Mục Lục:
I. Lời mở đầu
II. Miêu tả hoạt động kinh doanh
II.1.Giới thiệu công ty .5
II.2.Sản phẩm nước tương Chin-su . 6
III.Phân tích Thị trường.6
III.1 Phân tích môi trường kinh doanh .6
III.2 Phân tích thị trường nước tương tại Mỹ.12
IV. Phân tích SWOT .12
V.CHIẾN LƯỢC KINH DOANH:
V.1.Chiến lược Maketing 16
V.1.1 Chiến lược sản phẩm .16
V.1.2Chiến lược phân phối .17
V.1.3 Chiến lược giá .19
V.1.4 Chiến lược xúc tiến .20
V.1.4.1 Quảng cáo .20
V.1.4.2 Khuyến mãi .20
V.1.4.3 PR .20
V.1.4.4 Đội ngũ nhân viên .20
V.2 Tổ chức thực hiện .21
21 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3394 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu nước tương chin-Su qua thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoản trong luật này là HTS số 9802 theo Hệ thống Hài hoà mới -- trước đây gọi là điều 807 theo Hệ thống Thuế quan cũ của Mỹ. Theo thoả thuận này, thuế chỉ đánh vào phần giá trị gia tăng ở nước ngoài của sản phẩm, không đánh thuế đối với những phần được sản xuất ở Mỹ. Thoả thuận này, được gọi là "hợp đồng phân chia sản phẩm", được sử dụng rộng rãi từ môtô đến sản phẩm bán dẫn, quần áo được may ở nước ngoài sử dụng vải được sản xuất ở Mỹ. Năm 1996, khoảng 8,5% tổng nhập khẩu của Mỹ đã áp dụng theo điều khoản HTS số 9802.
Tính giá hải quan, các quy định khác: Mỹ chấp nhận dùng Hiệp định của WTO về tính giá hải quan làm cơ sở cho Luật tính giá hải quan của Mỹ, quy trình xác định giá trị của hàng nhập khẩu để áp dụng thuế tỷ lệ trên giá trị. Bằng việc tham gia vào hiệp định, Mỹ sử dụng các quy tắc trong Thoả thuận Giải quyết Tranh Chấp của WTO để giải quyết những tranh chấp.
Luật hiện tại của Mỹ coi "giá trị giao dịch" là cơ sở để xác định giá trị của hàng nhập khẩu. Nhìn chung, giá trị giao dịch là mức giá thực tế đã trả hoặc phải trả cho hàng nhập khẩu đó, với một số chi phí bổ sung không bao gồm trong giá đó. Nếu phương pháp tính giá hải quan thứ nhất không được sử dụng, luật quy định phương pháp thứ hai sẽ được sử dụng. Theo thứ tự như sau: 1) giá trị giao dịch của hàng hoá giống hoặc tương tự, 2) giá trị suy diễn; 3) giá trị tính toán.
Luật Hải quan của Mỹ cũng quy định rằng xuất xứ của của sản phẩm phải được giải trình rõ ràng và trung thực. Ðiều này vô cùng quan trọng đối với những sản phẩm muốn vào Mỹ thông qua các chương trình miễn thuế một chiều như GSP, CBI, và ATPA. Ðối với những sản phẩm đủ điều kiện được ưu đãi thuế trong ba chương trình này, ít nhất 35% chi phí sản xuất trực tiếp của hàng này phải nằm trong nước được hưởng lợi.
III.1.3.2. Luật bồi thường thương mại:
Hai đạo luật phổ biến nhất bảo hộ các ngành công nghiệp Mỹ chống lại hàng nhập khẩu không công bằng là Luật thuế bù giá (CVD) và Luật Chống phá giá. Cả hai luật này quy định rằng phần thuế bổ sung sẽ được ấn định đối với hàng nhập khẩu nếu chúng bị phát hiện là được trao đổi không công bằng. Cả hai luật bao gồm những thủ tục tương tự để tiến hành điều tra, ấn định thuế, và sau đó là kiểm tra và có khả năng loại bỏ thuế.
