MỤC LỤC
Phần 1: Lời nói đầu.1
Phần 2: Lí luận chung 1
1. Tiềm năng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam và đặc điểm thị trường Nhật Bản 3
1.1.Tiềm năng sản xuất sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam3
1.2.Đặc điểm thị trường Nhật Bản .6
2. Thực tế hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường NhậtBản 1
2.1.Tình hình thực tế của thuỷ sản Việt Nam năm 2004 11
2.2.Thực tế xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong những năm qua 13
3. Các giải pháp thâm nhập vào thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản .17
3.1.Các giải pháp của chính phủ trong những năm qua 18
3.2.Các giải pháp thâm nhập và thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản 22
Phần 3: Kết luận .29
Tài liệu tham khảo .31
Phụ lục 32
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3371 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đặt mua. DN Việt Nam XK thuỷ sản sang Nhật cần lưu y những thông tin này để thiết lập một mạng lưới kinh doanh, phân phối có hiệu quả cao tại Nhật.
e. Cẩn thận trong việc chọn đối tác
Về thanh toán, có hai hình thức thanh toán thông dụng ở thị trường Nhật Bản, đó là thanh toán bằng chuyển tiền (TTR) và thanh toán qua thư tín dụng (L/C). Với hai hình thức này, các DN Nhật Bản có thể kiểm tra kĩ lưỡng số hàng được giao về số lượng, chất lượng yêu cầu, độ đồng đều về hàng hoá trước khi có quyết định thanh toán. Lô hàng đầu tiên, các DN Nhật Bản thường đặt với số lượng nhỏ để thăm dò khả năng hợp tác, kinh doanh với đối tác. Khi soạn thảo hợp đồng, họ thường trả giá rất chi li. Kinh nghiệm của các DN đi trước cho thấy, khi chào hàng, bên chào hàng chỉ nên đưa ra một vài mặt hàng chủ chốt, độc đáo, dễ nhớ, dễ gây ấn tượng nhất. Tóm lại, xây dựng quan hệ làm ăn với Nhật Bản cần phải bài bản, kiên trì và tạo uy tín.
f. Qui dịnh nhập khẩu chặt chẽ
Cũng như các quốc gia khác, Nhật Bản duy trì chế độ kiểm tra hải quan đối với hàng NK. Tuy nhiên, đối với hàng thuỷ sản, trước khi làm thủ tục hải quan, các mặt hàng này phải được kiểm dịch và kiểm tra vệ sinh thực phẩm. Tuỳ thuộc vào việc thuỷ sản XK có đạt yêu cầu về kiểm dịch và về vệ sinh thực phẩm hay không mà DN có thể được làm thủ tục hải quan tiếp tục hay phải dừng lại (xuất trả lại người gửi, huỷ đi, tái chế cho đến khi đạt yêu cầu…). Các mặt hàng thuỷ sản NK để tham dự hội chợ thì tuỳ vào số lượng và chủng loại sản phẩm, cơ quan hải quan có thể yêu cầu người NK chứng minh là hàng hoá ấy chỉ dùng để trưng bày mà thôi (và không được phát miễn phí tại hội chợ). Nếu DN dự tính là sẽ phát miễn phí cho khách hàng tham dự triển lãm thì cần phải tuân thủ qui trình NK thuỷ sản theo Luật vệ sinh thực phẩm đã nói ở trên.
Đây chỉ là một số nét phác thảo về đặc điểm tiêu dùng và NK thuỷ sản của thị trường Nhật Bản. Các DN thuỷ sản Việt Nam nếu muốn thâm nhập vào thị trường này cần phải nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn nữa thì mới có thể thành công.
2.Thực tiễn hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
2.1. Tình hình thực tiễn của thuỷ sản Việt Nam năm 2004
Đầu năm 2004, ngành thuỷ sản về cơ bản vẫn tăng trưởng so với cùng kì 2003 trên các chỉ tiêu về nuôi trồng, khai thác, chế biến và XK. Tuy vậy, tốc độ tăng trưởng đã chậm lại so với những năm trước đây. Trong 6 tháng đầu năm 2004, giá trị kim ngạch XK ước đạt 972 triệu USD, bằng 37,38% so với cùng kì 2003. Tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt 1.262.465 tấn, bằng 47,64% so với kế hoạch và tăng 2,27% so với cùng kì năm 2003. Sản lượng khai thác đạt 750.280 tấn, bằng 51,74% so với kế hoạch và nuôi trồng đạt 512.185 tấn, bằng 42,68% so với kế hoạch, tăng tương ứng 0,45% và 5,06% so với cùng kì 2003.
