Nhóm tỷ số tiền mặt thể hiện mức đóng góp của từng dòng thu trong tổng các dòng thu tiền mặt trong kỳ. Như đã nói ở trên, tiền mặt có thể thu được từ 3 nguồn: từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Tỷ số tiền mặt được tính bằng luồng tiền thu được từ mỗi loại hình hoạt động trên tổng luồng tiền thu được trong kỳ. Khi trình bày các tỷ số này qua các năm chúng ta có thể nhận biết được sự thay đổi của vốn tiền mặt được tạo ra. Nếu các khoản mục tạo ra tiền chủ yếu là do các hoạt động kinh doanh đem lại, chẳng hạn như từ lợi nhuận ròng hay giảm các khoản phải thu thì đó là dấu hiệu của một cơ chế quản lý tốt và người quản lý có thể an tâm về việc sử dụng vốn tiền mặt trong kỳ đó. Khi đó tài sản của doanh nghiệp được tài trợ chính từ kết quả hoạt đông sản xuất kinh doanh-chức năng chính của doanh nghiệp. Còn nếu tiền mặt được tạo ra chủ yếu từ các hoạt động khác như từ việc bán chứng khoán đầu tư, vay mượn, từ việc phát hành trái phiếu. thì người quản lý có thể nhận được dấu hiệu không bình thường về tình hình vốn tiền mặt nói riêng và tình hình hoạt động nói chung của doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là việc sử dụng vốn tiền mặt trong kỳ chủ yếu dựa vào bên ngoài, những nguồn mang tínhchất tạm thời hơn là từ nội lực, từ hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc sử dụng vốn tiền mặt trong kỳ tới cần phải được điều chỉnh.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5155 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ý nghĩa và vai trò của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lai, các hợp đồng có kỳ hạn...
Lưu chuyển tiền tệ từ các hoạt động tài chính
Nếu việc tách biệt các luồng tiền phát sinh từ các hoạt động đầu tư thể hiện phạm vi mà các chi phí đã được thực hiện cho các nguồn dự định sẽ tạo ra lợi nhuận và các luồng tiền trong tương lai, thì việc tách biệt các luồng tiền từ các hoạt động tài chính sẽ rất hữu dụng trong việc dự đoán các khoản mà những người cung cấp vốn cho doanh nghiệp đòi hỏi trong các luồng tiền tương lai. Các luồng tiền phát sinh từ các hoạt động tài chính bao gồm: tiền ròng thu được từ việc phát hành cổ phiếu hay các công cụ về vốn khác; tiền trả cho các chủ sở hữu để mua hay thanh toán các cổ phiếu của doanh nghiệp; tiền ròng thu được từ việc phát hành trái phiếu, nợ, thương phiếu, tính phiếu, thế chấp và các khoản vay ngắn hạn hay dài hạn khác; tiền trả cho các khoản đã vay...
Doanh nghiệp lập báo cáo riêng biệt các loại chính của tổng số tiền thu và tổng số tiền chi phát sinh từ các hoạt động đầu tư, tài chinh. Trong doanh nghiệp, ngoài các hoạt động chính phát sinh từ hoạt động kinh doanh, đầu tư hay tài chính, đôi khi các luồng tiền phát sinh liên quan đến các khoản mục bất thường, hay những trường hợp được xem là đặc biệt như các luồng tiền có nguồn gốc từ ngoại tệ, các vấn để phát sinh từ lãi vay và cổ tức, vấn đề góp vốn vào các xí nghiệp và các hoạt động mua bán cổ phần giữa các xí nghiệp, các cơ sở kinh doanh khác.
Các luồng tiền liên quan đến các khoản mục này được thuyết trình riêng biệt với các khoản mục phát sinh từ các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư hay hoạt động tài chính trong BCLCTT nhằm giúp cho người sử dụng có thể hiểu được bản chất và ảnh hưởng của chúng tới luồng tiền của các doanh nghiệp hiện tại và trong tương lai.