Luật thuế bù giá (CVD): Luật thuế bù giá quy định một khoản bồi thường dưới dạng thuế nhập khẩu phụ thu để bù vào phần trợ giá của sản phẩm nước ngoài, mà việc bán sản phẩm đó ở Mỹ gây thiệt hại các nhà sản xuất những hàng hoá giống hoặc tương tự của Mỹ. Trong hầu hết các trường hợp, phần trợ giá phải bù lại có thể do chính phủ nước ngoài trực tiếp trả, nhưng luật này cũng áp dụng đối với loại trợ giá gián tiếp bị phát hiện sau khi điều tra theo luật thuế bù giá.
Việc điều tra theo luật thuế bù giá thường được tiến hành do có đơn khiếu nại của các ngành công nghiệp trong nước trình lên Bộ Thương mại Mỹ và Ủy ban Thương mại Quốc tế, tuy nhiên Bộ Thương mại có thể tiến hành độc lập một luật thuế.
Bộ Thương mại và Ủy ban Thương mại Quốc tế đều có thể tiến hành điều tra. Bộ Thương mại điều tra để xác định xem có sự trợ giá "chịu thuế" trực tiếp hoặc gián tiếp ở nước hoặc lãnh thổ xuất xứ cho việc chế tạo, sản xuất hoặc xuất khẩu sản phẩm là đối tượng bị điều tra hay không.
Ðiều tra của Ủy ban Thương mại Quốc tế xác định xem việc khiếu nại của ngành công nghiệp Mỹ bị thiệt hại vật chất hoặc đe doạ thiệt hại vật chất, hoặc các cơ sở kinh doanh của một ngành có bị thiệt hại vật chất hay không do hàng nhập khẩu được trợ giá. "Thiệt hại vật chất" được định nghĩa trong luật không phải là những thiệt hại nhỏ, vô hình, hoặc không quan trọng.
Ðể áp đặt thuế bù giá, bộ Thương mại phải xác định phần trợ giá chịu thuế bù giá và Ủy ban Thương mại Quốc tế phải tìm ra những thiệt hại.
Luật thuế bù giá còn đề cập đến cả các loại "trợ giá ngược chiều" -- những hình thức trợ giá cho sản xuất các yếu tố đầu vào được tính vào sản phẩm cuối cùng xuất khẩu sang Mỹ.
Luật chống phá giá: Luật chống phá giá được sử dụng rộng rãi hơn luật thuế bù giá. Thuế chống phá giá được ấn định vào hàng nhập khẩu khi người ta xác định được là hàng nước ngoài được bán "phá giá", hoặc sẽ bán phá giá ở Mỹ với giá "thấp hơn giá trị thông thường". Thấp hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá của hàng nhập khẩu vào Mỹ -- tức là giá mua hoặc giá bán của nhà xuất khẩu -- thấp hơn mức giá của hàng hoá đó ở nước xuất xứ.
Cũng giống như trường hợp theo luật thuế bù giá, các thủ tục chống phá giá được tiến hành khi có đơn khiếu kiện của một ngành công nghiệp hoặc bộ Thương mại tiến hành độc lập.
III.1.3.3 Hệ thống luật cơ bản điều tiết hoạt động nhập khẩu vào Mỹ:
Luật thuế xuất năm 1930: Luật này ra đời nhằm điều tiết hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ, bảo vệ chống lại việc xâm nhập hàng hóa giả, luật này quy định mức thuế rất cao đối với hàng nhập khẩu. Đến nay nhiều điều khoản của luật này vẫn còn hiệu lực, song thuế suất đã được nhiều lần sửa đổi và hạ xuống nhiều.
Luật buôn bán năm 1974: Luật này định hướng cho các hoạt buôn bán. Luật có nhiều điều khoản cho phép đền bù tổn thất cho các ngành công nghiệp Mỹ bị cạnh tranh bởi hàng nhâp khẩu. Đạo luật nầy gây ra nhiều bất lợi chow hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ vì hàng của Mỹ đã được Chính phủ đưng sau lưng bảo hộ.
Hiệp định buôn bán năm 1979: Bao gồm cac điều khoản về sự bảo hộ của chính phủ về các chướng ngại kĩ thuật trong buôn bán, các sửa đổi thuế bù trừ và thuế chống hàng thừa, ế - một loại thuế đánh vào các loại hàng hóa bị cho là có trợ gía hoặc bán phá giá. Hiệp định này được thông qua nhằm mục đích thực hiện một số bộ luật được thương mại vòng đàm phán Tokyo của GATT.