a. Về khai thác bảo vệ nguồn lợi
Số lượng tàu đánh cá khai thác ở các vùng nước xa bờ tiếp tục tăng, trong đó một số phát huy được hiệu quả, đặc biệt ở các tỉnh phía nam với nghề lưới kéo, nghề câu cá ngừ đại dương, nghề vây, nghề lưới rê. Các tháng đầu năm được mùa nhưng sản lượng mực, bạch tuộc lại giảm đáng kể. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bức xúc trong lĩnh vực khai thác hải sản liên quan đến an toàn đi biển và xây dựng, triển khai thực hiện các qui định về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, đặc biệt là các vùng biển ven bờ. Hiểu biết về nguồn lợi hải sản chưa đủ cơ sở để hướng dẫn tổ chức khai thác xa bờ cho ngư dân. Giá trị XK làm ra từ sản phẩm khai thác còn quá thấp do mất mùa một số loài cá kinh tế trong 6 tháng đầu năm và thực trạng manh mún của nghề cá ngừ đại dương.
b. Về nuôi trồng thuỷ sản
Trong 6 tháng đầu năm, diện tích chuyển đổi sang nuôi trồng thuỷ sản đạt 35.300 ha, bằng 70,6% kế hoạch năm, đưa diện tích nuôi thuỷ sản của cả nước lên 1.050.300 ha, bằng 98,6% kế hoạch năm. Trên phạm vi cả nước, việc giải quyết nguồn tôm bố mẹ năm nay thuận lợi hơn 2003, về cơ bản đáp ứng nhu cầu nuôi tôm giống. Tuy nhiên, việc quản lí vùng nuôi trồng thuỷ sản vẫn còn yếu kém. Tình trạng tự phát, thiếu tổ chức thực hiện qui hoạch khá phổ biến. Giải quyết thuỷ lợi chưa theo kịp với mở rộng diện tích. Tại một số vùng nuôi tập trung dịch bệnh phát sinh lan rộng với tốc độ khá nhanh có thể do yếu tố môi trường nước.
c. Về chế biến thuỷ sản
Về nguyên liệu chế biến, tôm vẫn là nguyên liệu chủ yếu. Nguồn nguyên liệu từ 6 tháng đầu năm nuôi trồng đạt thấp. Giá tôm nguyên liệu lúc khan hiếm quá cao, trong thời gian từ 6 tháng đầu năm đến nay, khi nguyên liệu dồi dào thì lại giảm trầm trọng ảnh hưởng tới lợi ích người nuôi. Việc quản lí chất lượng nguyên liệu chưa tốt, trang thiết bị kiểm nghiệm và năng lực phân tích chất lượng nguyên liệu thiếu và yếu. Việc bơm tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản gây ra giảm sút chất lượng và uy tín hàng thuỷ sản Việt Nam, song việc xử lí chưa triệt để.
d. Về năng lực chế biến
Các DN chế biến thuỷ sản tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị. Tuy nhiên, tình trạng tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở chế biến trong khi chưa có qui hoạch hoặc có qui hoạch song chưa kĩ.
e. Về thị trường và giá XK
Do ảnh hưởng vụ kiện phá giá tôm của Mỹ, giá trị kim ngạch XK vào Mỹ quí I/2004 giảm 16,5% so với cùng kì. Thị trường Nhật Bản có khả quan hơn, giá trị kim ngạch XK vào Nhật tăng 32,5%, đưa tỉ trọng XK sang Nhật lên 26,2%. Tuy nhiên, việc XK sang Nhật đang tiềm ẩn khó khăn do đòi hỏi truy xuất nguồn gốc và cạnh tranh từ các nguồn cung cấp khác. 6 tháng đầu năm giá trị XK vào EU tăng 36,8%, đưa tỉ trọng XK vào thị trường này đạt 7,8% (tăng 1,9% so với cùng kì). Trong khi đó, khối lượng XK vào các thị trường khác giảm mạnh như Trung Quốc(-51%), Đài Loan-(14,4%), Hàn Quốc (-11,15%). Nhìn chung, giá bình quân XK thuỷ sản các tháng đầu năm thấp so với cùng kì năm ngoái. Vì thế, các nhà NK tìm cách ép giá tôm của ta, chờ vào vụ để ép giá thấp hơn nữa. Thị trường nội địa tăng lên rõ rệt trong những tháng đầu năm với giá cả được cảỉ thiện nhiều.