Ngoài các thông tin trên bắt buộc phải có trong mọi BCLCTT thì các doanh nghiệp cũng nên cung cấp thêm những thông tin khác mặc dù không mang tính chất bắt buộc. Những việc bổ xung thuyết trình các thông tin này sẽ giúp cho người sử dụng báo cáo tài chính đánh giá được dễ dàng tình hình tài chính tiền tệ của doanh nghiệp, cũng như đáp ứng mục đích cần quan tâm. Ví dụ thông tin về tổng số các luồng tiền phát sinh từ việc đầu tư để gia tăng khả năng, phương tiện sản xuất kinh doanh; đầu tư để duy trì khả năng, phương tiện sản xuất kinh doanh... sẽ giúp cho những người sử dụng báo cáo biết được là doanh nghiệp đã có chính sách đầu tư để duy trì hoặc gia tăng sản xuất kinh doanh có phù hợp hay không. Từ đó biết rõ hơn mối quan hệ giữa các luồng tiền tổng thể trong doanh nghiệp và các luồng tiền của từng thành phần cấu thành trong doanh nghiệp. Nội dung được trình bày theo các biểu mẫu của chuẩn mực kế toán IAS7:
BCLCTT theo phương pháp trực tiếp:
I. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh (A-B)
A.Tổng thu = (1)+(2)+(3)
Tiền thu từ việc bán hàng
Tiền thu từ các khoản nợ phải thu
Tiền thu từ các khoản khác
B. Tổng chi =(1)+(2)+(3)+(4)+(5)
1,Tiền đã trả cho người bán
2.Tiền đã trả cho công nhân viên
3.Tiền đã nộp thuế và các khoản khác cho nhà nước
4.Tiền đã trả cho các khoản nợ khác
5.Tiền đã trả cho các khoản khác
II. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư (A-B)
A. Tổng số tiền thu vào từ các hoạt động đầu tư (=(1)+(2)+(3))
Tiền thu hồi các khoản đầu tư vào đơn vị khác
Tiền thu từ lãi các khoản đầu từ vào đơn vị khác (lợi tức, cổ tức v.v..)
Tiền thu do bán TSCĐ
Tổng số tiền chi ra từ các hoạt động đầu tư (=(1)+(2)+(3))
1.Tiền đầu tư vào các đơn vị khác
2.Tiền mua TSCĐ
3.Tiền chi cho hoạt động thanh lý nhượng bán TSCĐ
III. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính (A-B)
Tổng số tiền thu từ hoạt động tài chính (=(1)+(2)+(3))
Tiền thu do đi vay
Tiền thu do các chủ sở hữu đóng góp
Tiền thu từ lãi tiền gửi, thu từ việc phát hành cổ phiếu, thu từ các khoản vay dài hạn
Tổng số tiền chi từ hoạt động tài chính (=(1)+(2)+(3))
Tiền đã trả nợ vay
Tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp
Trả nợ thuê tài chính
IV.Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ (=(I)+(II)+(III))
BCLCTT theo phương pháp gián tiếp
I. Luồng tiền từ hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận trước thuế
Điều chỉnh cho:
Cộng các khoản
Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ của các tài khoản phản ánh dự phòng
Khấu hao TSCĐ
Lỗ do bán TSCĐ
Lỗ do đầu tư vào đơn vị khác
Lỗ do đánh giá lại tài sản và chuyển đổi tiền tệ
Trừ các khoản
Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn số dư đầu kỳ của các tài khoản phản ánh dự phòng
Thu lãi tiền gửi
Lãi do bán TSCĐ
Lãi do đầu tư vào đơn vị khác
Lãi do đánh giá lại TSCĐ
Lợi nhuận kinh doanh trước những thay đổi của vốn lưu động (=A+B-C)
Cộng (+)
Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của các khoản phải thu
Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của hàng tồn kho
Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của các khoản phải trả
Tiền thu từ các khoản khác
Trừ (-)
Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của các khoản phải thu
Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của hàng tồn kho
Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của các khoản phải trả
Tiền chi từ các khoản khác
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh (=D+E+F)
II. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư (A-B)
Tổng số tiền thu vào từ hoạt động đầu tư (=(1)+(2)+(3))
Tiền thu hồi các khoản đầu tư vào đơn vị khác
Tiền thu từ lãi các khoản đầu tư vào đơn vị khác (lợi tức, cổ tức...)
Tiền thu do bán TSCĐ
Tổng số tiền chi ra từ hoạt động đầu tư (=(1)+(2)+(3))
Tiền đầu tư vào các đơn vị khác
Tiền mua TSCĐ
Tiền chi cho hoạt động thanh lý, nhượng bán TSCĐ
III. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính (A-B)
Tổng số tiền thu từ hoạt động tài chính
Tiền thu do đi vay
Tiền thu do các chủ sở hữu đóng góp
Tiền thu từ lãi tiền gửi, thu từ việc phát hành cổ phiếu, thu từ các khoản vay dài hạn
Tổng số tiền chi từ hoạt động tài chính (=(1)+(2)+(3))
Tiền đã trả nợ vay
Tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
Trả nợ thuê tài chính...