Luật tổng hợp về buôn bán và cạnh tranh 1988: Luật này ủy nhiệm tổng thống Mỹ tham gia vòng đàm phán Uruguay, đồng thời thiết lập thủ tục đặc biệt (Super301) chow phép Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các quyết định không chịu mở cửa chow hàng hóa Mỹ vào và quy phạm quyền Sở hữu trí tuệ của Mỹ.
III.1.3.4. Chính sách thuế của Mỹ:
Hệ thống thuế quan (thuế nhập khẩu) của Hoa Kỳ được xây dựng trên cơ sở hệ thống thuế quan (gọi tắt là HS) của Hội đồng Hợp tác Hải quan, một tổ chức liên chính phủ có trụ sở tai Bruxen. Mức thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ có thể thay đổi và được công bố hàng năm.
Các loại thuế
Thuế theo trị giá: Hầu hết các loại thuế quan của Hoa Kỳ được đánh theo tỷ lệ trên giá trị, tức là bằng một tỷ lệ phần trăm trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu. Ví dụ mức thuế tối huệ quốc năm 2004 đối với chè xanh có hương vị đóng gói không quá 3 kg/gói là 6,4%.
Thuế theo trọng lượng hoặc khối lượng: Một số hàng hoá, chủ yếu là nông sản và hàng sơ chế phải chịu thuế theo trọng lượng hoặc khối lượng. Loại thuế này chiếm khoảng 12% số dòng thuế trong biểu thuế HTS của Hoa Kỳ. Ví dụ, mức thuế MFN năm 2004 đối với cam là 1,9 cent/kg, đối với nho tươi trong khoảng 1,13 – 1,80 USD/m3 hoặc được miễn thuế tùy thời điểm nhập khẩu trong năm. (Xem thêm phần về Thuế Thời vụ dưới đây.)
Thuế gộp: Một số hàng hóa phải chịu gộp cả thuế theo giá trị và thuế theo số lượng. Hàng phải chịu thuế gộp thường là hàng nông sản. Ví dụ thuế suất MFN đối với nấm mã HTS 0709.51.01 áp dụng cho năm 2004 là 8,8 cent/kg + 20%.
Thuế theo hạn ngạch: Ngoài ra, một số loại hàng hoá khác phải chịu thuế hạn ngạch. Hàng hoá nhập khẩu nằm trong phạm vi hạn ngạch cho phép được hưởng mức thuế thấp hơn, trong khi đó hàng nhập vượt quá hạn ngạch phải chịu mức thuế cao hơn nhiều và có hệ quả như cấm nhập khẩu. Mức thuế MFN năm 2002 áp dụng đối với số lượng trong hạn ngạch bình quân là 9%, trong khi đó mức thuế đối với số lượng vượt hạn ngạch trung bình là 53%. Thuế hạn ngạch hiện nay đang được áp dụng với thịt bò, các sản phẩm sữa, đường và các sản phẩm đường.
Thuế theo thời vụ: Mức thuế đối với một số loại nông sản có thể thay đổi theo thời điểm nhập khẩu vào Hoa Kỳ trong năm. Ví dụ, mức thuế MFN năm 2004 đối với nho tươi nhập khẩu trong thời gian từ 15 tháng 2 đến hết ngày 31 tháng 3 là 1,13 USD/m3, trong thời gian từ 1 tháng 4 đến hết 30 tháng 6 là 1,80 USD/m3, và ngoài những thời gian trên được miễn thuế.
Thuế leo thang: Một đặc điểm nữa của hệ thống thuế nhập khẩu của Hoa kỳ là áp dụng thuế suất leo thang, nghĩa là hàng càng chế biến sâu thì thuế suất nhập khẩu càng cao. Ví dụ, mức thuế FMN đối với cá tươi sống hoặc ở dạng philê đông lạnh là 0%, trong khi đó mức thuế đối với cá khô và xông khói là từ 4% đến 6%. Loại thuế này cá tác dụng khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu và hàng sơ chế hơn là hàng thành phẩm.
Các mức thuế
Mức thuế tối huệ quốc (MFN), hay còn gọi là mức thuế dành cho các nước có quan hệ thương mại bình thường (NTR), được áp dụng với những nước thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và những nước tuy chưa phải là thành viên WTO nhưng đã ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ như Việt Nam. Mức thuế tối huệ quốc (MFN) nằm trong phạm vi từ dưới 1% đến gần 40%, trong đó hầu hết các mặt hàng chịu mức thuế từ 2% đến 7%. Hàng dệt may và giầy dép thường chịu mức thuế cao hơn. Mức thuế MFN theo giá trị nói chung bình quân khoảng 4%. Mức thuế MFN được ghi trong cột “General” của cột 1 trong biểu thuế nhập khẩu (HTS) của Hoa Kỳ.
Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) được áp dung đối với những nước chưa phải là thành viên WTO và chưa ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ như Lào, Cuba, Bắc Triều Tiên. Thuế suất Non-MFN nằm trong khoảng từ 20% đến 110%, cao hơn nhiều lần so với thuế suất MFN. Mức thuế Non- FMN được ghi trong cột 2 của biểu thuế HTS của Hoa Kỳ.
Mức thuế áp dụng với Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Hàng hoá nhập khẩu từ Canada và Mexico được miễn thuế nhập khẩu hoặc được hưởng thuế suất ưu đãi thấp hơn mức thuế MFN. Ví dụ, mức thuế MFN năm 2004 áp dụng chung với dưa chuột chế biến là 9,6%, trong khi đó nếu nhập khẩu từ Canada hoặc Mêxicô thì được miễn thuế. Thuế suất ưu đãi đối với hàng nhập từ Canada và Mêxicô được ghi ở cột “Special” của cột 1 trong biểu thuế HTS trong đó (CA) là ký hiệu dành cho Canada và (MX) là ký hiệu dành cho Mêxicô.
Chế độ ưu đãi độ thuế quan phổ cập (Generalized System of Preferences - GSP). Một số hàng hoá nhập khẩu từ một số nước đang phát triển được Hoa kỳ cho hưởng GSP được miễn thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Chương trình GSP của Hoa kỳ thực sự được thực hiện từ 1 tháng 1 năm 1976 với thời hạn ban đầu là 10 năm. Từ đó đến nay, chương trình này đã được gia hạn nhiều lần với một số sửa đổi.
Theo luật Hoa Kỳ, Tổng thống bị cấm không được cho nước cộng sản hưởng GSP trừ phi (a) các sản phẩm của nước đó được hưởng đối xử không phân biệt (MFN); (b) nước đó là thành viên của WTO và là thành viên của Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF); và (c) nước đó không bị thống trị hoặc chi phối bởi cộng sản quốc tế.
Hàng năm, trên cơ sở đề xuất của Đại diện Thương mại Hoa kỳ (USTR) sau khi tham khảo ý kiến công chúng, Uỷ ban Thương mại Hoa kỳ (ITC), và các cơ quan hành pháp; Tổng thống quyết định những mặt hàng và những nước đựợc hưởng GSP. Để đuợc miễn thuế nhập khẩu theo chế độ ưu đãi này, (1) hàng phải được nhập trực tiếp từ nước hưởng lợi vào lãnh thổ hải quan Hoa Kỳ và (2) trị giá hàng hoá được tạo ra tại nước hưởng lợi phải đạt ít nhất 35%.
III.1.4. Môi trường văn hóa – xã hội:
4.1 Ngôn ngữ: Mặc dù Hoa Kỳ không có ngôn ngữ chính thức ở cấp liên bang, tiếng Anh là ngôn ngữ quốc gia.
Năm 2003, khoảng 215 triệu người hay 82 phần trăm dân số tuổi từ 5 trở lên nói chỉ tiếng Anh ở nhà. Tiếng Tây Ban Nha, có trên 10 phần trăm dân số nói ở nhà, là ngôn ngữ thông dụng thứ hai và được dạy rộng rải như ngôn ngữ ngoại quốc. Các di dân muốn nhập tịch phải biết tiếng Anh. Một số người Mỹ cổ vũ việc biến tiếng Anh thành ngôn ngữ chính thức của Hoa Kỳ vì nó là ngôn ngữ chính thức tại ít nhất 28 tiểu bang.
Dù tồn tại đa ngôn ngữ nhưng tiếng Anh vẫn là ngôn ngữ chình thức 214,8 triệu người sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp hằng ngày (năm 2003).
Bang California có số người Việt đông nhất nước Mỹ, ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Việt và tiếng Anh. Quận Cam là quận đông dân đứng thứ nhì tại tiểu bang này và thứ năm toàn quốc.