Tuy tốc độ tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm không cao như từ năm 2003 về trước nhưng giá trị XK và các chỉ tiêu kinh tế xã hội cơ bản của ngành vẫn tiếp tục tăng. Sự gia tăng giá trị kim ngạch XK thuỷ sản gắn liền với việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, nông thôn. Để hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch 2004, nhất là chỉ tiêu kim ngạch XK thuỷ sản, ngành thuỷ sản phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong quản lí và trong sản xuất.
2.2.Thực tiễn xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản trong những năm qua
Là một trong 7 thị trường XK thuỷ sản chính, gồm có: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Hồng Kông, Asean, Đài Loan, Nhật Bản có thể coi là một bạn hàng truyền thống của Việt Nam. Bên cạnh mặt hàng thuỷ sản, Nhật Bản còn NK các mặt hàng khác như dầu thô, cà fê, giày dép, đồ thủ công mỹ nghệ…Tuy nhiên, khối lượng hàng XK của ta mới chiếm một tỉ trọng rất nhỏ so với nhu cầu của thị trường này. Năm 2002, thị phần XK thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản chiếm 4,15%, trong đó con tôm là mặt hàng được ưa chuộng nhất, chiếm 16,68% thị phần, đứng thứ hai sau Indonesia.Sở dĩ hàng XK của ta vào thị trường Nhật Bản chiếm tỉ trọng nhỏ phần lớn là do các DN XK chưa tìm kĩ thị hiếu người tiêu dùng Nhật Bản, chưa nắm rõ những luật lệ cũng như các tiêu chuẩn của thị trường, nhất là chưa đưa được hàng hoá vào hệ thống phân phối ở thị trường Nhật Bản. Hơn nữa, đến nay, hai nước còn chưa đạt được thoả thuận về việc dành cho nhau qui chế MFN trong buôn bán. Tuy Nhật Bản đã dành cho Việt Nam qui chế ưu đãi GSP nhưng những mặt hàng có lợi cho Việt Nam chưa nhiều.
Mặc dù đất nước Nhật có biển bao bọc, trữ lượng nuôi trồng, khai thác rất lớn nhưng hàng năm xứ sở hoa anh đào cũng phải NK khoảng 13 tỉ USD các sản phẩm thuỷ sản mới đáp ứng được đủ nhu cầu tiêu dùng của hơn 125 triệu dân trong nước. Mỗi năm, Nhật Bản NK trên 55% thuỷ sản từ các nước Châu á, trong đó Trung Quốc là nước đứng đầu về cung cấp thuỷ hải sản cho Nhật, với thị phần năm 2002 là 17,99%, tiếp đến là Thái Lan với 7,83%, Việt Nam chỉ chiếm 4,15%. Ngoài ra Nhật Bản còn nhập 9,92% thuỷ sản từ Mỹ và các nước SNG 6,77%.
