ASEAN thành khu mậu dịch tự do ( AFTA) các nước thuộc khối khu vực đã thông qua 9 chương trình hợp tác kinh tế:
-Chương trình hợp tác thương mại: Sự hợp tác thương mại của ASEAN được thực hiện trong 5 chương trình :
+ Chương trình xây dựng ASEAN trở thành khu vực mậu dịch tự do bằng thực hiện kế hoạch thu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung – CEPT : Thực chất của chương trình CEPT là các nước thành viên ASEAN đạt được sự thoả thuận giảm thuế quan chung xuống còn ở mức 0% - 5% trong thương mại nội bộ các nước ASEAN .
+Chương trình hợp tác hàng hoá: Thành lập ngân hàng dữ liệu ADBC và dự án nghiên cứu thị trường hàng hoá.
+ Hội chợ thương mại ASEAN: Thực hiện hàng năm luân phiên các nước với sự tham gia nhiều nước trong và ngoài khu vực.
+ Chương trình tham khảo ý kiến tư nhân: Do phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN thực hiện.
+ Chương trình phối hợp lập trường trong các vấn đề thương mại quốc tế có tác động đến ASEAN nhằm bảo vệ quyền lợi của các nước ASEAN trên trường quốc tế.
-Chương trình hợp tác trong lĩnh vực hải quan:
+ Thực hiện thống nhất phương pháp định giá tính thuế hải quan giữa các nước ASEAN.
+Thực hiện hài hoà các thủ tục hải quan trong 2 lĩnh vực : Mộu khai báo CEPT chung và đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu ở nhiều khâu.
+ Thực hiện áp dụng một danh biểu thuế hài hoà thống nhất của ASEAN.
Chương trình hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp : Từ khi thành lập ASEAN đến nay đã có nhiều chương trình hợp tác giữa các nước thành viên trong lĩnh vực công nghiệp. Ví dụ, chương trình hợp tác công nghiệp AICO đã khuyến khích liên kết sản xuất giữa các xí nghiệp của các nước ASEAN, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của ASEAN. Các sản phẩm được sản xuất bởi các xí nghiệp tham gia chương trình AICO được hưởng mức ưu đãi thuế quan tối ưu của chương trình CEPT và các chính sách phi thuế khác do từng nước quy định.
Chương trình hợp tác trong lĩnh vực nông, lâm. ngư nghiệp và lương thực.
Chương trình hợp tác về đàu tư: Để các nước ASEAN tăng cường đầu tư vào nhau và thu hút vốn từ các khu vực khác họ đã cùng nhau ký kết hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN và ký hiệp định về thành lập khu đầu tư ASEAN - AIA.
Chương trình hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ với mục đích :
+ Đẩy mạnh hợp tác giữa các nước thành viên ASEAN trong lĩnh vực dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, đa dạng hoá năng lực sản xuất, cung cấp và phân phối dịch vụ trong nội bộ khối cũng như ra ngoài khu vực.
+ Xoá bỏ đáng kể hàng rào hạn chế thương mại dịch vụ giữa các thành viên.
+ Thực hiện tự do hoá thương mại dịch vụ bằng cách mở rộng và thực hiện sâu sắc hơn những cam kết mà các nước đã đưa ra tại WTO vì mục đích thực hiện khu vực mậu dịch tự do đối với dịch vụ trong ASEAN.
Chương trình hợp tác trong lĩnh vực khoáng sản và năng lượng.
Chương trình hợp tác trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng: Hợp tác trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thuế, kiểm toán và bảo hiểm giữa các nước ASEAN đã đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ cho các hoạt động thương mại, đầu tư và hợp tác công nghiệp trong khu vực.