4.2 Tôn giáo: Chính phủ Hoa Kỳ không kiểm soát tín ngưỡng của người Mỹ. Trong một cuộc thăm dò tư nhân thực hiện năm 2001, 76,7 % người Mỹ trưởng thành tự nhận mình là người Kitô hữu, giảm từ 86,4% trong năm 1990. Các giáo phái thuộc Tin Lành chiếm 52 phần trăm trong khi Công giáo La Mã từng là giáo phái riêng biệt lớn nhất chiếm 24,5 phần trăm.
Tại tiểu Bang California tồn tại chủ yếu 2 tín ngưỡng là Phật giáo và Công giáo. Sinh hoạt các tôn giáo rất phong phú và đa dạng, nhiều chùa Phật giáo và giáo xứ Công giáo được xây dựng khắp nơi. Từ năm 1978, Đại Hội Thánh Mẫu của người Công giáo tổ chức hàng năm vào mùa hè tại Carthage, Missouri quy tụ khoảng 60 hay 70 ngàn người hành hương mỗi kỳ. Người dân ở đây sống rất phóng khoàng và có xu hướng hội nhập cao, họ sằn sàng chấp nhận các sản phẩm mới miễn là chúng tốt và giá cả hợp lí. Vấn đề tôn giáo không ảnh hưởng nhiều đến việc sử dụng nước tương hay việc ăn kiêng của người dân.
4.3 Giáo dục: Giáo dục Công lập Mỹ do chính quyền địa phương và tiểu bang đảm trách và được Bộ Giáo dục Hoa Kỳ chi phối bằng những qui định hạn chế về trợ giúp của liên bang. Trẻ em bắt buộc đi học tại đa số các tiểu bang từ sáu hoặc bảy tuổi cho đến khi được 18 tuổi.Trong số người Mỹ tuổi từ 25 và lớn hơn, 84,6 phần trăm tốt nghiệp trung học, 52,6 phần trăm học đại học, 27,2 phần trăm có bằng cử nhân, và 9,6 phần trăm có bằng trên cử nhân. Tỉ lệ biết chữ cơ bản là khoảng 99 phần trăm. Liên Hiệp Quốc cho Hoa Kỳ một chỉ số giáo dục là 99,9 bằng với 20 quốc gia khác vì có điểm số cao.
Do đó có thể nói rằng người tiêu dùng Hoa Kỳ rất hiểu biết, am hiểu về sản phẩm đang sử dụng và sẽ luôn có sự lựa chọn khôn ngoan về sản phẩm sẽ sử dụng
4.4 Chăm sóc sức khỏe: Hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ vượt mức chi tiêu bất cứ quốc gia nào khác, tính theo cả số chi tiêu cho mỗi đầu người và phần trăm GDP.. Thói quen mua hàng tại những nơi uy tín và đảm bảo chất lượng của người Mỹ đã tạo ra một áp lực cạnh tranh rát lớn cho các nhà bán lẻ tại đây. Sản phầm muốn được người tiêu dùng Mỹ chấp nhận thì phải tuyệt đối bảo đám về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và vấn đề bảo quản.
4.5 Văn hóa: Hoa Kỳ là một quốc gia đa văn hóa, là nơi sinh sống của nhiều nhóm đa dạng chủng tộc, truyền thống, và giá trị. Nói đến văn hóa chung của đa số người Mỹ là có ý nói đến "văn hóa đại chúng Mỹ." Đó là một nền văn hóa Tây phương phần lớn là sự đúc kết từ những truyền thống của các di dân từ Tây Âu, bắt đầu là các dân định cư người Hà Lan và người Anh trước tiên. Văn hóa Đức, Ireland, và Scotland cũng có nhiều ảnh hưởng. Một số truyền thống của người bản thổ Mỹ và nhiều đặc điểm văn hóa của người nô lệ Tây Phi châu được hấp thụ vào đại chúng người Mỹ. Sự mở rộng biên cương về phía tây đã đưa người Mỹ tiếp xúc gần đến nền văn hóa Mexico, và sự di dân mức độ lớn trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 từ Nam Âu và Đông Âu đã mang đến thêm nhiều yếu tố văn hóa mới. Sự di dân gần đây hơn từ châu Á và đặc biệt là từ châu Mỹ Latinh có nhiều ảnh hưởng rộng lớn. Kết quả sự trộn lẫn các nền văn hóa lại với nhau có thể có đặc tính như là một cái nồi súp nấu chảy mọi thứ văn hóa thành một thứ văn hóa chung
