Đối với mỗi tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển ISO 9000 do tổ chức tiêu chuẩn quốc tế đặt ra nhằm giúp các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản lý nhằm đạt được các mục tiêu tăng năng xuất và chất lượng sản phẩm, giảm lãng phí và tỷ lệ phế phẩm để duy trì một dạng sản phẩm luôn có chất lượng đồng nhất phù hợp với giá thành. Do đó đối với doanh nghiệp áp dụng hệ thông quản lý chất lượng ISO 9000, người tiêu dùng có thể yên tâm hơn với chất lượng sản phẩm. Nói cách khác ISO 9000 có thể coi như một “ngôn ngữ” để xác định chữ tín giữa người sản xuất với người tiêu dùng, giữa các nghề với nhau, là con đường hội nhập khi các nhà sản xuất thâm nhập vào các khu vực mậu dịch và là sự khẳng định của nhà sản xuất cung ứng các sản phẩm có chất lượng tin cậy. Thực tế cho thấy ở các nước Châu á và Việt Nam, hàng của các doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng hoá của các doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này.
43 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
EU): được đánh dấu từ ngày 18/4/1951 khi 6 nước: Pháp, Bỉ, CHLB Đức, Italia, Hà Lan, Lucxămbua đã đi tới ký hiệp ước thiết lập cộng đồng than thép châu Âu (CECA). Mục tiêu của CECA là đảm bảo việc sản xuất và tiêu thụ than của các nước thành viên trong những điều kiện thống nhất, đẩy mạnh tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ và nâng cao năng suất lao động. Trên cơ sở những kết quả mà CECA mang lại về mặt kinh tế cũng như chính trị, Chính phủ các nước thành viên thấy cần thiết phải tiếp tục con đường đã chọn để sớm đạt được “thực thể châu Âu mới”. Ngày 25/3/1957, hiệp ước thiết lập cộng đồng kinh tế châu Âu (Eropean Economic Community-EEC) và cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu (CEEA) đã được ký kết tại Roma. Trong đó, CEEA chỉ điều chỉnh một lĩnh vực của công nghiệp và kinh tế, nhiệm vụ của nó chỉ là đẩy mạnh việc sáng tạo và phát triển công nghiệp nguyên tử và đảm bảo việc cung cấp nguyên liệu, bảo vệ môi trường EEC bao trùm lĩnh vực kinh tế chung, bảo đảm hoà nhập kinh tế, tiến tới một thị trường thống nhất, tạo ra tự do lưu thông hàng hoá và con người trong toàn khối. Năm 1967, CECA, CEEA,EEC chính thức hợp nhất thành một tổ chức chung gọi là “Cộng đồng châu Âu” (Eropean Community-EC).
2. Đặc điểm của thị trường EU.
2.1. Tập quán, thị hiếu tiêu dùng của thị trường EU.
EU là một thị trường rộng lớn, với 377,3 triệu người tiêu dùng. Thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu chuyển sức lao động, hàng hoá, dịch vụ và vốn giữa các nước thành viên. Thị trường này còn mở rộng sang các nước thuộc Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (Eropean Free Trade Association-EFTA) tạo thành một thị trường rộng lớn trên 380 triệu người tiêu dùng. (Theo nguồn: Tạp chí Nghiên cứu châu Âu )
EU là một trong những thị trường lớn trên thế giới, sở thích và nhu cầu của họ cũng cao, họ có thu nhập, mức sống cao, khá đồng đều và yêu cầu rất khắt khe về độ an toàn của sản phẩm nói chung. Yếu tố trước tiên quyết định tiêu dùng của người châu Âu là chất lượng và thời trang của hàng hoá sau đó mới đến giá cả của đại đa số mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này.
Hàng năm EU nhập khẩu một lượng lớn hàng hoá chủ yếu là hàng tiêu dùng từ các nước đang phát triển như thuỷ sản, dệt may, giầy dép... Nhu cầu nhập khẩu một số sản phẩm tiêu dùng chính của EU từ 1995 đến 1999 được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Nhu cầu nhập khẩu một số sản phẩm tiêu dùng chính của EU từ các nước đang phát triển.
Đơn vị : triệu USD.
Mặt hàng
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
1. Thuỷ sản
326
404
501
623
702
812
895
2. Dệt may
130.638
132.981
134.489
135.834
138.551
139.145
141.452
3. Giầy dép
1.949
2.667
4.364
3.231
4.462
4.225
4.576
* Nguồn: Thống kê hải quan,Vụ xuất nhập khẩu, Bộ thương mại.