Các chương trình hợp tác kinh tế khác: Trong các lĩnh vực : giao thông vận tải và thông tin liên lạc; sở hữu trí tuệ; hợp tác trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng…
4.4 Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA)
Hiệp định tự do Bắc Mỹ ( NAFTA) được ký kết vào tháng 10 năm 1993 giữa 3 nước Mỹ, Canada và Mexico, có hiệu lực từ ngày 1/1/1994. NAFTA được đưa vào thực thi đã tạo ra một thị trường hàng hoá và dịch vụ lớn nhất thế giới với số dân khoảng 400 triệu người và GDP thực tế khoảng 9000tỷ USD.
NAFTA được xây dựng trên cơ sở các điều khoản của Hiệp định tự do thương mại song phương được ký kết giữa Mỹ và Canada, có hiệu lực từ ngày 1/1/1989, ngoại trừ điều khoản về xuất xứ hàng hoá. Trong đó, NAFTA yêu cầu loại bỏ ngay lập tức các loại thuế quan của 68% lượng hàng hoá Mỹ xuất khẩu sang Mexico và 49% lượng mặt hàng nhập khẩu từ Mexico. Mỹ và Canada thoả thuận cắt giảm thuế quan từ năm 1989 nên về thực chất chỉ có sự cắt giảm thuế quan giữa Mexico và các thành viên còn lại.
Các thành viên NAFTA đã cam kết chấm dứt các hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài là thành viên của hiệp định, tuân thủ nguyên tắc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức độ cao và tự do hoá thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. Hiệp định này cũng đưa ra các tiêu chuẩn và sự hợp tác trong vấn đề môi trường và lao động. Một cơ sở nữa trong việc thực thi có hiệu quả hiệp định là việc đề ra một cơ chế giả quyết tranh chấp, đây cũng là nguyên tắc được đề xuất trong khuôn khổ WTO sau này. NAFTA được xây dựng bởi những quy định riêng về quản lý quá trình tự do hoá thương mại, những quy định này được bổ sung hoặc thay thế những điều khoản chưa phù hợp ( theo quy định của hiệp định WTO) . Những quy định này tập trung vào các lĩnh vực mua sắm của chính phủ, tiêu chuẩn sản phẩm, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn về viễn thông, đầu tư, quy định về xuất xứ hàng hoá…những lĩnh vực mà các vòng đàm phán của WTO dường như vẫn chưa tìm được đường ra trên tinh thần đồng thuận.
NAFTA cũng đề cập đến việc cắt giảm phi thuế quan, bao gồm hạn chế nhập khẩu, hạn chế số lượng và giấy phép nhập khẩu. Ví dụ, trong vòng 10 năm Mêxico sẽ dỡ bỏ những hạn chế về đầu tư và thương mại trong lĩnh vực sản xuất ôtô. Nhờ việc thực hiện NAFTA, Mỹ sẽ ngay lập tức xoá bỏ hạn ngạch đối với với hàng dệt may của Mêxico.
Theo các lịch trình vạch sẵn, từ ngày 1/1/1998 Mỹ và Canada đã dỡ bỏ toàn bộ các loại thuế đối với những hàng hoá được quy định trong khuôn khổ của hiệp định, đối với Mêxico, những quy định liên quan đến lĩnh vực sản xuất ôtô cũng đã được sửa đổi. Qua đó, NAFTA trở thành một khu vực kinh tế có tính bảo hộ cao.
5.Chính sách xuất khẩu của Việt Nam
* Những luận cứ cơ bản mà các nước đưa ra cho các chính sách thương mại nhằm khuyến khích xuất khẩu là:
- Khuyến khích xuất khẩu cho phép vượt qua sự hạn hẹp của thị trường trong nước, do đó sẽ lợi dụng được tính kinh tế theo quy mô, kinh tế phạm vi và kinh tế mục tiêu ( tăng hiệu quả kinh tế nhờ đa dạng hoá sản xuất )
- Khuyến khích xuất khẩu sẽ thúc đẩy tính hiệu quả trong toàn bộ nền kinh tế nhờ tham gia vào cạnh tranh quốc tế.
Khuyến khích xuất khẩu nhằm phân bổ nguồn lực quốc gia phù hợp với chi phí va lợi nhuận xã hội cận biên, tận dụng tốt hơn lợi thế của đất nước.