Với quan niệm: “giàu thì ăn tôm, nghèo thì ăn cá, ăn ghẹ”, người Nhật rất thích ăn các loại hải sản tươi sống, trong đó tôm là mặt hàng dược tiêu thụ rất mạnh. Hàng năm, Nhật Bản đánh bắt được 7.000 tấn tôm các loại, nhưng vẫn còn thiếu nhiều. Vì thế, Nhật phải NK khoảng 90% lượng tôm hùm để thoả mãn được nhu cầu trong nước. Tỷ lệ này tính trên lượng tôm bóc bỏ đầu, nếu tính số lượng số lượng nhập nguyên con thì thị phần này có thể lên đến 98%. Tại Nhật Bản, mỗi năm tiêu thụ khoảng 300- 400 nghìn tấn tôm sú và tôm hùm cả khai thác trong nước và NK. Tôm hùm đen chiếm phần lớn trong sản lượng tôm NK. Trong số này phần lớn được dùng phục vụ cho các quán ăn và tại các gia đình, số nhỏ còn lại dùng trong công nghệ chế biến mì ăn liền. Trước đây, 70-80% tôm các loại dùng cho các cửa hàng bán thức ăn, nhưng do ngày càng phát triển hình thức phân phối đến tận nhà nên tỉ lệ này hiện nay là 50/50. Tuy nhiên, tại các nhà hàng ăn uống thường sử dụng các loại tôm hùm to và tôm hồng cỡ vừa, các gia đình lại hay mua tôm sú đông lạnh và tôm hồng cỡ nhỏ. Còn đối với các nhà chế biến thực phẩm thì thích dùng các loại tôm sú nhỏ hơn. Người dân địa phương thích dùng tôm vào các dịp lễ hội như tuần lễ vàng, lễ hội mùa hè và mừng năm mới. Do đó vào những ngày này thị trường tại đây thường xảy ra tình trạng khan hiếm và giá tôm tăng lên rất cao. Tại khu vực Osaka- tokyo người dân thường dùng tôm như là thức ăn chính trong bữa cơm hàng ngày và dùng nhiều tôm quanh năm hơn so với các vùng khác của Nhật. Năm 2002, Nhật Bản NK 248.900 tấn tôm. Con tôm Việt Nam đến thị trường này ngày càng tăng. Việt Nam đã vượt qua ấn Độ để thành nước cung cấp tôm lớn thứ hai cho thị trường Nhật Bản (chỉ sau Indonesia). Người dân Nhật cũng thích cá không kém gì tôm. Tuy nhiên, họ chỉ nhập một vài loại cá mà tại thị trường nội địa không đủ để cung ứng cho người tiêu dùng. Cũng do một điều khá tế nhị là ăn tôm tuy ngon nhưng lại khá đắt tiền, cho nên nhiều người dùng cá vừa bổ, vừa phù hợp với kinh tế của gia đình. Trong năm 2002, Việt Nam đã XK vào thị trường Nhật Bản 1.537 tấn cá ngừ. Các loại cá ngừ của Việt Nam chỉ chiếm một lệ rất nhỏ trong tổng lượng cá ngừ NK của Nhật Bản nhưng vẫn còn rất nhiều khả năng để tăng XK vào Nhật trong những năm tới. Cũng trong năm 2002, Nhật Bản đã NK từ Việt Nam tổng cộng 13.122 tấn mực và bạch tuộc đông lạnh, với trị giá 6,55 tỉ yên, tăng 7,94% về lượng và tăng 8,32% về trị giá so với năm 2001. Mực nang XK của Việt Nam đã giành được vị trí thứ hai tại thị trường Nhật, sau Thái Lan với tỉ trọng chiếm 15,37% trong tổng lượng NK của Nhật Bản. Nhật cũng NK khoảng 8.000 tấn ghẹ đông lạnh mỗi năm. đến nay, tuy Việt Nam đứng thứ hai sau Trung Quốc nhưng khoảng cách còn rất lớn.
Biểu đồ 1 : Tỷ trọng thị trường xuất khẩu thuỷ sản (theo giá trị) 1998-2001
Cơ cấu thị trường có sự thay đổi lớn từ năm 1998 đến năm 2001. Thị trường Nhật tuy vẫn tăng về giá trị nhưng về tỉ trọng đã giảm dần, từ 42,3% năm 1998 xuống còn 26,14% năm 2001, và từ tháng 8-2001 đã xuống vị trí thứ hai sau Mỹ. Bên cạnh đó, thị trường Trung Quốc và Hồng Kông cũng đã vươn lên chiếm vị trí thứ ba trong cơ cấu thị trường thuỷ sản Việt Nam.
Năm 2003, sản lượng tôm của Việt Nam xuất sang Nhật Bản đã đạt 47.626 tấn, tăng 14,7% so với năm 2002, chiếm tới hơn 60% trong tổng kim ngạch XK thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này. Bên cạnh mặt hàng tôm, Nhật Bản đang là thị trường tiêu thụ mực và bạch tuộc lớn của Việt Nam, chiếm 37% tổng giá trị XK mặt hàng này của Việt Nam. Thêm vào đó, thị trường này cũng rất ưa chuộng và đang tăng cường NK sản phẩm tôm Nobashi PTO. Thành quả trên có được là do có sự giúp đỡ của chính phủ và nhiều nhà DN Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản đã viện trợ qua các dự án như cảng cá Cát Lở, dự án đánh giá nguồn lợi ngoài khơi thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, dự án xây dựng Trung tâm nghiên cứu và phát triển nuôi biển Nha Trang và những dự án hiện đang được nghiên cứu. Năm 2003, để tăng lượng hàng thuỷ sản XK sang Nhật Bản, một trong những thách thức lớn nhất đối với các nhà XK thuỷ sản Việt Nam là đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, giữ vững và củng cố uy tín khi XK sang thị trường này.