IV. Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ (=(I)+(II)+(III))
Có thể nói, nội dung của một BCLCTT đã nêu lên được rất nhiều vấn đề trong một doanh nghiệp, đáp ứng được khá nhiều thông tin mà những người cần quan tâm tới tình hình tài chính của doanh nghiệp có thể tìm thấy.
II. yêu cầu phải lập BCLCTT trong các doanh nghiệp Việt Nam
1. ý nghĩa thực tiễn của BCLCTT
Để thấy được việc lập BCLCTT là cần thiết, chúng ta phải thấy được vai trò của nó. Vai trò của BCLCTT được thể hiện trên các mặt sau:
BCLCTT - một công cụ phân tích vốn bằng tiền
BCLCTT được lập ra là để phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền trong doanh nghiệp. Vì vậy BCLCTT phải được sử dụng trước hết như một công cụ để phân tích vốn bằng tiền.
Vốn bằng tiền là một bộ phận tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp. Nó tham gia vào hầu hết các hoạt động của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn bằng tiền được sử dụng để đáp ứng nhu cầu về thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp hoặc mua sắm vật tư, hàng hoá vừa là kết quả của việc mua bán hoặc thu hồi các khoản nợ. Qua phân tích tình hình sử dụng vốn bằng tiền, chúng ta có thể biết được chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Và để tìm hiểu tình hình sử dụng vốn bằng tiền trong kỳ chúng ta có thể đánh giá tình hình thanh toán với người bán, thanh toán với người mua, thanh toán với ngân sách, tìm hiểu các khoản nợ quá hạn... Việc đánh giá các khoản mục liên quan đến các dòng tiền mặt sẽ giúp cho việc phân tích những gì đã xảy ra liên quan đến tình hình sử dụng vốn tiền mặt trong kỳ. BCLCTT sẽ cung cấp cho ta những thông tin đầy đủ về vấn đề này.
Một cách tổng quát, sự vận động của tiền mặt bao gồm hai mặt: tăng và giảm hay nói cách khác là thu và chi. BCLCTT cung cấp những con số phản ánh sự vận động của tiền. Thông tin cơ bản nhất mà chúng ta thu được từ BCLCTT là lượng tiền tăng và giảm trong kỳ. Nhưng điều quan trọng hơn là thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa các con số, người quản lý biết được những nguyên nhân, những biến động làm ảnh hưởng đến tình hình tăng, giảm vốn tiền mặt đó. Thực tế thì sự tăng giảm tiền mặt của doanh nghiệp có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn như tiền mặt tăng có thể là kết quả của việc tiêu thụ sản phẩm hay việc thu được các khoản nợ hoặc cũng có thể là từ việc bán các tài sản cố định... Tương tự như vậy, tiền mặt giảm trong kỳ có thể là do chi mua hàng, chi mua sắm các tài sản cố định hay trang trải các khoản nợ... Mặt khác, việc phân chia luồng tiền trên BCLCTT theo từng lĩnh vực hoạt động cũng đem lại cho chúng ta những thông tin hữu ích. Nó cho biết mức đóng góp của từng lĩnh vực hoạt động vào vốn bằng tiền của doanh nghiệp.