Các biện pháp nhằm khuyến khích xuất khẩu bao gồm:
- Trợ cấp xuất khẩu là khoản tiền chính phủ trả cho các nhà xuất khẩu ( công ty hay tư nhân ) đưa hàng hoá ra bán ở nước ngoài. Trợ cấp xuất khẩu có thể được tính theo khối lượng hay giá trị của hàng hoá xuất khẩu.
- Các khoản trợ cấp tín dụng xuất khẩu tương tự như trợ cấp xuất khẩu, nhưng dưới hình thức một khoản.
Ngoài những công cụ chính sách thương mại trên, chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các nước cũng có ảnh hưởng ngày càng quan trọng đối với thương mại quốc tế. Chẳng hạn, chính sách nhằm ngăn chặn việc chuyển đổi ngoại tệ, chính sách quy định và duy trì đồng nội tệ quá cao.
* ở Việt Nam, chính sách khuyến khích xuất khẩu mà Chính phủ đã và sẽ ban hành, cùng với những nỗ lực của toàn ngành dệt may sẽ giúp cho các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam khẳng định uy tín và vị thế thương hiệu của mình trên thị trường thế giới.
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu được thành lập theo Quyết định 195/1999/QD-TTg, do thủ tướng ký ngày 27-9-1999 nhằm tập trung tài chính, hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất và mở rộng trị trường xuất khẩu. Đến tháng 6-2001, Bộ Thương mại đã thống nhất với Bộ Tài chính điều chỉnh, bổ sung vào văn bản hướng dẫn sử dụng Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu mục quy chế chi hoa hồng trong môi giới thương mại. Quyết định này theo đánh giá chung của các chuyên gia trong ngành và doanh nghiệp đã tăng thêm phần tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong việc quyết định các hình thức, mức chi và hạch toán các khoản chi hoa hồng phù hợp với đặc điểm của từng đối tác giao dịch và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Quyết định 46/2001/QD-TTg, ngày 4-4-2001, ban hành quy chế quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá trong 5 năm. Quyết định này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể chủ động bố trí kế hoạch sản xuất và kinh doanh trong thời gian dài, tạo hành lang thông thoáng, tháo gỡ vướng mắc lâu nay mà doanh nghiệp vẫn thường gặp bởi quy chế “xin – cho”. Đồng thời, thực hiện Quyết Định 133/2001/QD-TTg ngày 10-9-2001 của Thủ tướng , Bộ tài chính đã ban hành quy chế hoạt động của quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, để làm căn cứ cho vay và bảo lãnh tín dụng ( kể cả tín dụng xuất khẩu trả chận đến 720 ngày).
II. Ngành dệt may Việt Nam
Sản phẩm dệt may là loại sản phẩm với yêu cầu công nghệ máy móc thiết bị không quá hiện đại và trình độ lao động thấp. Chính vì thế xu hướng chung của thế giới là chuyển dịch sự phát triển sản phẩm của ngành dệt may từ những nước phát triển sang các nước đang phát triển. Việt Nam và một số nước đang phát triển khác đang ở giai đoạn chuyển giao lần thứ tư của công nghệ ngành dệt may thế giới. Với đặc điểm là một nước đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, với trình độ lao động thấp, Việt Nam phù hợp với sự hình thành và phát triển ngành dệt may trong giai đoạn hiện nay.
Tính đến hết năm 2006, cả nước hiện có 800 doanh nghiệp may ( không kể các doanh nghiệp có sử dụng công nghệ may ) hoạt đọng trong tất cả các thành phần kinh tế, trong đó có 115 doanh nghiệp quốc doanh, còn lại là ngoài quốc doanh ( gồm cả tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài).