Niêm giám thống kê, Tổng cục thống kê (2000)& Tổng cục hải quan.
Số liệu từ bảng 1 cho thấy EU là một thị trường nhập khẩu hàng tiêu dùng rất lớn. Song để vào được thị trường EU, hàng tiêu dùng của các nước đang phát triển phải thoả mãn những điều kiện khá ngặt nghèo.
Đối với hàng giầy dép, thị hiếu của người tiêu dùng trong thị trường EU được đánh giá là khá khó tính và chọn lọc. Yêu cầu về mẫu mốt và kiểu dáng hàng hoá thay đổi nhanh, đặc biệt đối với những hàng thời trang (giầy dép, quần áo...).
2.2. Nhu cầu nhập khẩu hàng giày dép.
EU là một thị trường rộng lớn với hơn 375 triệu dân, nhu cầu tiêu dùng hàng giầy dép rất lớn, vào hàng thứ hai thế giới (sau Mỹ). Thị trường EU có tiềm năng sản xuất và xuất khẩu hàng giầy dép đứng hàng đầu thế giới. Đồng thời, các nước EU cũng đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng giầy dép. ở thị trường EU, người ta có thể thấy đủ các mặt hàng giầy dép từ khắp các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Trung quốc, Singapore...
2.3. Hệ thống phân phối của hàng giầy dép trên thị trường EU.
Trong nền thương mại châu Âu , hệ thống phân phối là yếu tố quan trọng trong khâu lưu thông và xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này. Hệ thống phân phối EU chủ yếu bao gồm các hình thức sau: các trung tâm thu mua, các đơn vị chế biến, dây truyền phân phối, các nhà bán buôn, bán lẻ và người tiêu dùng.
Trong xu hướng hiện nay, nhập khẩu trực tiếp hàng giầy dép vào EU tăng lên do yêu cầu về cạnh tranh trong khâu bán lẻ. Hệ thống bán lẻ ngày càng chiếm ưu thế trong hệ thống phân phối hàng giầy dép vào thị trường EU.
Hàng giầy dép tại các nước EU cơ bản được phân phối qua hệ thống bán lẻ như: Các dây chuyền chuyên doanh hàng giầy dép, các cửa hàng chuyên doanh hàng giầy dép liên nhánh, các trung tâm bán hàng qua bưu điện, các siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập, các kênh tiêu thụ khác.
Với các thị trường khác nhau trong EU, hệ thống phân phối hàng giầy dép lại có sự khác biệt. Nếu như ở Anh, các công ty bán lẻ độc lập chiếm thị phần nhỏ thì kênh phân phối này lại khá phổ biến với các nước phía Nam EU như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia.
Trong các năm tới, hình thức kinh doanh bán lẻ có thể có nhiều thay đổi, đó là sự giảm đi thị phần của các công ty bán lẻ độc lập và tăng lên các loại hình bán lẻ khác. Đồng thời, các nhà xuất khẩu tại các nước đang phát triển châu á, trong đó có Việt Nam sẽ phải đương đầu với sức ép cạnh tranh của các nước Đông Âu và Trung Đông do các nước này có ưu thế hơn hẳn trong khả năng tiếp cận hệ thống bán lẻ của các nước EU.
2.4. Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của EU.
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng rất được bảo vệ, khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua các quy định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, bán hàng tận nhà, nhãn hiệu. Các tổ chức chuyên nghiên cứu đại diện cho giới tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế định chuẩn quốc gia hoặc châu Âu.
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, EU tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng cách không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền.
Ngoài việc ban hành và thực hiện quy chế trên, EU còn đưa ra các Chỉ thị kiểm soát từng nhóm hàng cụ thể về chất lượng và an toàn đối với người tiêu dùng.
2.5. Chính sách thương mại.
EU được coi là một đại quốc gia của châu Âu. Bởi vậy, chính sách thương mại của EU giống như chính sách thương mại của một quốc gia. Nó bao gồm chính sách thương mại nội khối và chính sách ngoại thương.
Chính sách thương mại nội khối: chính sách nội khối tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung châu Âu, xoá bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên giới hải quan( xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan ) để tự do lưu thông vốn, hàng hoá, dịch vụ và vốn, điều hoà các chính sách kinh tế - xã hội của các nước thành viên.