Theo Điều tra Dân số Hoa Kỳ 2000, có 1.122.528 người tự nhận là thuần gốc Việt và 1.223.736 khi tính thêm các người Việt lai với các chủng tộc khác. Trong số đó, 447.032 người (39,8%) sống ở California và 134.961 (12,0%) sống ở Texas. Nơi người gốc Việt sống đông nhất bên ngoài nước Việt Nam là Quận Cam tại California, có 135.548 người Việt. Những công ty người Việt có ở khắp nơi tại Westminster và Garden Grove, còn được gọi là khu Sài Gòn Nhỏ (Little Saigon): tại Westminster họ chiếm 30,7% dân số và tại Garden Grove họ chiếm 21,4% dân số. Đây là một cơ hội lớn để các các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm cơ hội xuất khẩu các mặt hàng phục vụ cho cộng đồng người Việt tại Mỹ. Cộng động người Việt tại Mỹ vẫn còn lưu dữ những nét văn hóa truyền thông của người Việt như hàng năm, vào ngày Tết Nguyên Đán, mọi người quay quần bên nhau để thăm hỏi và chức sức khỏe, thói quen nấu các món ăn Việt vẫn còn phổ biến trong cộng đồng. Đây là một đặc điểm quan trọng để chúng ta làm trỗi dậy lòng tư hào dân tộc và việc sử dụng các món ăn Việt phổ biến hơn.
III.2. Phân tích thị trường nước tương tại Mỹ
III.2.1. Mức độ phù hợp của sản phẩm :
Về cơ bản, không phải thay đổi gì nhiều về sản phẩm, công thức chế biến vì đó là đặc trưng của sản phẩm. Chỉ cần thay đổi bao bì, nhãn mác để phù hợp với các yếu cầu của pháp luật Mỹ
III.2.2. Quy mô và tiềm năng thị trường :
Khách hàng mà công ty đang hướng đến là người Việt đang định cư ở Mỹ hay người Việt đang lưu trú tại Mỹ. Với trên 1,5 triệu người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ, số Việt kiều tại Mỹ chiếm khoảng một nửa số Việt kiều trên thế giới. ( cụ thể :1.521.353 theo thống kê năm 2005 ). Mỗi gia đình có trung bình 3,8 người, so với 3,2 người cho người Mỹ nói chung. Đặc điểm của nhóm khách hàng này là có thu nhập khá cao so với người Việt Nam. Số tiền thu nhập cho mỗi đầu người Mỹ gốc Việt hàng năm là 20.074 đô la, thấp hơn con số 26.688 đô la cho mỗi người Mỹ. Với cuộc sống ở một nước phát triển, không phải là giá cả mà chất lượng là điều mà họ quan tâm hàng đầu.Trong khi đó, đây là thị trường chưa được đáp ứng nhu cầu một cách tốt nhất
Mặt khác sản phẩm nước tương Chin-su thuộc mặt hàng tiêu dùng với giá trị không quá cao ( như các sản phẩm ô tô, máy lạnh...) nên lượng cầu ít co giãn theo giá và thu nhập. Do đó khủng hoảng kinh tế, thu nhập giảm nhưng vẫn không ảnh hưởng nhiều đến lượng cầu nước tương của cộng đồng người Việt ở Mỹ.
Do đó xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường nước tương của sản phẩm nước tương cao cấp Chin-su là rất khả quan
III.2.3.Phân tích cạnh tranh :
i)Các đối thủ canh tranh hiện tại :
Tại Việt Nam, có khoảng 22 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nước tương và nước chấm. Nhưng hầu hết quy mô còn nhỏ, chưa có được thương hiệu, uy tín chất lượng trong thị trường. Đặc biệt sau điều tra về 3-MCPD, nhiều doanh nghiệp phải rút khỏi thị trường vì không đủ khả năng cải tiến quy trình sản xuất. Một số doanh nghiệp nước tương xuất khẩu như Trung Thành, Trung Nam Sơn nhưng với quy mô nhỏ
Thị trường Mỹ đến nay là thị trường tiêu thụ lượng nước tương rất mạnh và chủ yếu là nước tương của Nhật Bản, Trung Quốc. Hiện có tất cả 18 doanh nghiệp sản xuất nước tương tại Hoa Kỳ. Trong đó, Yamasa Corp USA, Kikkoman Food Inc, San-J Intl Inc, Cub Shoyu Brewery Inc, Kamada America, Vietnam Food& Drink Inc, Kikkoman international, Mid Pac Food Inc,...là các doanh nghiệp có doanh thu hàng năm cao nhất.