Bảng 1: Bảng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Năm
Tổng số:
Hàng dệt
Hàng may
Tr USD
Giá trị:
Tỷ lệ%
Giá trị:
Tỷ lệ%
Tr USD
Tr USD
1993
335
4.5
1.34
330.5
98.66
1994
554
12.8
2.31
541.2
97.69
1995
850
5
0.59
845
99.41
1996
1151
8
0.7
1143
99.3
1997
1349
6
0.44
1343
99.56
1998
1350
6.5
0.48
1343.5
99.52
1998
1747.3
7.2
0.41
1740.1
99.59
2000
1847.8
7.7
0.42
1840.1
99.58
Các sản phẩm cơ bản của ngành dệt may Việt Nam là sợi, vải, thành phẩm và quần áo may sẵn. Theo thống kê giai đoạn 1991-2000, quần áo may sẵn tăng trưởng cao nhất, bình quân là 12,15%/năm; sợi tăng trưởng bình quân 7,73%/năm; vải, thành phẩm tăng trưởng bình quân bình quân 3%/năm; quần áo dệt kim tăng trưởn bình quân 2,55%/năm.
Từ đó ta thấy sự tăng trưởng của vải sợi không đủ để sản xuất ra thành phẩm và quần áo may sẵn, do đó kéo theo phải nhập vải nguyên liệu cho công nghệ may.
Bảng 2: Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010
Chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2005
2010
Kim ngạch xuất khẩu
tr USD
2000
3000
4000
Hàng may
1630
2200
3000
Hàng dệt
370
800
1000
Sản lượng
Vải lụa thành phẩm
tr m
800
1330
2000
Sản phẩm dệt kim
tr sp
70
150
210
Sản phẩm may
350
480
720
Sản phẩm may quy chuẩn
580
780
1200
Nguồn: KT&DB
III.Xu hướng cạnh tranh trên thị trường các sản phẩm dệt may thế giới
1. Xu hướng phát triển của sản phẩm dệt may trên thế giới
Ngày nay, khi mức sống của người dân tăng lên thì các yêu cầu về sản phẩm của mỗi người cũng tăng tạo nên xu hướng phát triển chung về sản phẩm dệt may là:
- Hàng dệt may theo phong cách phương Tây sẽ tăng lên.
- Kiểu trang phục công sở sẽ được sẽ được phổ biến.
- Thẩm mỹ của lứa tuổi trung niên và cao niên được cải thiện.
- Hàng may mặc cho trẻ em làm thay đổi khái niệm về tiêu dùng và thiết kế.
- Vải, sợi, phụ liệu, thiết kế và kiểu dáng kỹ thuật sẽ có những bước đột phá.
- Đồ thể thao vẫn được ưa chuộng.
- Hàng may đo vẫn thông dụng.
2. Xu hướng cạnh tranh sản phẩm dệt may trên thị trường thế giới
Sản phẩm dệt may của các nước đang phát triển ở châu á bao gồm cả Trung Quốc ( cả Hồng Kông), Hàn Quốc đang cạnh tranh khốc liệt với các nước Châu Mỹ La Tinh ở các thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn trên thế giới là EU, Mỹ, Nhật Bản, Canada… Trong đó Trung Quốc đang là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới và cũng đang có nhiều lợi thế cạnh tranh. Chẳng hạn, trong năm 2002, EU thực hiện việc xoá bỏ chế đọ thuế quan và chế độ han ngạch cho 48 nước nghèo nhất thế giớivà các nước thuộc thành viên của WTO, trong đó có Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc còn được hưởng thuế MFN của Hoa Kỳ và Nhật Bản đối với hàng dệt may.
Trong xu thế cạnh tranh, các nước phát triển luôn tìm cách thực hiện hiệp định về hang dệt may (ATC) sao cho có lợi thế nhất. Do vậy, mặc dù đã đạt được một số cam kết qua các vồng đàm phán, các nước đang phát triển vẫn phải tiếp tục đối mặt với những hàng rào thương mại ngày càng gia tăng đối với hàng dệt may, bao gồm:
- Các nước đang phát triển tuy có được dỡ bỏ một phần nhưng vẫn phải bị han ngạch đối với một số hàng xuất khẩu.