Năm 2004, thống kê chính thức của hải quan cho thấy, so với cùng kì năm ngoái, giá trị XK thuỷ sản chính ngạch tháng 7 của cả nước đạt 234,708 triệu USD, tăng 1,1%, nâng tổng kim ngạch 7 tháng đầu năm lên 1,214 tỉ USD, tăng 2,1%. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của việc Bộ thương mại Mỹ áp đặt mức thuế cao trong vụ kiện bán phá giá tôm đã làm giảm kim ngạch XK mặt hàng này sang Mỹ, xuống con 202,374 triệu USD, giảm 23% so với cùng kì. Trong 7 thị trường XK chính của Vịêt Nam thì có 5 thị trường có giá trị sản lượng tăng đáng kể, đặc biệt là EU.
Vasep (Hiệp hội chế biến và XK thuỷ sản Việt Nam) cho biết, XK thuỷ sản sang EU đã tăng 84% so với cùng kì năm ngoái, đạt 123,778 triệu USD.Kim ngạch vào thị trường này dự kiến còn tăng trong những tháng cuối năm do EU đã chính thức công nhận thêm 53 DN Việt Nam được phép XK thuỷ sản vào thị trường này, nâng tổng số DN được cấp phép lên 153 DN. Mới đây, Hàn Quốc đã chấp nhận thêm 25 DN Việt Nam đủ tiêu chuẩn XK. Như vậy, tổng số đơn vị được cấp phép XK vào Hàn Quốc là 222 DN. XK thuỷ sản sang Hàn Quốc 7 tháng đầu năm tăng 31,5% so với cùng kì năm ngoái, đạt 76,920 triệu USD. Một số thị trường khác cũng có tốc độ tăng trưởng khá là ASEAN tăng78%, Nhật Bản tăng 28,3%, Đài Loan tăng 35,6% so với cùng kì năm ngoái. Riêng thị trường Trung Quốc và Hồng Kông lại giảm 20,4% so với cùng kì. Tính đến nay, tổng số DN Việt Nam được phép XK vào Trung Quốc đã lên tới 222, và 61 DN được tạm cấp mã số trong vòng một năm. Trong số các mặt hàng XK chủ lực, mực và bạch tuộc tăng cao nhất, gần 30%, đạt 82,408 triệu USD. Đây là tín hiệu khả quan vì vài năm trước mặt hàng này bị mất mùa và các DN thường xuyên rơi vào tình trạng thiếu nguyên liệu sản xuất. Đứng đầu về kim ngạch XK 7 tháng đầu năm là thị trường Nhật Bản với 378 triệu USD. Hiện nay, Nhật Bản chiếm 31,1% thị phần XK thuỷ sản của Việt Nam trong khi Mỹ chỉ chiếm 24,9%.
Một trong những nguyên nhân làm cho kim ngạch vượt mốc 1 tỉ USD chính là sự phát triển mạnh mẽ của mặt hàng ca tra, basa và kể cả đợt tăng giá tôm sau phán quyết vụ kiện chống bán phá giá. Có một điều nghịch lí mà những ngươi đi kiện bán phá giá không ngờ tới đó là sau vụ kiện, con cá Việt Nam lại được nhiều nước biết tới hơn. Nhiều nhà NK và phân phối của Châu Âu đã biết đến cá tra, basa, giúp tăng lượng XK vào thị trường này lên2,5 lần. XK vào Châu á tăng 70% và đặc biệt là Châu đại dương tăng 3,5 lần so với cùng kì năm ngoái. Thị trường cá tra, basa hiện đã mở được thêm 8 thị trường mới, nâng tổng số lên 40 nước và khu vực. Một năm sau vụ kiện cá tra, cá basa, thị trường Mỹ giờ đây chỉ là một trong nhiều điểm đến của cá da trơn Việt Nam. Trước vụ kiện, các DN Việt Nam XK chủ yếu các sản phẩm philê cá đông lạnh sang Mỹ và vài thị trường khác. Đến nay, ngoài sản phẩm philê đông lạnh, các DN đã XK được nhiều sản phẩm khác chế biến từ cá tra, basa sang các thị trường Châu Âu, Mehico, Canada, Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, Philippin, Đài Loan…, trong đó XK sang thị trường EU là tăng trưởng nhiều nhất. Còn với vụ kiện tôm, ngay sau phán quyết sơ bộ của Bộ thương mại Mỹ, nhiều nhà NK Nhật Bản bắt đầu chào mua. Dù giá chào cao hơn trước, họ vẫn có động thái muốn mua. Hiện giá tôm loại 16-20 con/kg là 11USD/kg, tăng 0,8-09 kg so với tháng trước. Ngay cả một số khách hàng Mỹ cũng muốn mua với khối lượng lớn.Các chuyên gia dự đoán, diễn biến khả quan trên đây có thể tạo điều kiện cho ngành thuỷ sản đạt được mục tiêu đã đề ra cho năm 2004 là 2,6 tỉ USD.