Chính sách ngoại thương: gồm chính sách thương mại tự trị và chính sách thương mại dựa trên cơ sở Hiệp định được xây dựng trên những nguyên tắc sau: không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và đối xử công bằng. Các biện pháp bảo hộ chủ yếu được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn chế về số lượng, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với các nước ngoài khối. Uỷ ban châu Âu (EC) là người đại diện duy nhất cho Liên minh trong việc đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này.
3. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập của EU dành cho các nước đang phát triển.
Hàng hoá từ các nước đang phát triển nếu thoả mãn nhưng quy định của EU sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Một trong những nguyên tắc cơ bản của tổ chức thương mại thế giới (WTO) là không phân biệt đối xử và đối ứng. Nguyên tắc này thể hiện qua việc các nước đối xử tối hụê quốc( Most Favour Nation – MFN). Nhưng do trình độ phát triển kinh tế của các nước thành viên WTO rất khác nhau nên việc tôn trọng nguyên tắc không phân biệt đối xử sẽ làm cho hàng hoá của các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước chậm phát triển ( dưới đây gọi chung là các nước đang phát triển ) không có khả năng cạnh tranh với hàng hoá của các nước phát triển. Do vậy cần phải có biện pháp nới lỏng nguyên tắc trên cho các nước đang phát triển, chiếm đa số trong WTO.
II. Thuận lợi và khó khăn trong hoạt động xuất khẩu giày dép của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU
1. Thuận lợi
Thứ nhất, với các quy định của EU đối với hàng giầy dép xuất khẩu trên, hàng giầy dép Việt Nam có những thuận lợi hơn so với hai nước cạnh tranh trực tiếp trên thị trường EU là Trung Quốc và Indonexia. Về thuận lợi, trong khi hàng giầy dép Việt Nam vẫn được hưởng GSP (mức cao nhất là 11,9%) thì hàng giầy dép của Indonexia đang phải chịu mức thuế chống phá giá của EU (17%).
Thứ hai, các doanh nghiệp VN có lợi thế cạnh tranh là có nguồn nhân lực trẻ, chi phí nhân công thấp. Mặt khác, với một bản chất cần cù siêng năng, nhân công VN có khả năng chịu được những áp lực tốt trong công việc.
Thứ ba, các chính sách mới được dưa ra nhằm khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước cùng với nền kinh tế mở và hội nhập là điều kiện tốt cho các doanh nhiệp xuất khẩu.
Thứ tư, vì đang là một trong ba ngành xuất khẩu mũi nhọn nên các doanh nghiệp giầy dép được sự hỗ trợ từ phía chính phủ bằng các chính sách ưu đãi như: chính sách thuế, mặt bằng sản xuất...
Thứ năm, với một nền kinh tế tương đối ổn định, VN là môi trường tốt cho kinh doanh, điều kiện tốt cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư, yên tâm sản xuất.
Thứ sáu, đồng thời đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nha nước liên tục đổi mới phương cách quản lý kinh tế phù hợp và thích ứng với quá trình hội nhập kinh tế; tạo điều kiện tốt cho các DNXK thi thố tài năng.
Một vài thuận lợi khác mà Việt nam có được như: vị trí địa lý thuận lợi cho lưu thông(Gần biển) và thuộc khu vực đang có sự phát triển nhanh, tham gia AFTA...Sẽ là những điều kiện thuận cho các doanh nghiệp VN nói chung và giày dép nói riêng.
2.Khó khăn
Thứ nhất, vừa qua Trung Quốc đã đạt được việc gia nhập tổ chức WTO, như vậy hàng giầy dép của Trung Quốc vào EU sẽ không phải chịu mức thuế chống phá giá nữa. Mặt khác các doanh nghiệp sản xuất giầu dép xuất khẩu của Trung Quốc và Indonexia có khả năng thiết kế mẫu mã và thâm nhập thị trường EU tốt hơn các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, các DNVN có đến 80% là DN vừa và nhỏ, hầu gết các DN gặp khó khăn về nguồn vốn.
Thứ ba, các doanh nghiệp VN phải đương đầu với các bộ luật như: luật chống phá giá, luật bảo vệ người tiêu dùng, luật bản quyền kiểu dáng mẫu mã. Những nhân tố này còn rất mới và gây bỡ ngỡ cho các doanh nghiệp VN khi tham gia hoạt động xuất khẩu. Để tránh bị theo đuổi kiện tụng do luật bảo vệ nguòi tiêu dùng, các doanh nghiệp xuất khẩu VN cần tuân thủ và chấp hành đúng theo yêu cầu bên đối tác đưa ra.