- Mức thuế trung bình của các nước công nghiệp đối với hàng dệt và may nhập khẩu từ các nước đang phát triển là 11%, cao hơn 3 lần đối với các nước đang phát triển. Điển hình là Bănglađét_ một nước nghèo nhất thế giới chịu mức thuế cao 20% đối với những mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ và Canada.
- Hoa Kỳ và EU đang tìm cách đưa ra những biện pháp tự vệ mới đối với hàng của nhiều nước áp dụng tới cuối năm 2009
Những biện pháp này đang làm tổn hại các nước đang phát triển, vì dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng chiếm trên 10% kim ngạch xuất khẩu của các nước này. Ước tính chỉ riêng Nam á sẽ mất khoảng 3 tỷ USD/ năm do những rào cản thương mại đối với hàng dệt may của các nước giàu có.
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Đơn vị tính: triệu USD
STT
Tên nước
Trị giá
1
Trung quốc
50000
2
ấn Độ
12500
3
Indonexia
8000
4
Thái Lan
6500
5
Băngladét
4000
6
Việt Nam
2000
Nguồn: Bộ Công Nghiệp
Chương II
Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
I.Thực trạng và xu hướng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam đã phát triển hàng trăm năm. Trước những năm 90, thiết bị ngành dệt may dựa vào những thiết bị cũ trước đây chủ yếu do Liên Xô cung cấp. Thị trường tiêu thụ trong thời gian đó chủ yếu là thị trường nội địa. Xuất khẩu các sản phẩm dệt may trong thời gian này chỉ dừng lại vài trăm triệu USD và được thực hiện trong khuôn khổ các Hiệp định và Nghị định thư của nước ta với khu vực Đông Âu và Liên Xô cũ.
Sau sự sụp đổ của thị trường Liên Xô và Đông Âu đầu những năm 90, tuy các doanh nghiẹp ngành dệt may có khủng khoảng trong một thời gian song chính nó cũng là động lực để ngành dệt may tăng cường đầu tư và đi tìm thị trường mới. Từ đây xuất khẩu hàng dệt may bắt đầu tăng tốc.
Năm 1992 là thời điểm vàng, mở ra cơ hội xuất khẩu các sản phẩm dệt may Việt Nam với việc ký kết hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU. Từ năm 1993, hàng dệt may Việt Nam bắt đầu tìm đường ra thế giới, và đến năm 1996, lần đầu tiên, kim ngạch xuất khẩu vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD( đạt 1,15 tỷ USD) . Sản phẩm dệt may, từ vị trí khiêm tốn trong các sản phẩm xuất khẩu chủ lực vào thời điểm trước năm 1990 đã vươn lên vị trí số một trong những năm 1996, 1997 và ổn định ở vị trí thứ 2 từ năm 1998 đến nay ( sau dầu thô ). Năm 2001, Năm 2001, xuất khẩu hàng dệt may đạt 1,96 tỷ USD, gấp 16 lần so với năm 1990.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Đơn vị: triệu USD
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
KNXK 850 1150 1500 1451 1764 1892 1962 3609 4300
Nguồn : Tổng cục Thống kê
Hiện nay, sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam đã có mặt ở trên 100 nước và vùng lãnh thổ tại hầu khắp các châu lục với gần 30 nước ở thời điểm năm 1990.