Đối với bất cứ doanh nghiệp nào thì việc phân tích chính xác về sự hình thành và sử dụng vốn bằng tiền cũng rất quan trọng. Người quản lý cần phải nắm được luồng tiền vào, ra của doanh nghiệp đã hợp lý hay chưa để có sự điều chỉnh kịp thời, phù hợp. Thực tế, để phục vụ cho việc phân tích, người ta thường thiết lập các tỷ số tiền mặt dựa trên mối quan hệ giữa các bộ phận, các khoản mục của bản báo cáo. Chẳng hạn, chúng ta có thể thiết lập các tỷ số sau:
_ Nhóm tỷ số tiền mặt thể hiện mức đóng góp của từng dòng thu trong tổng các dòng thu tiền mặt trong kỳ. Như đã nói ở trên, tiền mặt có thể thu được từ 3 nguồn: từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Tỷ số tiền mặt được tính bằng luồng tiền thu được từ mỗi loại hình hoạt động trên tổng luồng tiền thu được trong kỳ. Khi trình bày các tỷ số này qua các năm chúng ta có thể nhận biết được sự thay đổi của vốn tiền mặt được tạo ra. Nếu các khoản mục tạo ra tiền chủ yếu là do các hoạt động kinh doanh đem lại, chẳng hạn như từ lợi nhuận ròng hay giảm các khoản phải thu thì đó là dấu hiệu của một cơ chế quản lý tốt và người quản lý có thể an tâm về việc sử dụng vốn tiền mặt trong kỳ đó. Khi đó tài sản của doanh nghiệp được tài trợ chính từ kết quả hoạt đông sản xuất kinh doanh-chức năng chính của doanh nghiệp. Còn nếu tiền mặt được tạo ra chủ yếu từ các hoạt động khác như từ việc bán chứng khoán đầu tư, vay mượn, từ việc phát hành trái phiếu... thì người quản lý có thể nhận được dấu hiệu không bình thường về tình hình vốn tiền mặt nói riêng và tình hình hoạt động nói chung của doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là việc sử dụng vốn tiền mặt trong kỳ chủ yếu dựa vào bên ngoài, những nguồn mang tínhchất tạm thời hơn là từ nội lực, từ hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc sử dụng vốn tiền mặt trong kỳ tới cần phải được điều chỉnh.
_ Nhóm tỷ số tiền mặt liên quan đến việc thanh toán các khoản nợ. Mục đích của việc lập nhóm tỷ số tiền mặt này là để biết trong tổng số tiền mặt thu được trong kỳ doanh nghiệp đã thanh toán các khoản nợ là bao nhiêu, tỷ số này có thể lớn hơn hoặc bé hơn 1. Nếu lớn hơn 1 thì có nghĩa là doanh nghiệp mở rộng sử dụng các khoản nợ trong cơ cấu nguồn vốn của mình. Còn nếu bé hơn 1 thì doanh nghiệp đang giảm dần các khoản nợ. Tuỳ từng giác độ của doanh nghiệp mà đánh giá chiều hướng nào là tiêu cực hay tích cực. Chẳng han, nếu xét về giác độ tự chủ trong kinh doanh thì giá trị bé hơn 1 sẽ có lợi hơn còn xét về giác độ chiếm dụng vốn thì tình hình lại ngược lại.
_ Nhóm tỷ số tiền mặt phản ánh việc chi tiền mặt mua sắm TSCĐ từ vốn bằng tiền. Tỷ số này cao hay thấp là tốt tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp. Chẳng hạn, nếu là doanh nghiệp thì tỷ số này cao sẽ không tốt vì TSCĐ có tốc độ chu chuyển vốn chậm mà lợi nhuận của doanh nghiệp thương mại tỷ lệ thuận với vòng quay của vốn. Vì vậy, tốt hơn là doanh nghiệp dùng tiền vào mua sắm hàng hoá và tăng cường các biện pháp thúc đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hoá...
Một vài loại tỷ số nói trên đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích vốn bằng tiền nói riêng và trong hệ thống tài chính nói chung. Ngoài ra, chúng ta có thể lập những tỷ số rất hữu ích khác như tỷ số phản ánh dòng thu tiền mặt từ khấu hao, tỷ số liên quan đến việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt... Các tỷ số này kết hợp với các thông tin từ các bảng báo cáo tài chính khác sẽ giúp cho người quản lý có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
Như vây, BCLCTT thực sự là một công cụ phân tích tài chính hữu ích. Nó cung cấp những thông tin quan trọng cho những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp rất đa dạng. Đó không chỉ là người quản lý doanh nghiệp, các cơ quan quản lý chức năng mà còn là những nhà đầu tư, các nhà cung cấp tín dụng, công nhân viên, các kiểm toán viên độc lập... BCLCTT có thể giúp họ có được những quyết định đúng đắn, hợp lý nhất.
BCLCTT - cơ sở ra quyết định của những người sử dụng báo cáo.
Báo cáo tài chính nói chung và BCLCTT nói riêng là nguồn thông tin quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn phục vụ chủ yếu cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, như các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà đầu tư hiện tại và tương lai, các nhà cung cấp tín dụng, hàng hoá, nhà quản lý doanh nghiệp, công nhân viên của doanh nghiệp, kiểm toán viên độc lập... Do vậy, việc so sánh báo cáo giữa các doanh nghiệp là rất quan trọng trong việc đưa ra quyết định đối với các đối tượng sử dụng báo cáo của doanh nghiệp.