Thứ tư, sự khác biệt ngôn ngữ cũng là một khó khăn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu VN. Phần lớn các quốc gia thuộc cộng đồng EU dùng tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp. Các hợp đồng đựoc viết bằng tiếng Anh. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản lý DNVN có một trình độ ngoại ngữ giao tiếp tốt.
Thứ năm, hệ thống ngân hàng của VN còn chưa mạnh biểu hiện là khả năng thanh toán và khả năng về vốn cho vay còn chậm và thấp, chưa đủ uy tín để làm trung gian giao dịch, điều đó cản trở sự thanh toán nhanh trong giao dịch XNK.
Thứ sáu, hệ thống thông tin và các trung tâm phân tích thông tin về sự biến động của thị trường ở VN rất yếu và gần như không có. Các doanh nghiệp XK sẽ luôn bị động trước những biến động của thị trường,điều đó thật sự nguy hiểm cho các doanh nghiệp xuất khẩu VN.
Thứ bẩy, thủ tục hải quan VN bị đánh giá là quá phức tạp và yếu kém trong bộ máy quản lý với rất nhiều giấy tờ và thủ tục. Các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và với các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép nói riêng luôn phải chờ đợi tốn nhiều thời gian. Mặt khác còn phải trả cho những chi phí lưu kho và bảo quản, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ khó khăn trong việc thực hiện điều kiên đúng thời hạn trong hợp đồng và nhiều rủi ro khác.
Thứ tám, phương tiên vận tải dung cho hoạt động XNK của VN rất ít và thấp kém về kĩ thuật cũng như khả năng chuyên chở. Các doanh nghiệp xuất khẩu thường phải thuê phương tiện nước ngoài với chi phí cao. Họ luôn bị động về tìm kiếm phương cách vận chuyển.
Thứ chín, các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép VN phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài mà trong nước chưa có nguồn nguyên liệu thay thế. Điều đó đồng nghĩa với việc các DN giày dép VN chỉ tập trung chủ yếu là làm gia công cho đối tác. Lợi nhuận thu về từ gia công nhỏ hơn rất nhiều so với tự sản xuất.
III. Thực trạng hoạt động XK hàng giày dép VN vào EU thời gian qua
1. Kết quả xuất khẩu giầy dép Việt Nam vào thị trường EU.
Kim ngạch xuất khẩu
Biến động chính trị ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu năm 1991 đã làm cho các doanh nghiệp sản xuất hàng giầy dép của Việt Nam mất đi thị trường truyền thống, ổn định trong nhiều năm trước đó. Điều đó tạo ra những khó khăn nhất thời nhưng mặt khác nó cũng thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất giầy dép Việt Nam tự vươn lên bằng nội lực để khẳng định mình. Trong giai đoạn từ 1992 đến nay, các doanh nghiệp sản xuất giầy dép Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc. Từ giai đoạn 1992-1994 tuy Việt Nam chưa ký Hiệp định thương mại với EU song hàng giầy dép Việt Nam đã xuất khẩu được một lượng khá lớn vào thị trường châu Âu.
Nhìn vào bảng 4 (Trang sau) ta có thể thấy kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU từ khi nước ta mở của đến nay ngày càng tăng (tuy có hơi giảm vào những năm gần đây). Năm 1992, khi nước ta mới mở cửa, kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào EU mới chỉ đạt 26 triệu USD thì chỉ một năm sau, con số đấy đã là 119 triệu USD, tăng 357,7%. Và đến năm 1995 kim ngạch xuất khẩu đã đạt tới con số 481,1 triệu USD, tăng 18,5 lần so với năm 1992.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang thị trường châu Âu.