Có thể thấy một trong các đối thủ mạnh của Chin-su khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ không phải là các doanh nghiệp Việt Nam mà là ‘ Vietnam Food & Drink Inc’. Đây là một công ty tư nhân kinh doanh nước tương và nằm ở Landover, MD, được thành lập vào năm 1979 ở Maryland. Ước tính hiện tại cho thấy công ty này có doanh thu hàng năm là $ 1-2.500.000
ii) Các sản phẩm thay thế : đó là các loại nước sốt khác ( không phải là nước tương nhưng cũng có thể dùng chế biến các món ăn ) như : sốt cà chua, sốt cá...
IV. Phân tích SWOT
IV.1. Strength – S :
IV.1.1. Về sản phẩm :
- Công thức chế biến đặc biêt, đem lại hương vị khác biệt so với tất cả các sản phẩm cùng loại của công ty khác. Bằng chứng thuyết phục đó là sự đón nhận của Thị trường Việt Nam : chỉ trong vòng 7 năm xâm nhập thị trường, nước tương chin su đã chiếm hơn 70% thị phần trong nước và đang phục vụ tốt hơn nữa cho nhu cầu của người tiêu dùng
- Chin-su là sản phẩm của người Việt, do đó hiểu người Việt hơn bất cứ ai. Với hương vị độc đáo, phù hợp với khẩu vị của người Việt đó là một lợi thế lớn của Chin-su so với các đối thủ khác. So với vị mặn của nước tương Trung Quốc hay vị ngọt của nước tương Nhật Bản thì nước tương Chin-su đem đến cho người tiêu dùng hương vị đặc biệt thơm ngon, hợp với khẩu vị của người Việt Nam.
IV.1.2. Về tài chính :
Masan Food có khả năng tài chính rất hùng mạnh. Trên cơ sở báo cáo hợp nhất, số liệu 8 tháng năm 2009 của Masan Group gần như hoàn toàn dựa trên số liệu 8 tháng năm 2009 của Masan Food vì Masan Group là công ty mẹ của Masan Food. Số liệu tài chính của Masan Food như doanh thu, giá vốn hàng bán, cũng như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp gần như giống 100% với số liệu doanh thu, giá vốn hàng bán, cũng như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp
của Masan Group.
IV.1.3. Về sản xuất :
Cty đã đầu tư, thiết kế, xây dựng Công nghệ hiện đại, dây chuyền thiết bị khép kín, tự động hóa cao của AVE - ITALIA.
Tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm HACCP của Châu Âu.
Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000
Hoạt động duy trì năng suất toàn diện TPM.
Đây có thể coi là điểm mạnh của chin su so với các doanh nghiệp sản xuất còn nhỏ lẻ ở Việt Nam và sự khẳng định về chất lượng đối với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài khác
IV.1.4. Về tổ chức :
Doanh nghiệp đã tích lũy đáng kể kinh nghiệm tiếp thị, tìm kiếm khách hàng, thực hiện các hợp đồng xuất khẩu ( đặc biệt là thị trường Nga, Bắc Âu ) ; nắm bắt khá kỹ lưỡng các yếu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm của các thị trường cao cấp
IV.2. Weakness – W :
IV.2.1. Về Marketing: Cạnh tranh xuất khẩu vào Hoa Kỳ gay gắt và quyết liệt. Hoa Kỳ là thị trường lớn, do vậy, cả thế giới hướng vào thị trường này. Việt Nam mới chỉ thực sự thâm nhập thị trường Hoa Kỳ kể từ năm 2002 sau khi BTA ( hiệp định thương mại Viêt Nam – Hoa Kỳ ) có hiệu lực, trong khi đó các đối thủ cạnh tranh của ta đã có hệ thống bạn hàng nhập khẩu và phân phối tại thị trường này từ rất lâu
IV.2.2. Về nguồn nhân lực : Hiện nay, tình trạng thiếu hụt nhân lực có chuyên môn, đặc biệt là các chuyên viên cấp cao ở thị trường Việt Nam, cũng như tình trạng chảy máu chất xám khiến nhân sự luôn là vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Việc có được các người quản lý và nhân viên có kỹ năng và năng lực tại Việt Nam gặp rất nhiều cạnh tranh và có thể công ty, Masan Food và Techcombank sẽ không tuyển dụng hoặc giữ được các nhân sự cần thiết trong tương lai. Bất kì sự thay đổi nhân sự chủ chốt nào trong nội bộ Công ty cũng đều ảnh hưởng lớn đến hoạt động, doanh thu của Công ty.