_ Đối với người quản lý của doanh nghiệp, BCLCTT cung cấp những thông tin quan trọng về việc hình thành và sử dụng lượng tiền trong kỳ báo cáo, những nguy cơ cũng như triển vọng về mặt tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, người quản lý doanh nghiệp phân tích, đánh giá những tồn tại và phát hiện khả năng tiềm tàng để có các quyết định quản trị tài chính doanh nghiệp đúng đắn và có hiệu qủa nhất. Ngoài ra, người quản lý có thể sử dụng BCLCTT để thông báo cho các nhà đầu tư, các chủ nợ, các cơ quan nhà nước, công nhân viên... biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp mình, qua đó thuyết phục các đối tượng có liên quan có các quyết định hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong tương lai.
_ Đối với các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước, BCLCTT cung cấp thông tin cần thiết giúp cho việc thực hiện chức năng quản lý vỹ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Chẳng hạn, nhà nước dựa vào BCLCTT để có những chính sách phù hợp đối với từng doanh nghiệp hoặc từng khu vực kinh tế như các chương trình tài trợ hay cấp vốn... Ngoài ra, nó còn là nguồn số liệu quan trọng để cơ quan thống kê tính toán các chỉ tiêu tổng hợp từng ngành, từng địa phương cũng như cả nước, giúp cho các cơ quan tài chính nhà nước thực hiện việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với hoạt động của doanh nghiệp.
_ Đối với các nhà đầu tư hiện tại và tương lai, như các đối tác tham gia liên doanh, các cổ đông thì dựa vào BCLCTT của doanh nghiệp để đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp để họ đưa ra các quyết định sử dụng vốn đầu tư hợp lý trên nguyên tắc cùng có lợi như quyết định tiếp tục đầu tư hay rút vốn, quyết đình nên đầu tư vào doanh nghiệp nào nếu họ đang tìm nơi đầu tư có lợi...
_ Đối với các nhà cung cấp tín dụng, hàng hoá thì thông tin trên BCLCTT là nguồn số liệu để họ phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, từ đó họ có quyết định phương thức cho vay, phương thức thanh toán hợp lý.
_ Đối với công nhân viên của doanh nghiệp, BCLCTT là cơ sở để họ đánh giá tính hợp lý của các khoản thu nhập mà họ được hưởng.
_ Đối với các kiểm toán viên độc lâp, BCLCTT nằm trong hệ thống các báo cáo kế toán của doanh nghiệp là đối tượng kiểm toán của họ.
Như vậy, BCLCTT là một yếu tố quan trọng đối với những người sử dụng thông tin vì nó cung cấp những thông tin quan trọng về tình hình và khả năng tài chính của doanh nghiệp, từ đó mà có được những quyết định đúng đắn. Ngoài ra, việc so sánh BCLCTT giữa các doanh nghiệp cũng giúp họ có những nhận xét xác đáng về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp để đưa ra các quyết định hợp lý đối với từng doanh nghiệp.
2.Thực trạng việc lập BCLCTT hiện nay ở Việt Nam
BCLCTT với chức năng cung cấp thông tin về các vấn đề liên quan đến các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ đã trở thành một trong các báo cáo quan trọng đối với các công ty nước ngoài. Tiền và các khoản có thể chuyển hoá ngay thành tiền có liên quan đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp và nhiều hoạt động khác: Nếu lượng tiền mặt trong doanh nghiệp quá lớn sẽ làm vốn doanh nghiệp bị tồn đọng không thúc đẩy quá trình quay vòng vốn làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị trì trệ thì việc duy trì lượng tiền tồn quá nhỏ sẽ làm doanh nghiệp bị hạn chế trong thanh toán và không nắm được các cơ hội đầu tư trong điều kiện cạnh tranh. Bởi vậy, dành cho tình hình vốn bằng tiền của doanh nghiệp một sự quan tâm nhất định là điều cần thiết. Hiện nay, một số công ty lớn của Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của BCLCTT nhưng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, BCLCTT vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Phần lớn các công ty lập BCLCTT đều là công ty nước ngoài hoặc có sự tham gia góp vốn của nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước chủ yếu chú trọng vào các báo cáo bắt buộc như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh. Họ cũng có sự lưu tâm đến vốn bằng tiền nhưng chỉ lấy thông tin từ các khoản mục về tiền trong bảng cân đối kế toán. Ta có thể thấy rõ sự quan tâm này là chưa đúng mức vì bảng cân đối kế toán chỉ cung cấp những thông tin từ các khoản mục về lượng tiền và một số tỷ suất về khả năng thanh toán mà không cho biết các luồng tiền vào ra từ hoạt động nào, do đâu mà có. Nhìn vào BCLCTT, các nhà quản trị có thể thấy được những chi tiết bất hợp lý và những hoạt động mang lại hiệu quả lớn cho doanh nghiệp.