3. Các giải pháp thâm nhập và thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản
3.1. Các giải pháp hỗ trợ của chính phủ trong những năm qua
Trong chiến lược hướng về XK của Đảng và Nhà nước ta, thuỷ sản được xác định là một trong những mặt hàng XK chủ lực. Trong số các thị trường hiện đang NK thuỷ sản của nước ta, Nhật Bản là một thị trường truyền thống. Năm 2000, kim ngạch XK thuỷ sản đạt 1,475 tỉ USD, trong đó kim ngạch XK sang Nhật chiếm khoảng 35%. Vì vậy, trong công tác thị trường, bên cạnh nỗ lực đa dạng hoá thị trường như cố gắng thâm nhập vào thị trường Mỹ, EU…, Nhật Bản vẫn được xác định là một trong những thị trường quan trọng nhất. Hiện nay, các mặt hàng thuỷ sản XK sang Nhật có thể chia thành các nhóm sản phẩm cơ bản sau: sản phẩm tôm, sản phẩm cá, sản phẩm nhuyễn thể và thực phẩm phối chế, đồ hộp thuỷ sản và các loại thuỷ sản khác. Để có thể nâng cao năng suất, chất lượng, từ đó đẩy mạnh XK thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản nói riêng cũng như các thị trường khác nói chung, chính phủ ta đã đưa ra các chính sách, các chương trình hỗ trợ cho ngành thuỷ sản như chính sách miễn thuế XK thuỷ sản, chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2010, chương trình phát triển XK thuỷ sản đến năm 2005…
a. Miễn thuế XK thuỷ sản
Ngày 11/12/19998, Bộ tài chính ra quyết định số 1802/1998/QĐ/BTC ban hành biểu thuế XK, có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999. Trong biểu thuế này thì hàng thuỷ hải sản bao gồm tất cả các loại đều có thuế suất bằng 0%, nghĩa là không có thuế khi XK hàng thuỷ hải sản. Do vậy, không cần phải có điều kiện gì để xin được miễn thuế XK và không phải có loại thuế nào phải nộp khi XK hàng thuỷ hải sản. Ngoài ra, hàng thuỷ sản XK (bao gồm hàng gia công XK, XK ra nước ngoài, XK vào khu chế xuất) nếu có đủ căn cứ là hàng hoá XK thì được áp dụng thuế suất bằng 0% cho thuế GTGT, nghĩa là không phải nộp cả thuế GTGT.
b. Các giải pháp trong chương trình phát triển XK thuỷ sản đến năm 2005
1) Về giống
Đầu tư và sắp xếp lại các cơ sở sản xuất giống tôm, cá. Mở rộng việc nhập giống và các công nghệ sản xuất giống hiện đại, qui mô công nghiệp. Thực hiện chính sách khuyến khích các DN nước ngoài đầu tư sản xuất giống cá biển tại Việt Nam. Đầu tư hoàn thiện các trung tâm nghiên cứu giống hải sản ở một số vùng trọng điểm. Xây dựng, nâng cấp các trại sản xuất giống phục vụ nuôi XK ở các địa phương. Nghiên cứu xây dựng đề án nuôi dưỡng bảo tồn giống loài thuỷ sản bố mẹ.