Năm 2005 đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển của ngành Dệt- May Việt Nam. Đây là năm đầu tiên thực hiện việc bãi bỏ chế độ hạn ngạch giữa các thành viên thuộc Tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) và cũng là năm cuối cùng các sản phẩm dệt may Việt Nam được hưởng chế độ bảo hộ mậu dịch trước khi chúng ta hội nhập hoàn toàn vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ) năm 2006. Cộng thêm việc EU và Canada đã xoá bỏ han ngạch cho Việt Nam từ 1/1/2005 như với 148 thành viên khác đã khiến Việt Nam gặp nhiều khó khăn hơn trong cuộc cạnh tranh với các sản phẩm dệt may của các nước trên thế giới. Đặc biệt từ ngày 7/11/2006 khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, với việc bãi bỏ chế độ hạn ngạch , các nước là thành viên của WTO có thể xuất khẩu không hạn chế sang các thị trường lớn nhất thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản và Canada, điều đó sẽ dẫn tới cán cân trong cuộc chiến trên thị trường xuất khẩu dệt may thế giới sẽ nghiêng hẳn về những nước có lợi thế về nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ như Trung Quốc hay ấn Độ bởi vì hạn ngạch vừa là yếu tố hạn chế nhưng đồng thời nó cũng bảo vệ cho các nhà xuất khẩu hàng dệt may thông qua việc giới hạn lượng hàng dệt may tối đa mà mỗi quốc gia có thể xuất khẩu vào các thị trường kể trên. Do đó, cũng như các nước khác, Dệt May Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với những thị trường khổng lồ Trung, ấn.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, hiện nay Việt Nam đã thiết lập khá ổn định sự có mặt của mình trên thị trường dệt may toàn càu. Ngành công nghiệp dệt may của Việt Nam đã có sức cạnh tranh. Do vậy, vẫn có nhiều cơ hội để vươn lên giành vị trí thứ hai sau Trung Quốc vì các nước nhập khẩu sẽ đa dạng hoá nguồn hàng chứ không chịu lệ thuộc vào nguồn cung cấp duy nhất từ Trung Quốc. Ngoài ra, sản phẩm dệt may cũng đã tạo được sự tin cậy của các nhà bán lẻ quốc tế về chất lượng hàng hoá và thời gian giao hàng. Cho nên, ngành dệt may Việt Nam cần tiếp tục phát huy thế mạnh của mình, nâng cao hơn sức cạnh tranh bằng các biện pháp tích cực như đổi mới công nghệ, đa dạng hoá mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm để đối phó với các khó khăn do quyết định xoá bỏ han ngạch của hàng dệt may.
1. Các thị trường xuất khẩu chính
Bảng 5: Thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may Việt Nam
Đơn vị tính: triệu USD
Thị trường
Năm 2003
Năm 2004
Thay đổi(%)
Mỹ
1973
2474
25.39
EU
580
762
31.38
Nhật Bản
514
513
-0.19
ASEAN
83
114
37.35
Đài Loan
188
194
3.19
Hàn Quốc
67
60
-10.45
úc
21
21
0
Canada
35
48
37.14
Châu Phi
12
20
66.67
Đông Âu
103
69
-33.01
Khác
79
93
17.72
Nguồn: Từ tài liệu của trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư Tp HCM
Ta thấy hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang 3 thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản là lớn nhất.
1.1 Thị trường Mỹ
Sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được chính phủ hai nước ký kết ( năm 2000 và dược quốc hội thông qua năm 2001). Mỹ đã trở thành thị trường lớn, đầy tiềm năng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Theo số liệu của Hải quan Hoa Kỳ, năm 2001, khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ mới chỉ đứng ở vị trí 70 trong tổng số gần 200 nước xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Mỹ, thì đến năm 2002 đã vượt lên xếp thứ 23; năm 2003 bứt phá mạnh hơn, xếp thứ 8 và năm 2004, xếp ở vị trí thứ 6, vượt 64 bậc sau 3 năm. Năm 2004 ngành dệt may Việt Nam chiếm gần 3,5% thị phần nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ với đơn giá xuất khẩu bình quân vượt Trung Quốc và trở thành một trong những nước có đơn giá xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ thuộc loại cao nhất trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này. Cụ thể năm 2001, đơn giá xuất khẩu bình quân là 1,51 USD/m sản phẩm, đến năm 2004 tăng lên 3,14 USD/m sản phẩm; trong khi Trung Quốc giá từ 2,96 USD/m sản phẩm, tụt xuống còn 1,25 USD/ m sản phẩm. Nếu tính những chủng loại hàng ( cat ) nóng nhất trên thế giới như hiện nay vào thị trường Mỹ thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt may vào Mỹ cũng rất mạnh; ví dụ như mặt hàng áo sơ mi dệt kim ( cat. 388/339 ) tính trong 9 tháng đầu năm 2004, Việt Nam được xếp vào vị trí thứ năm trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ; đặc biệt là cat.347/348, Việt Nam xếp thứ hai trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ.