Stt
Năm
Giá trị xuất khẩu
(Tr.USD)
Tốc độ tăng
(%)
1
1992
26
2
1993
119
3.577
3
1994
271
1.277
4
1995
481,3
0.776
5
1996
664,6
0.381
6
1997
1032,3
0.553
7
1998
1043,1
0.01
8
1999
1310,5
0.256
9
2000
1153,7
-0.12
10
2001
1072,4
-0.07
Nguồn: số liệu tổng hợp từ Xuất khẩu nước-Mặt hàng chủ yếu
-Tổng cục hải quan-
Những năm gần đây (2000-2001), tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào EU tăng trưởng âm (năm 2000 tốc độ tăng trưởng là -12% so với năm 1999 và năm 2001 tốc độ tăng trưởng là -7% so với năm 2000), nguyên nhân chủ yếu là do sự quan trở lại của các nước châu á vốn trước đây bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nổ ra ở châu á. Những nước này vốn đã có công nghệ sản xuất giầy dép tốt hơn Việt Nam, nay giá công nhân trong nước lại giảm nên họ có lợi thế về giá. Ngoài ra còn một nguyên nhân quan trọng nữa là việc Trung Quốc mới gia nhập WTO. Thông thường khi một quốc gia chuẩn bị gia nhập WTO thì quốc gia đó sẽ thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu của mình để tạo
Nếu như thời kỳ 1991-1993, xuất khẩu giầy dép đứng hàng thứ 10 trong số các mặt hàng xuất khẩu thì đến năm 1994 giầy dép đã vươn lên hàng thứ 6 và hiện nay giầy dép đứng hàng thứ 3 trong số những mặt hàng xuất khẩu chỉ sau dầu khí và dệt may.
1.2. Các nước nhập khẩu chính hàng giầy dép của Việt Nam trong EU.
Từ năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất hải quan có định mức thuế quan chung cho tất cả các nước thành viên. EU được đánh giá là thị trường khá tương đồng về nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng.. Với hơn 377,3 triệu dân, thị trường EU thực sự là thị trường lý tưởng cho sản phẩm tiêu dùng nói chung và sản phẩm giầy dép nói riêng.
`Bảng 5: Các nước nhập khẩu hàng giầy dép Việt Nam trong EU.
Đơn vị: USD
STT
Nước
1999
2000
2001
1
Ailen
12.577.122
11.662.069
9.899.703
2
Anh
279.064.573
254.485.338
254.201.518
3
áo
4.942.624
2.619.052
5.837.782
4
Bỉ
161.452.626
146.440.850
158.386.498
5
Đan Mạch
9.956.453
9.868.052
11.095.097
6
Đức
230.969.295
192.302.583
214.019.716
7
Hà Lan
174.068.328
125.567.143
157.364.056
8
Hi Lạp
6.387.468
1.782.383
9.610.457
9
Lúcxămbua
6.5267
66.783
22.061
10
Italia
7.307.041
8.453.525
4.498.491
11
Phần Lan
8.746.482
7.433.322
6.916.388
12
Pháp
190.567.362
132.718.615
166.343.582
13
Tây Ba Nha
80.345.422
76.882.504
44.652.055
14
Thuỵ Điển
38.345.345
36.560.315
21.900.965
15
Thuỵ sĩ
7.734.573
6.373.243
7.677.178
Tổng
1.310.529.981
1.153.215.777
1.072.425.547
Nguồn: Xuất khẩu nước-Mặt hàng chính-Tổng cục hải quan.
Từ số liệu bảng 2 cho thấy các nước Anh, Bỉ, Đức, Hà Lan, Pháp là những quốc gia trong EU nhập khẩu một lượng lớn hàng giầy dép của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong đó Anh luôn là nước đứng đầu trong các nước EU về nhập khẩu hàng giầy dép của các doanh nghiệp Việt Nam. Năm 2000, kim ngạch nhập khẩu của Anh là 194.48 triệu USD thì đến năm 2001 là 234.2 triệu USD, tăng 30.7% tiếp theo là các nước Đức, Pháp, Hà Lan. Như vậy, hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU thực chất là chỉ mới thâm nhập chủ yếu vào các nước lớn. Nguyên nhân một phần là do tập quán thị hiếu của người dân, một phần do có mối quan hệ hợp tác hữu nghị từ lâu. Đối với Đức, trước đây Đông Đức đã từng biết tới sản phẩm giầy dép Việt Nam với hàng ngàn người Việt Nam đang làm việc hiện nay tại Đức đã thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ thương mại giữa hai nước. Đối với Pháp, Việt Nam là thành viên của cộng đồng Pháp ngữ nên có nhiều hiểu biết về văn hoá cũng như thị hiếu tiêu dùng của nhau.
Biểu 3: Tỷ trọng các nước nhập khẩu giầy dép Việt Nam trong EU.