2) Về thức ăn cho thuỷ sản
Xây dựng các cơ sở sản xuất thức ăn cho thuỷ sản theo công nghệ mới nhằm tăng cường chất lượng thức ăn và hạ giá thành, đảm bảo vệ sinh và phòng chống dịch bệnh, đáp ứng nhu cầu về thức ăn công nghiệp cho nuôi thuỷ sản.
3) Về thị trường
Bộ thuỷ sản chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Bộ thương mại, Ngoại giao trong công tác xúc tiến thương mại và tăng cường công tác thông tin thị trường, tăng cường đào tạo cán bộ thị trường và tiếp thị chuyên nghiệp ở các DN, để giữ vững và ổn định thị trường truyền thống, đặc biệt là thị trường Nhật Bản, đồng thời mở rộng hơn nữa để xuất ra các thị trường lớn như: EU, Mỹ, Trung Quốc…, giảm tỉ trọng các thị trường trung gian, tăng tỉ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp. Đối với thị trường Nhật Bản cần tăng tỉ trọng hàng thuỷ sản tinh chế và phối chế đóng gói nhỏ cho siêu thị, tôm sống, cá ngừ tươi và đông và các đặc sản khác, đưa tỉ trọng thuỷ sản XK chiếm từ 38 - 40% trong tổng sản phẩm XK và giá trị kim ngạch XK đạt từ 760 – 800 triệu USD vào năm 2005.
4) Về khoa học, công nghệ
Bộ thuỷ sản chủ trì, phối hợp với Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường và các Bộ ngành có liên quan trong việc tập trung nghiên cứu công nghệ cao về di truyền, chọn giống, nhân giống, công nghệ sinh học, xử lí môi trường, chuẩn đoán phòng trừ dịch bệnh, công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch. Khuyến khích các DN NK các bí quyết công nghệ, công nghệ cao từ các nước phát triển; đâu tư nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới về nuôi trồng, khai thác và chế biến XK.
5) Về đổi mới quan hệ sản xuất và đào tạo cán bộ
Sắp xếp và đổi mới các DN nhà nước theo hướng đẩy mạnh cổ phần hoá.Khuyến khích các thành phần kinh tế, các hộ gia đình, cá nhân đâu tư vào phát triển thuỷ sản, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác trong việc chế biến thức ăn, nuôi trồng, khai thác và chế biến hải sản XK. Tăng cường và mở rộng đào tạo trong và ngoài nước cho cán bộ nghiên cứu, cán bộ quản lí và kĩ thuật, công nhân kĩ thuật…
6) Chính sách đầu tư
Vốn ngân sách nhà nước đầu tư vào: xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật gồm đê bao, kênh cấp thoát nước cấp 1, cống và trạm bơm lớn, hệ thống cảng cá, chợ cá quốc gia; xây dựng hệ thống trại giống quốc gia; xây dựng, nghiên cứu, phát triển và NK các trang thiết bị, công nghệ phục vụ cho nuôi trồng, khai thác và chế biến XK, phục vụ việc kiểm dịch và kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản. Đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ phục vụ chương trình phát triển XK thuỷ sản.
Vốn tín dụng ưu đãi đầu tư theo kế hoạch nhà nước tập trung vào: xây dựng trại giống cấp cơ sở, kênh cấp và thoát nước cấp 2, cơ sở sản xuất thức ăn cho thuỷ sản, phương tiện khai thác, thiết bị kĩ thuật, nhà máy nước đá cho bảo quản và chế biến thuỷ sản XK; xây dựng, cải tạo, nâng cấp các cơ sở chế biến thuỷ sản XK và chợ cá địa phương.
7) Chính sách thuế
Các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia thực hiện Chương trình phát triển XK thuỷ sản được hưởng các ưu đãi về thuế theo qui định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước và các qui định hiện hành.
8) Về hợp tác đầu tư nước ngoài
Khuyến khích liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất thức ăn và phát triển nuôi trồng, đổi mới công nghệ nuôi, khai thác và chế biến XK. Bộ Thuỷ sản phối hợp với Bộ Kế hoạch và đầu tư và các Bộ, ngành có liên quan trong việc tranh thủ nguồn tài trợ của các nước và các tổ chức quốc tế để có thêm nguồn vốn cho Chương trình phát triển Xk thuỷ sản, trước mắt ưu tiên cho các dự án nuôi trồng thuỷ sản cung cấp nguyên liệu cho XK.