Bên cạnh đó cũng có nhiều điều mà các doanh nghiệp phải rút ra khi xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ : Các doanh nghiệp cần xuất khẩu trực tiếp cho các công ty có đẳng cấp của Mỹ. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam chưa làm được điều này mà phải xuất qua các công ty trung gian ở Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc… Việc xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ phải qua một nước thứ ba gây nhiều bất lợi đối với Việt Nam, bởi các doanh nghiệp phải mất thêm tiền cước phí vận chuyển, tiền chênh lệc giá… và thương hiệu sản phẩm dệt may của Việt Nam sẽ ít được người tiêu dùng ở thị trường Mỹ biết đến.
1.2 Thị trường EU
Theo những đánh giá mới đây của các tổ chức dệt may quốc tế, EU vẫn là khu vực đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc, chiếm 49% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của toàn thế giới. Nhu cầu nhập khẩu hàng năm của EU vào khoảng 110 tỷ USD hàng quần áo may sẵn và hàng dệt các loại, đem đến cơ hội tốt cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Cơ hội này càng trở nên hấp dẫn hơn khi EU đang có xu hướng chuyển nguồn nhập khẩu sang các nước đang phát triển để tận dụng nguồn lao động giá rẻ của các nước này.
Các nước thuộc EU là thị trường trọng điểm đối với hàng may mặc của Việt Nam. Trong nhiều năm, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này luôn đạt được những thành tựu đáng kể về giá trị và thị phần xuất khẩu USD.
Bảng 6 : Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU
Đơn vị : triệu USD
Năm
XK vào EU
Tăng, giảm(%)
2000
650
7.4
2001
745
14.6
2002
720
-3.4
2003
700
-2.8
Nguồn : Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan
Từ năm 2007, khi Việt Nam chính thức là thành viên WTO, hạn ngạch hàng may mặc bị loại bỏ giữa các thành viên của tổ chức này thì hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt hơn so với trước.
Từ ngày 1/1/2005 sẽ có khoảng 165 mã hàng dệt may các loại được tự do xuất vào thị trường EU mà không gặp phải trở ngại nào. Các quốc gia sẽ đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường EU với những lợi thế của riêng mình. Trung Quốc là một đối thủ mạnh nhất trong xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam tại thị trường EU, sau đó là ấn Độ, một số nước ở châu á và các quốc gia vùng Địa Trung Hải. Theo các chuyên gia kinh tế dự báo, xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc sẽ tăng gấp đôi trong năm năm tới, giá hàng dệt may của Trung Quốc thấp hơn giá của các nước EU từ 50-70%, thấp hơn giá của ấn Độ 30% nên đã làm chủ được thị trường này. Trung Quốc đã trở thành nhà cung cấp hàng may mặc số một cho thị trường EU với một số lượng rất lơn, giá thành hạ, chất lượng tốt và đa dạng hoá sản phẩm.
Một vài năm trở lại đây, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam voà thị trường EU giảm, tuy được bỏ hạn ngạch, tức là cơ hội ngang bằng giữa các nước, nhưng tình hình xuất khẩu của Việt Nam giảm như thế thể hiện năng lực cạnh tranh của ta còn nhiều vấn đề.
1.3 Thị trường Nhật Bản
Đối với hàng dệt may, thị trường tiêu duàng Nhật Bản là một thị trường phát triển. Tỷ trọng hàng may mặc nhập khẩu chiếm khoảng 38% tổng khối lượng thị trường hàng may mặc nước này. Các nhà nhập khẩu hàng may mặc vào Nhật Bản đều phải đóng thuế và chịu trách nhiệm về nhãn hiệu hàng hoá. Yếu tố giá cả không phải là quyết định cho thà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0657.doc