(Minh hoạ bảng trên)
2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Nếu trong giai đoạn 1986-1991, hình thức xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp Việt Nam là hình thức xuất khẩu để thực hiện nghị định thư về trao đổi hàng hoá và trả nợ các nước hay gia công mũ giầy cho Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu thì từ năm 1992 đến nay, hình thức xuất khẩu chủ yếu là gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp. Các đối tác của hình thức gia công xuất khẩu là Hàn Quốc, Đài Loan. Hàng giầy dép được sản xuất ở Việt Nam sau đó được xuất sang các nước này để đóng nhãn mác, từ đó đi vào các thị trường tiêu dùng trong EU. Đối với hình thức xuất khẩu trực tiếp, hình thức này được thực hiên dựa trên các đơn đặt hàng của các nước thuộc Liên minh châu Âu như : Đức, Anh, Pháp, Italia... Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu Việt Nam đã có cố gắng trong vệc tìm kiếm và mở rộng thị trường EU để thúc đẩy xuất khẩu bằng hình thức trực tiếp. Bởi hình thức xuất khẩu trực tiếp không chỉ nâng cao giá trị hàng xuất khẩu của doanh nghiệp so với gia công mà còn tạo điều kiện tiếp cận nhu cầu thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng EU.
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam
vào thị trường EU theo hình thức xuất khẩu.
Đơn vị:Nghìn USD
Hình thức xuất khẩu
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Gia công xuất khẩu
360.975
485.158
745.320
752.075
942.249
819.127
754.969
Xuất khẩu trực tiếp
120.325
179.442
286.979
291.024
368.250
334.573
317.434
Tổng
481.300
664.600
1.032.299
1.043.099
1.310.499
1.280.573
1.072.403
Nguồn: số liệu tổng hợp từ các báo cáo về Xuất khẩu nước-Mặt hàng chủ yếu qua các năm-Tổng cục Hải quan.
Biểu đồ 1: Hình thức xuất khẩu vào thị trường EU
( Minh họa số liệu bảng trên)
Số liệu từ bảng 2 và biểu đồ cho thấy, kim nghạch xuất khẩu trực tiếp của các doanh nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu ngày càng tăng. Tuy giai đoạn 2000-2001 có giảm xuống một chút, nhưng so bình quân cả thời kỳ thì vẫn tăng. Nếu năm 1995 chỉ đạt 120.325 Tr.USD thì đến năm 2001 là 317.4304 Tr.USD tăng 197.1054. Trong khi đó hình thức gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn ( Trên 70% ) trong kim ngạch xuất khẩu giầy dép của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường EU.
3. Cơ cấu mặt hàng giầy dép xuất khẩu sang EU.
Hàng giầy dép xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường EU chủ yếu là: giầy vải, giầy thể thao, giầy dép nữ cao cấp, giầy da trong đó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch là giầy vải.
Bảng 7: cơ cấu hàng giầy dép xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU.
Đơn vị : 1000 đôi
Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu
1999
2000
2001
Giầy vảI
40645
40092
26684
Giầy nữ
3547
5415
6745
Giầy thể thao
6315
9853
11724
Dép đi trong nhà
2341
2474
2395
Giầy da
1024
1909
2336
Nguồn: Báo cáo của Bộ thương mại.
Bảng 8: Giá xuất khẩu trung bình giầy dép Việt Nam sang EU.
đơn vị: USD/đôi FOB
1994
1997
2001
Giầy thể thao
6.8
7.8
8.25
Giầy nữ
4.0
4.5
4.72
Giầy vải
2.7
3.5
3.8
Nguồn : Trung tâm thương mại thông tin-Bộ thương mại.
Số liệu từ bảng trên cho thấy, năm 1997 giá hàng giầy dép Việt Nam xuất khẩu sang EU có tốc dộ tăng trưởng khá cao trong đó tốc độ tăng giá cao nhất là giầy vải , đạt 9.14%/năm; giầy thể thao 4.77%, giầy nữ 4.9%; so với năm 1994. Nhưng đến năm 2001, xu hướng dùng giầy vải đang giảm xuống giầy vải tăng 9,01%, giầy thể thao và giầy nữ cao cấp tăng (Giầy thể thao: 5,7%; giầy nữ: 5,2% Nhưng sản phẩm giầy vải có giá trị xuất khẩu thấp hơn so với giầy nữ và giầy thể thao. Điều đó chứng tỏ thị trường EU đã bão hoà với sản phẩm giầy vải, sản phẩm được ưu chuộng trên thị trương EU là giầy thể thao, giầy da, giầy nữ cao cấp.
III. Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian qua.
Thành tựu.
Hoạt động tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp sản xuất hàng giầy dép Việt Nam xuất khẩu trong thời gian qua đã có nhiều tiến bộ so với trước. Các doanh nghiệp sản xuất giầy dép đã chủ động tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế về hàng tiêu dùng được tổ chức hàng năm ở các nước EU để tiếp cận với người tiêu dùng, giới thiệu sản phẩm và tìm đối tác kinh doanh. Các doanh nghiệp cũng rất tích cực tham gia các đoàn khảo sát thị trường EU do nhà nước hoặc thành phố tổ nơi doanh nghiệp đặt trụ sở tổ chức, đặc biệt là ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua các tham tán thương mại Việt Nam tại các nước trong Liên minh châu Âu để tìm kiếm thị trường xuất khẩu, tìm hiểu đối tác...
Cơ cấu sản phẩm giầy dép xuất khẩu đã khá đa dạng. Bên cạnh sản phẩm giầy vải truyền thống, các doanh nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu cũng đã có sự đầu tư vào thiết bị công nghệ sản xuất các chủng loại giầy dép mới như: giầy thể thao, giầy nữ xuất khẩu, giầy da và các sản phẩm khác... Tuy nhiên, tỷ trọng các sản phẩm này trong sản phẩm giầy dép xuất khẩu còn thấp so với giầy vải. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp đã từ bước đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu của mình để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thị trường EU, khai khác triệt để nguồn nguyên liệu trong nước. Nguyên nhân chủ yếu là các doanh nghiệp sản xuất giầy dép đã thấy nhu cầu tiêu thụ của thị trường EU đối với sản phẩm : giày thể thao, giầy nữ, giầy dự án... ngày càng tăng không những thế giá nhập khẩu còn cao hơn sản phẩm giầy vải. Ngoài ra sản phẩm giầy thể thao và giầy nữu xuất khẩu có thời gian chuyển vụ dài hơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể sản xuất liên tục.
Hình thức xuất khẩu chủ yếu mà các doanh nghiệp sản xuất giầy dép Việt Nam đang áp dụng là hình thức gia công xuất khẩu. Tuy hình thức này có những hạn chế nhất định nhưng lại là phương thức phù hợp với giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển của ngành công nghiệp giầy dép mà nhiều nước đang phát triển đã áp dụng thành công. Bởi vì hầu hết các doanh nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu hiện nay đang trong tình trạng hạn chế về vốn, về sáng tác phát triển mẫu mốt và về quản lý để thâm nhập trực tiếp vào thị trường nhập khẩu. Hình thức gia công xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, học hỏi kinh nghiệm quản lý, từng bước tiếp cận với thị trường nước ngoài.
2. Tồn tại.
Có thể nói, bên cạnh những ưu điểm trên, công tác mở rộng thị trường còn hạn chế, trên nhiều thị trường, mối quan hệ với bạn hàng còn lỏng lẻo, hoạt động xuất khẩu nhiều lúc còn mang tính bị động, thiếu định hướng, nhiều khi khách hàng tìm đến các doanh nghiệp chứ không phải các doanh nghiệp tìm đến khách hàng. Một số thị trường mặc dù đã thâm nhập được nhưng còn nhiều bấp bênh. Trong một thời gian dài , việc mở rộng thị trường chưa được đề cao một cách đúng mức. Hoạt động nghiên cứu thị trường diễn ra lẻ tẻ, chưa cập nhật đầy đủ thông tin về sự biến động của thị trường thế giới, có những biến động lớn thì vẫn chậm đưa ra những giải pháp đối phó.
Ngoài ra sức cạnh tranh của hàng giầy dép còn yếu trên thị trường quốc tế. Mới chỉ có một số doanh nghiệp được đầu tư thiết bị công nghệ hiện đại (công ty giày Thăng Long, Giầy Phú Lâm...) còn rất nhiều doanh nghiệp vẫn còn sử dụng các trang thiết bị lạc hậu, cũ kỹ do đó chất lượng, mẫu mã sản phẩm còn thua kém nhiều so với một số hàng giầy dép của một số nước khác như Thái Lan, Trung Quốc...
3. Nguyên nhân của các tồn tại.
3.1. Nguyên nhân chủ quan.
Thứ nhất là: Mặc dù sản phẩm giầy dép là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực và đạt doanh thu lớ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0632.doc