Có thể thấy, BCLCTT không có nhiều ý nghĩa trong việc cung cấp thông tin về sản xuất kinh doanh nhưng lại mang lại những chỉ dẫn rất cần thiết cho các hoạt động liên quan đến vốn tiền tệ trong tương lai. Nói cách khác, BCLCTT là sự nhìn nhận lại những hoạt động cũ để hướng tới hoạt động tương lai một cách hiệu quả. Việt Nam mới bước vào nền kinh tế thị trường, sự sinh sau đẻ muộn này bên cạnh việc đem lại cho chúng ta một số thuận lợi, tránh được các thất bại và rút được nhiều kinh nghiệm từ các nước đàn anh nhưng cũng không tránh khỏi sự non kém trong công tác quản lý và phân tích kinh doanh mà BCLCTT là một ví dụ.
Trong những năm tới, với sự phát triển không ngừng về kinh tế, với tính chất ngày càng khốc liệt của cạnh tranh và xu hướng gia tăng của đầu tư nước ngoài, chắc chắn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải hoàn thiện hoạt động quản lý và phân tích tài chính của mình ngày càng gần hơn với chuẩn mực của Thế giới; và để ra được các quyết định đúng đẵn thì việc lập BCLCTT là không thể thiếu.
Như vậy trong nên kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao, các mối quan hệ và các hoạt động kinh tế trở nên phức tạp, việc lập BCLCTT để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mang lại những hiệu quả rất lớn cho các hoạt động tương lai. Với tác dụng to lớn của BCLCTT, một câu hỏi đặt ra là tại soa các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều không lập BCLCTT? Có rất nhiều lý do có thể đưa ra để giải thích cho câu hỏi này. Có thể là chưa thoả đáng nhưng nó cũng góp phần để từ đó đưa ra một số phương hướng nhằm đưa BCLCTT áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp Việt Nam để BCLCTT phát huy những mặt tích cực của nó từ đó làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và thúc đẩy nền kinh tế nói chung, tạo điều kiện cho Việt Nam hoà nhập vói thế giới về chế độ tài chính và các hoạt động hợp tác về kinh tế.
ở tầm vĩ mô, có thể nói tới nguyên nhân mang tính chất chi phối, đó là sự non trẻ của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Bước vào nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam có rất ít kinh nghiệm hoạt động trong môi trường mới. Tính thụ động, thiếu nhạy bén do ảnh hưởng của điều kiện cũ cộng với việc không đưa việc lập BCLCTT thành việc làm có tính chất bắt buộc đã trở thành nguyên nhân tất yếu của việc không thấy rõ lợi ích do BCLCTT mang lại. Và như vậy, một mặt các doanh nghiệp Việt Nam không tìm thấy mối lợi của việc lập BCLCTT, mặt khác, BCLCTT đòi hỏi trình độ nhân viên cao; có thể thấy, dựa trên sự nhìn nhận của các doanh nghiệp Việt Nam, phải thuê thêm nhân viên để lập một bảng báo cáo không cần thiết là việc bất hợp lý. Vì thế, việc không lập BCLCTT ở phẩn lớn các doanh nghiệp Việt Nam là điều dễ hiểu. Trên thực tế, với những hiều biết còn nhiều hạn chế về nền kinh tế thị trường và sự thiếu kinh nghiệm trong hoạt động kinh tế, các nhà quản trị Việt Nam chỉ ra những quyết đinh dựa trên các báo cáo cơ bản bắt buộc và tiến hành chỉ đạo một cách cảm tính mà ít tiến hành phân tích tình hình tài chính. Phần lớn cách quản lý của họ là xác định các kế hoạch dựa vào các chỉ tiêu đạt được năm cũ. Cách quản lý này rõ ràng không năng động và kém hiệu quả do các kế hoạch được xác định không thể thay đổi linh hoạt khi có những cơ hội thị trường hay có những điều kiện biến đổi.