c. Các giải pháp khác
Ngoài các giải pháp về tài chính tín dụng, các chương trình phát triển nuôi trồng và XK thuỷ sản, chính phủ còn đưa ra các giải pháp thiết thực khác như thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án phát triển ngành thuỷ sản, giúp các DN Việt Nam thúc đẩy việc quảng bá thương hiệu thông qua đại diện phòng thương mại ở Nhật Bản. Nắm được thực tế là các mặt hàng thuỷ sản của ta có chất lượng khác biệt so với sản phẩm của các nước khác NK vào Nhật Bản nhưng sự khác biệt này lại không được các bạn hàng người Nhật biết đến bởi sản phẩm của ta chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này, chưa xây dựng được một địa chỉ tin cậy cũng như một thương hiệu rõ ràng (ta thấy không chỉ có thuỷ sản mà hầu hết các sản phẩm XK của Việt Nam đều không có đăng kí bảo vệ bản quyền và xây dựng thương hiệu. Mặt trái là nhiều sản phẩm có chất lượng của ta bị làm nhái_ ví dụ như nước mắm Phú Quốc bị làm giả ở Thái Lan_làm cho giá trị XK bị giảm sút. Nhà nước ta đã phát động cuộc thi “hãy xây dựng thương hiệu cho sản phẩm Việt Nam” và tổ chức nhiều cuộc hội chợ triển lãm nhằm giới thiệu, quảng bá thương hiệu Việt ngay tại nước Nhật. Mặt khác, việc viếng thăm của quan chức hai bên đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp xúc với các bạn hàng Nhật Bản từ đó thúc đẩy hơn nữa việc buôn bán giao thương giữa hai nước. Chiều 9/3/2004, hội thảo xúc tiến buôn bán thuỷ sản Việt-Nhật do cơ quan thương mại Việt Nam tại Nhật Bản cùng VASEP phối hợp tổ chức đã diễn ra tại Chiba (Nhật Bản) với sự tham dự của gần 60 DN hai nước. Nhiều DN Nhật Bản cũng mong muốn sẽ có thêm cơ hội hợp tác kinh doang trong tương lai. Nhân dịp này, một số DN thuộc VASEP đã giới thiệu những mặt hàng có thế mạnh trên thị trường trong và ngoài nước tại Hội chợ triển lãm thực phẩm FOODEX-2004 tổ chức tại tỉnh Chiba từ 9-21/3/2004. Đây cũng là cơ hội cho các nhà XK thuỷ sản Việt Nam tăng kim ngạch XK thuỷ sản sang thị trường này trong thời gian tới. Trong năm 2004, Bộ thuỷ sản đang tập trung triển khai thực hiện các giải pháp như nâng cao năng lực xúc tiến thương mại cho các DN, xây dựng thương hiệu thuỷ sản cho một số sản phẩm chính như tôm, cá basa, đồng thời tăng cường tổ chức các cuộc hôi thảo, tham gia hội chợ Quốc tế nhằm mở rộng thị trường XK.
3.2. Các giải pháp thâm nhập và thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản
3.2.1. Giải pháp của doanh nghiệp
a. Giải pháp thâm nhập thị trường Nhật Bản
Mặc dù nhu cầu NK thuỷ sản của Nhật Bản là rất lớn nhưng hiện nay thị trường thuỷ sản của Nhật Bản đã chật chội với các đại lí, các công ty XK thuỷ sản của Indonesia, Thái Lan, Trung Quốc, Mỹ..., kể cả các DN thuỷ sản Nhật. Mỗi DN đó đều có một lợi thế cạnh tranh riêng về giá, sản phẩm, chất lượng hay uy tín, dịch vụ sau bán. Ngoài ra, để có thể thâm nhập vào một thị trường khó tính như Nhật Bản thì DN còn phải vượt qua những rào cản về tài chính, luật pháp, ngôn ngữ, văn hoá… Vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản trong thời gian hiện nay đối với các DN là rất khó khăn. Bên cạnh sự hỗ trợ của chính phủ, các hiệp hội thuỷ sản Việt Nam và kinh nghiệm của các DN XK thuỷ sản đi trước, các DN cần phải tìm cho mình cho mình một hướng đi thích hợp để thâm nhập vào thị trường này.
1) Tìm hiểu kĩ đặc điểm thị trường
Nghiên cứu, tìm hiểu thị trường là bước đầu tiên khi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61061.doc