IV.2.3. Yếu tố sản xuất : Phần lớn nguyên vât liệu được nhập khẩu trực tiếp và thông qua nhà phân phối, nếu Masan Food không thể tìm được nguồn cung nguyên vật liệu với khối lượng và chất lượng phù hợp với nhu cầu sản xuất, hoặc giá cả và điều kiện hợp đồng phù hợp thì năng suất và chất lượng sản xuất chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng, từ đó gây ảnh hưởng cho doanh.
IV.3 Oppotunities - O :
Đối tượng mà nước tương Chin-su đang hướng đến là Việt kiều tại Mỹ. Có thể nói đây là một thị trường tiềm năng bởi số lượng người Việt sang Mỹ định cư ngày càng gia tăng cùng với việc Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại WTO. Điều này cũng mang đến cho Chin-su cơ hội tiếp cận thị trường dễ dàng hơn.
IV.3.1. Người Việt Nam ở Hoa kỳ cũng như những người tiêu thụ nước tương đều quan tâm đến chất lượng sản phẩm, đặc biệt là các chỉ tiêu an toàn với sức khỏe. Trong khi đó, nước tương Chin-su đang hướng đến việc đem lại sản phẩm tốt nhất cho người tiêu dung, vừa hợp khẩu vị, ngon, sạch, an toàn cho sức khỏe. Do đó, Chin-su có nhiều cơ hội là sẽ là sự lựa chọn hàng đầu của kiều bào ta ở Mỹ khi mà đã có vị trí nhất định trên thị trường
IV.3.2.Một cơ hội mở ra cho Masan Food khi quyết định đưa nước tương Chin-su xâm nhập thị trường Mỹ là hiện nay có rất ít doanh nghiệp sản xuất nước tương Việt Nam có uy tín, hội các đủ tiêu chuẩn về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm để xuất khẩu nước tương sang Mỹ.
IV.3.3. Việt kiều ở Mỹ rất tạo điều kiện để phát triển sản phẩm chất lượng cao của Việt Nam. Cộng đồng người Việt ở Mỹ có rất nhiều người thành công trên thương trường, cũng như có nhiều người có trình độ có thể giúp sức cho sự phát triển kinh tế của VN trong các lĩnh vực: Luật Hải quan Mỹ, công nghệ thông tin, pháp luật, các doanh nghiệp Việt Kiều Mỹ sẵn sang giúp đỡ Chin-su trong việc tìm kiếm khách hàng, phân phối sản phẩm… Cộng đồng người Việt sẽ là cầu nối để nước tương Việt Nam Chin-su đến với rộng rãi cộng đồng người châu Á ở Mỹ, những nguwoif có nhu cầu về sản phẩm.
IV.4 Threat – T :
Các nguy cơ mà tập đoàn Masan Group nói chung và sản phẩm nước tương phải đối mặt khi xuất khẩu sang Mỹ là :
IV.4.1. Sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ mạnh sản xuất nước tương của Trung Quốc và Nhật Bản: xét về khả năng tài chính lẫn kinh nghiệm kinh doanh nước ngoài trong lĩnh vực này thì Việt Nam đều yếu hơn các doanh nghệp đối thủ. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam được xếp thứ 67 trên thế giới, thua kém nhiều nước trong khu vưc như: Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines … Nhiều doanh nghiệp còn bị động trong sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường. Doanh thu của một số doanh nghiệp có thể cao nhưng lợi nhuận thu được không tương xứng do tốn kém trong chi phí sản xuất, dây chuyền lạc hậu, năng suất không. Ngành sản xuất nước tương trong nước tuy xuất hiện lâu nhưng chất lượng chưa được nâng cao, chưa tạo ra được thương hiệu mạnh.
Việt Nam vẫn chưa được hưởng mức thuế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xuất khẩu nước tương chin-su qua thị trường mỹ.doc