Một nguyên nhân khác dẫn đến sự không cần thiết lập BCLCTT là các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khu vực kinh tế Nhà nước ít kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài. Thêm vào đó, các doanh nghiệp không gặp phải khó khăn nào từ việc không lập BCLCTT khi vay ngân hàng hay thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến việc thanh toán hoặc các nghiệp vụ liên quan đến luồng tiền vào, ra. Nói cách khác, không có bất kỳ một sự đòi hỏi nào từ những hoạt động sử dụng BCLCTT kèm theo sự không bắt buộc lập BCLCTT của Bộ Tài chính càng làm cho việc lập BCLCTT trở nên vô nghĩa đối với các doanh nghiệp.
Với nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, BCLCTT, một công cụ phân tích tài chính, một bản cung cấp thông tin quan trọng giúp người sử dụng phân tích, đánh gí khả năng tài chính của doanh nghiệp trong hiện tại cũng như tương lai để có những quyết định phù hợp đã chưa được phổ biến ở các doanh nghiệp Việt Nam. Với kinh nghiệm dày dạn của mình, các công ty ở nước ngoài hoặc công ty nước ngoài ở Việt Nam đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc phân tích báo cáo này trong việc ra quyết định tài chính. Đây thực sự là một thiệt thòi cũng là điểm yếu cần khắc phục của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong tương lai, với sự lớn mạnh dần của các hãng kinh doanh về kinh nghiệm, khả năng cạnh tranh, BCLCTT chắc chắn sẽ chứng minh được sự cần thiết của nó và nó sẽ trở thành công cụ không thể thiếu của các công ty muốn thành công dù Bộ Tài chính bắt buộc hay không bắt buộc. Đó cũng chính là biểu hiện dần hội nhập của chế độ kinh tế Việt Nam vào chuẩn mực kinh tế thế giới trong tương lai.
3. Sự cần thiết phải lập BCLCTT trong quá trình hội nhập
a) Lập BCLCTT sẽ cung cấp được các thông tin về các luồng tiền vào và ra, tỷ trọng của các luồng tiền trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.
BCLCTT là một trong những báo cáo tài chinhứ không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp trong những nước có nền kịnh tế thị trường nhằm cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Nếu BCĐKT cho biết những nguồn lực tài sản và nguồn gốc của những tài sản đó và BCKQKD cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính được kết qủa lãi, lỗ trong một kỳ thì BCLCTT được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
BCLCTT cung cấp những thông tin về luồng vào, ra của tiền và các khoản coi như tiền, những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng và sẵn sàng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít chịu rủi ro lỗ về giá trị do những sự thay đổi về lãi suất. Những luồng vào ra của tiền và các khoản tương đương tiền như ta đã biết được trong tổng hợp và chia thành 3 nhóm: lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ hoạt động đầu tư và từ hoạt động tài chính. Những con số trên BCLCTT sẽ giúp cho người sử dụng thông tin kế toán của doanh nghiệp có quyết định đúng đắn, từ đó mà nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài trong trường hợp doanh nghiệp có lợi thế về khả năng tài chính hoặc kịp thời có chính sách điều chỉnh nếu tình hình tài chính của doanh nghiệp không được như mong muốn.
b) Đối với các doanh nghiệp đã sử dụng vốn đầu tư nước ngoài thì lập BCLCTT là yếu tố cần thiết để phù hợp với quy định của đối tác.
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là nước đang trong quá trình phát triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Mặc dù cùng với quá trình hoàn thiện dần hệ thống kế toán, ở Việt Nam hiện nay BCLCTT đang ngày càng được coi trọng trong hệ thống các báo cáo kế toán, nhưng ở những nước có nền kinh tế phát triển thì từ lâu BCLCTT đã là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc đối với mọi doanh nghiệp. Do vậy, trong khi hợp tác, liên doanh, liên kết với mước ngoài thì các doanh nghiệp phải tuân theo sự thoả thuận của hai bên trong đó hầu hết các chủ đầu tư nước ngoài đều đòi hỏi doanh nghiệp phải lập BCLCTT nhằm phù hợp với quy định của nước họ đồng thời có thể cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp cho tất cả những cổ đông đã góp vốn đầu ra vào doanh nghiệp.
c) Nếu thiếu BCLCTT thì chưa đá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100014.doc